Đừng để tù tội vì xiết nợ trái phép

Con gái tôi có nhận hàng may gia công cho một người chủ là bà A. Sau một thời gian làm việc, bà A có nợ con gái tôi một số tiền công khoảng trên 20 triệu đồng. Do đã rất nhiều lần đòi nhưng bà A không trả và còn có nhiều lời lẽ ngang ngược, con gái tôi đã rủ hai người bạn đến nhà bà A để đòi nợ. Tại nhà bà A, do quá bức xúc, hai bên đã có xô xát, con gái tôi có dùng tay tát bà A mấy cái, sau đó cùng hai người bạn mang một số đồ dùng gia đình của nhà bà kia về để trừ nợ. Bà A đã gửi đơn tố cáo ra cơ quan công an. Hiện nay, Cơ quan công an đã khởi tố và bắt giam con gái tôi cùng hai người bạn cùng đi về tội cướp tài sản. Tôi xin hỏi luật sư tại sao bà A nợ con gái tôi tiền không chịu trả, con gái tôi chỉ đến để đòi nợ, và số tài sản cháu lấy của nhà bà A để trừ nợ giá trị còn chưa bằng số tiền nợ thì tại sao lại có thể gọi là cướp tài sản? Xin Luật sư trả lời giúp, tôi rất cảm ơn! Trantien78…@gmail.com Trả Lời

 

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì “ Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Ngoài ra, tùy tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Có thể thấy, Luật không ấn định cụ thể mức giá trị tài sản bị chiếm đoạt, miễn là có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản ( bất kể bao nhiêu) thì phạm vào tội cướp tài sản. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt ít hay nhiều không làm ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội mà chỉ có ý nghĩa về định khung hình phạt.

Theo lời trình bày của anh thì bà A có nợ con gái anh một số tiền công khoảng trên 20 triệu đồng. Quan hệ này là quan hệ dân sự, nếu bà A không chịu thực hiện trách nhiệm trả nợ, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con gái anh thì con gái anh có quyền khởi kiện bà A ra tòa dân sự theo để yêu cầu bà A thực hiện nghĩa thanh toán theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên con gái anh đã có hành vi đưa hai người bạn đến nhà bà A đòi nợ, dẫn đến tranh chấp, xô xát, và con gái anh đã có hành vi dùng vũ lực – tát vào mặt bà A, sau đó cùng hai người bạn tự ý lấy đi tài sản trong gia đình bà. Mặc dù bà A không đồng ý để con gái anh cùng hai người bạn lấy tài sản của bà nhưng thực tế bà đã bị đánh và không thể một mình chống cự lại được hành vi vi phạm của cả ba người.

Từ thực tiễn vụ việc có thể thấy con gái anh đã có hành vi dùng vũ làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản như quy định tại Khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự quy định về tội cướp tài sản. 

Vì vậy, về mặt lý con gái anh có quyền đòi nợ nhưng trên phương diện pháp luật, hành vi của con gái anh đã có dấu hiệu cấu thành tội  cướp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự. Việc Cơ quan công an tiến hành khởi tố, bắt giam con gái anh cùng hai người bạn cùng đi về tội cướp tài sản là có cơ sở pháp lý.

Hiện tại, Luật Sư Online khuyên anh nên trả lại cho bà A số tài sản mà con gái anh và hai người bạn đã lấy của bà để được Toà xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ Luật Hình Sự. Ngoài ra, trong thời gian con gái anh bị tạm giam, anh có thể liên hệ với cơ quan điều tra yêu cầu được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh hoặc  đặt tiền, tài sản có giá trị để bảo đảm theo quy định tại Điều 92, Điều 93 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự để con gái anh được tại ngoại trong thời gian chờ điều tra, xét xử.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
212 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào