Bỏ con mới đẻ ở chùa có vi phạm pháp luật không?

Anh chị cho em hỏi: Em đã có thai được 8 tháng, còn 1 tháng nữa là sinh con nhưng việc em mang thai với bạn trai em đã giấu gia đình không dám cho bố mẹ hai bên biết. Em sợ là sẽ có điều tiếng khi chưa chồng mà có con nhưng vì cái thai quá lớn nên em và bạn trai dự định sinh xong sẽ để con ở trước cổng chùa cho các sư thầy chăm sóc. Chúng em không biết việc bỏ con mới sinh như vậy thì có vi phạm pháp luật gì không? Mong anh chị tư vấn trường hợp của em, em cảm ơn anh chị rất nhiều

Theo Luật Hôn Nhân và Gia Đình 2014 và Luật Trẻ em 2016 thì cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Pháp luật nghiêm cấm bố mẹ bỏ rơi con của mình.

Tùy vào mức độ của hành vi và hậu quả có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Xử phạt hành chính:

Theo quy định tại Điểm a, c Khoản 1 và Khoản 2 Điều 22 Nghị định 144/2013/NĐ-CP thì:

1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Bỏ hoặc không chăm sóc, nuôi dưỡng con sau khi sinh;

c) Cha, mẹ; người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ em ở nơi công cộng, bỏ mặc hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt.

...

2. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật đối với cha, mẹ, người giám hộ có hành vi vi phạm tại Khoản 1 Điều này.

Tuy nhiên, nếu không may, đứa trẻ bị bỏ rơi chết thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự theo từng trường hợp sau đây:

- Nếu đứa trẻ bị bỏ rơi trên 7 ngày tuổi thì tùy theo việc xác định mức độ lỗi của người bỏ rơi con có thể cấu thành tội giết người (Điều 123 Bộ luật hình sự 2015) hoặc tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật hình sự 2015).

- Nếu đứa trẻ dưới 7 ngày tuổi, người mẹ bỏ rơi con dẫn đến hậu quả đứa trẻ tử vong thì hành vi sẽ cấu thành tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định tại Điều 124 Bộ luật hình sự 2015. Theo đó:

+ Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

+ Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Do đó các bạn nên suy nghĩ cẩn thận và đưa ra quyết định phù hợp cho bản thân mình cũng như đứa trẻ vô tội, tránh trường hợp vướng vào vòng lao lý.

Ban biên tập thông tin đến bạn!

Trân trọng!

Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
Hỏi đáp mới nhất về Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
Hỏi đáp Pháp luật
Sinh con ra rồi bỏ rơi con bị xử lý như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Có phải chịu trách nhiệm hình sự khi sinh con xong để con trước cửa nhà dân không?
Hỏi đáp pháp luật
Quy định về tội giết con mới đẻ
Hỏi đáp pháp luật
Tội giết con mới đẻ
Hỏi đáp pháp luật
Giết con mới đẻ bị xử lý ra sao?
Hỏi đáp pháp luật
Mức án đối với Tội giết con mới đẻ
Hỏi đáp pháp luật
Hiểu như thế nào về tội giết con mới đẻ?
Hỏi đáp pháp luật
Vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ chết
Hỏi đáp pháp luật
Bỏ rơi con mới đẻ bị xử lý ra sao?
Hỏi đáp pháp luật
Giết con mới đẻ xử lý ra sao?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
Thư Viện Pháp Luật
350 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào