Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài
The quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-TANDTC-BLĐTBXH-VKSDTC hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại Tòa án nhân dân do Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành. thì nội dung này được quy định như sau:
1. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bị xâm phạm.
Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo hướng dẫn tại mục 2 Phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Trường hợp tranh chấp hợp đồng bảo lãnh mà các bên không thoả thuận được với nhau về thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng theo quy định tại Điều 56 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thì doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài có quyền ấn định thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong một thời hạn hợp lý, khi hết thời hạn đã được thông báo đó mà người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bị xâm phạm.
Ví dụ: doanh nghiệp A có ký kết hợp đồng bảo lãnh với người bảo lãnh B về việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và đã phát sinh việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng hai bên không thỏa thuận được với nhau về thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Ngày 22-9-2009, người bảo lãnh B nhận được yêu cầu của doanh nghiệp A về việc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn ba mươi ngày. Hết ngày 22-10-2009, người bảo lãnh B không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thông báo của doanh nghiệp A thì ngày 22-10-2009 là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp A bị xâm phạm và thời hiệu khởi kiện là 2 năm được bắt đầu tính từ ngày 23-10-2009 cho đến hết ngày 23-10-2011.
Trên đây là nội dung tư vấn về thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này vui lòng tham khảo thêm tại Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-TANDTC-BLĐTBXH-VKSDTC.
Trân trọng!
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Tết Dương lịch 2025 được nghỉ mấy ngày? Tết Dương lịch 2025 là ngày mấy âm lịch?
- Sau khi ly hôn có được quyền ngăn cản đối phương đến thăm con không?
- Chế lời Quốc ca bị truy cứu trách nhiệm hình sự bao nhiêu năm tù?
- Theo Luật Đất đai 2024, trường hợp nào Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê?
- Đáp án Cuộc thi Cán bộ Hội cơ sở giỏi tìm hiểu pháp luật, tuyên truyền về bình đẳng giới năm 2024 huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh?