Tài sản được cho tặng cho là tài sản chung hay riêng?
Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản riêng của vợ chồng như sau: Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
Như vậy, nếu chị không có thỏa thuận với chồng chị là nhập tài sản nói trên vào khối tài sản chung của vợ chồng thì đây là tài sản riêng của chị - được hiểu là đương nhiên, nếu không có tranh chấp. Trường hợp chồng chị tranh chấp, chị phải chứng minh được nguồn gốc, rằng chị được cha mẹ cho đất và anh chị ở nước ngoài cho tiền xây nhà thể hiện qua: văn tự hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, thư chuyển tiền... mà ý chí của những người tặng cho là cho riêng chị. Sau đó, chị dùng số tiền đó tạo lập nhà, bản thân chị và chồng chị cũng không bỏ tiền ra để xây cất.
Việc chứng minh này rất quan trọng, vì Khoản 3, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014có quy định: "Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung". Mặt khác, người Việt Nam có câu "của chồng công vợ" hay "của vợ công chồng", nên nếu chồng chị chứng minh được rằng anh ấy có đóng góp công sức trong việc tạo lập căn nhà và có yêu cầu được chia tài sản, thì chị vẫn có thể phải chia một phần (chia theo công sức đóng góp) tài sản cho anh ấy. Vấn đề này nếu các bên không tự thỏa thuận phân chia được có thể nhờ tòa án giải quyết.
Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về tài sản riêng của vợ chồng khi được tăng cho. Bạn nên tham khảo chi tiết Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Việt Nam có mấy Viện kiểm sát nhân dân tối cao? Địa chỉ Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở đâu?
- Hướng dẫn thủ tục xóa đăng ký tạm trú từ 10/01/2025?
- Lịch âm dương tháng 12 năm 2024: Đầy đủ, chi tiết, mới nhất?
- Tờ khai đề nghị xác nhận nơi thường xuyên đậu, đỗ; sử dụng phương tiện vào mục đích để ở từ 10/1/2025?
- Những đối tượng nào được miễn đào tạo nghề công chứng?