Hình phạt cảnh cáo
Hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
Người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh cáo nếu có đủ điều kiện sau đây:
- Tội phạm mà họ thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đến ba năm tù nên phải hiểu là mức cao nhất của khung hình phạt tối đa là ba năm tù ( có thể là ba năm nhưng cũng có thể là dưới ba năm )
Tuy nhiên, có những tội vừa là tội ít nghiêm trọng lại vừa là tội nghiêm trọng.
Việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào mức cao nhất của hình phạt đối với tội đó mà chỉ căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt. Một tội phạm được quy định trong một điều luật có thể có một khung hình phạt nhưng cũng có thể có nhiều khung hình phạt.
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự. Theo quy định này, về lý thuyết, không nhất thiết người phạm tội phải có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 mà có thể chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và một tình tiết quy định tại khoản 2, thậm chí cả hai tình tiết đều được quy định tại khoản 2 Điều 46. Tuy nhiên nếu là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 thì Tòa án phải ghi rõ trong bản án đó là tình tiết nào và vì sao coi đó là tình tiết giảm nhẹ. Thực tiễn xét xử cho thấy, người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh cáo phải là người có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó nhất thiết phải có tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và mức độ giảm nhẹ của các tình tiết này là đáng kể tới mức gần được miễn hình phạt. Cũng chính vì vậy, Điều 29 Bộ luật hình sự quy định: “ … và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt ”.
Hai điều kiện trên là điều kiện cần và đủ để Tòa án áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội, thiếu một trong hai điều kiện này Tòa án không được áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội. Ngoài hai điều kiện trên, luật không quy định thêm điều kiện nào khác, nhưng khi áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội, Tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi đã xem xét đánh giá một cách toàn diện, thấy bị cáo thuộc diện gần được miễn hình phạt thì mới áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ. Việc xác định một người thuộc diện gàn được miễn hình phạt là thuộc quyền của Hội đồng xét xử, sau khi đã cân nhắc một cách toàn diện các tình tiết của vụ án, pháp luật không thể quy định một cách máy móc các thang bậc cho từng trường hợp cụ thể. Hình phạt cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt. Người bị phạt cảnh cáo sau một năm, nếu không phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự .
Hình phạt cảnh cáo là loại hình phạt không thể lượng hóa, về mặt pháp lý nó là hình phạt nhưng về thực tế nó dường như không phải là hình phạt. Do đó trong nhận thức của nhân dân nói chung “ cảnh cáo là tha bổng ”. Tuy nhiên hậu quả pháp lý của hình phạt này có ý nghĩa to lớn trong một số trường hợp cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội như phạt tiền; trục xuất; cấm đảm nhiệm chức vụ; cám hành nghề hoặc làm công việc nhất định … Nếu không tuyên hình phạt chính thì Tòa án không được áp dụng hình phạt bổ sung
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Các cơ quan, đơn vị Cảnh sát giao thông nào có trách nhiệm tiếp nhận tin báo về tai nạn giao thông đường bộ?
- Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, nhãn hiệu có thể được bảo hộ trong bao lâu?
- Hướng dẫn viết đơn xin thuê đất mới nhất hiện nay?
- Quyền sở hữu công nghiệp gồm các quyền nào?
- Từ 01/01/2025, bằng lái xe bị trừ hết điểm có phải thi lại không?