Con rể có quyền đòi bán đất của mẹ vợ không?

Con rể có quyền đòi bán đất thuộc sở hữu của mẹ vợ không? Chồng tôi một mực đòi bán mảnh đất gia đình cho riêng tôi để lấy tiền làm ăn, trong khi sổ đỏ vẫn mang tên mẹ tôi. Tôi phải làm thế nào để giữ được tài sản này? Vợ chồng tôi lấy nhau được 5 năm thì mẹ đẻ cho tôi một mảnh đất, việc cho tặng chỉ có giấy viết tay và chữ ký của hai mẹ con, nội dung nêu rõ mảnh đất này cho riêng tôi (chưa sang tên trong sổ đỏ). Tuy nhiên, do cuộc sống vợ chồng nhiều mâu thuẫn, vợ chồng tôi ly thân. Trong thời gian này, anh ấy đòi bán mảnh đất trên, chia đôi để lấy tiền làm ăn. Xin hỏi trong trường hợp này, chồng tôi có quyền đòi bán mảnh đất không? Tôi phải làm thế nào để giữ lại được tài sản này? Mong nhận được tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật. Chân thành cảm ơn! Thanh Hương

Điều 459 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc tặng cho bất động sản như sau:

“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".

Bên cạnh đó, Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".

Theo như các quy định vừa trích dẫn ở trên, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Đối chiếu với trường hợp của bạn, dù bạn được mẹ cho mảnh đất, có giấy viết tay song theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 phải được lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực. Do đó, giao dịch tặng cho tài sản giữa mẹ bạn và bạn sẽ bị vô hiệu. Hơn nữa, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đứng tên mẹ bạn nên về mặt nguyên tắc quyền sử dụng đất vẫn thuộc về mẹ bạn. Trong trường hợp này chồng bạn không có quyền đòi bán hoặc chia.

Nếu mẹ bạn vẫn muốn cho riêng bạn mảnh đất thì hai mẹ con cần lập lại văn bản về việc tặng cho và phải được công chứng, chứng thực theo đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, dù bạn thực hiện chuyển quyền sử dụng đất từ tên mẹ bạn sang tên bạn thì đây cũng không được coi là tài sản chung vợ chồng. Vì thế chồng bạn không có quyền đòi chia hoặc bán mảnh đất (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).

Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về việc con rể có quyền đòi bán đất của mẹ vợ. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật dân sự 2015 để nắm rõ quy định này.

Trân trọng!

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
181 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào