Trường hợp nào thì công an điều tra ra thêm lệnh tạm giam?

Xin được hỏi con gái tôi phạm tội "lợi dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản" bị khởi kiện bắt tạm giam từ 8/3/2019. Thời hạn tạm giam lần đầu 4 tháng và từ đó đến nay đã bổ sung thêm 2 lần tạm giam. Vậy xin chuyên viên cho biết trong trường hợp nào thì công an điều tra ra thêm lệnh tạm giam? Xin cảm ơn

Căn cứ Khoản 1 Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sư 2015 quy định về thời hạn tạm giam để điều tra, như sau:

1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo thông tin bạn cung cấp thì thời hạn tạm giam lần đầu đối với con gái bạn là 04 tháng nhưng bạn không cung cấp thông tin con gái bạn phạm tội "lợi dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản" ở mức độ phạm tội nào.

Kết hợp với quy định trên, chúng tôi nhận thấy: con gái bạn phạm tội ở mức độ tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghêm trọng.

Theo đó, tại Khoản 2 Điều này quy định:

Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.

Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:

...

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

Theo thông tin bạn cung cấp thì ngoài thời gian tạm giam lần đầu thì cơ quan công an đã tiến hành gia hạn tam giam 2 lần, như vậy có thể kết luận con bạn phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, vì tội rất nghiệm trọng thì chỉ có thể gia hạn thêm 1 lần thôi.

Vậy thì căn cứ tiếp Khoản 6, 7 Điều này có quy định như sau:

6. Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng; trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.

7. Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Như vậy, tùy vào trường hợp cần thiết, không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng; trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi.

Trân trọng!

 

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
277 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào