Tiền tuất, tiền phúng viếng có phải là di sản?

Một tháng sau ngày cha tôi mất có bà KL đến đưa ra tờ giấy phôtô yêu cầu tôi trả nợ số tiền là 84 triệu đồng mà bà KL đã cho cha tôi mượn lúc còn sống. Tôi và gia đình không đồng ý trả vì việc mượn nợ này không ai biết, giấy nợ là giấy phôtô. Do đó gia đình tôi không đồng ý trả và yêu cầu bà KL khởi kiện tại tòa để giải quyết. Bà KL có đến tòa án để kiện nhưng do không đủ điều kiện nên tòa không nhận đơn. Trong nội dung đơn kiện, bà KL có yêu cầu tôi là con phải lấy tiền tuất, tiền phúng điếu để trả cho bà. Sau khi bị tòa án trả đơn kiện, bà KL đi photocopy giấy tờ phát cho nhiều người nói xấu, vu khống tôi và nhiều lần vào nơi làm việc của tôi chửi bới, làm nhục tôi... Tôi đã phản ảnh vụ việc và gửi đơn nhiều lần đến công an nhưng không được giải quyết. Tôi xin hỏi một số nội dung sau đây: - Việc bà KL đòi nợ và yêu cầu tôi phải lấy tiền tuất, tiền điếu, tiền hỗ trợ mai táng của công đoàn để trả bà là đúng hay sai? Xin cho biết rõ các số tiền nói trên phải là di sản hay không và nếu bà ta giả mạo giấy tờ, giả mạo việc mượn tiền trên thì bị xử lý như thế nào? - Việc tôi bị bà KL làm nhục nhiều lần tại nơi công cộng và tại cơ quan tôi sẽ bị xử lý như thế nào?

Việc đòi nợ trong trường hợp này là chưa phù hợp quy định của pháp luật nên tòa án mới không thụ lý đơn khởi kiện của bà KL.

Khoản 1 Điều 611 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”. Do vậy, tiền tuất, tiền phúng điếu, tiền hỗ trợ mai táng cho người đã chết không phải là di sản của người chết. Việc bà KL yêu cầu dùng những loại tiền trên để thanh toán cho người đã khuất là không phù hợp với quy định của BLDS 2015.

Bạn đọc hỏi về hành vi giả mạo chữ ký cha của độc giả trên giấy cho vay mượn tiền thì bị xử lý thế nào, tôi thấy rằng do mục đích của hành vi này chưa rõ ràng, hậu quả cũng chưa xảy ra nên rất khó xác định. Nếu hành vi trên thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành theo quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì bà KL sẽ bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc có thể bị xử phạt hành chính tùy theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm.

Việc bạn bị bà KL nhiều lần chửi bới, làm nhục nơi công cộng và tại nơi làm việc mà công an, hay bảo vệ nơi bạn công tác không can thiệp là có vấn đề, có thể do cách bạn phản ánh chưa phù hợp. Hành vi lăng mạ, chửi rủa thậm tệ hoặc có hành vi đe dọa vũ lực …đối với người khác ở nơi đông người nhằm nhục mạ để gây áp lực buộc người đó phải làm theo ý muốn của mình có thể bị xử lý hình sự về tội Làm nhục người khác theo quy định tại Điều 121 Bộ luật hình sự 1999. Để có cơ sở chứng minh vững chắc cho yêu cầu của mình, khi bà KL có hành vi như trên, bạn cần nhờ thừa phát lại lập vi bằng về sự việc, vi bằng sẽ là bằng chứng xác đáng cho việc tố cáo của bạn.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
250 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào