Cho vay lãi suất bao nhiêu thì phạm tội cho vay nặng lãi?
Đối với vướng mắc của bạn chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến tư vấn như sau:
Theo quy định tại điều Điều 476 Bộ luật dân sự 2005 về lãi suất thì mức lãi suất cơ bản trong giao dịch dân sự được quy định như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Lãi suất cơ bản mà Ngân hàng nhà nước đang áp dụng hiện nay dao động ở mức 8% năm. Tuy vậy các tổ chức tín dụng vẫn lấy mức cơ bản giao động từ 7 – 9%/năm làm lãi suất cơ bản khi thực hiện hoạt động cho vay. Vì vậy lãi suất không vượt quá 150% mà BLDS 2005 quy định được hiểu là mức lãi suất cho vay không quá mức 13%/năm tính theo khoản tiền vay gốc.
Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật hình sự 1999 về Tội cho vay lãi nặng
“1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.”
Ở trường hợp của mẹ bạn, cho vay 5 triệu đồng, lãi suất là 30% cho thời hạn vay 10 ngày có nghĩa là khoảng 90%/tháng, tương ứng 1.080% một năm. Mức lãi suất quá cao so với lãi suất do nhà nước quy định và gấp nhiều lần so với quy định về mức lao suất cao nhất trong BLHS 1999 (mức cao nhất không quá 10 lần mức lãi suất cao nhất mà pháp luật cho phép, ở đây lãi suất cao nhất mà pháp luật cho phép là khoảng 13%/năm và gấp 10 lần tức là không quá 130%/năm). Tuy nhiên để xử lý về hành vi cho vay nặng lãi cần có thêm yếu tố có tính chất chuyên bóc lột. Ở đây được hiểu là “hành vi cho vay lãi nặng nhằm trục lợi bất chính, người phạm tội chuyên sống bằng nghề cho vay lãi nặng, làm cho người vay phải điêu đứng, thậm chí phải gán cả tài sản, nhà cửa, ruộng vườn để trả nợ hoặc đến làm con sen, con ở trong nhà người cho vay đẻ trừ nợ. Tuy nhiên, việc xác định hành vi cho vay lãi nặng có tính chất bóc lột cũng là vấn đề trừu tượng bởi vậy khó xác định trên thực tế nên hiện nay không có hướng dẫn nào để biết áp dụng và xử lý.
Việc mẹ bạn có ẩu đả với người cho vay khó được xem là tính chất bóc lột bởi nó xuất phát từ thái độ và tinh thần ức chế do không đòi được tiền nợ. Muốn truy cứu về hành vi cố ý gây thương tích cần chứng minh được mẹ bạn là người trực tiếp gây ra thương tích, ở đây nếu không chứng minh được, gia đình bạn có thể tố cáo ngược lại người đã vay nợ về hành vi vu khống theo quy định của Bộ luật hình sự 1999.
Tuy nhiên nếu bị khởi kiện ra Tòa án nhân thì mẹ bạn chỉ có thể đòi lại được khoản tiền nợ gốc và khoản lãi sẽ được tính lại dựa theo mức lãi suất cơ bản của ngân hàng chứ không thể được chấp nhận khoản lãi như mẹ bạn và người vay đã thỏa thuận.
Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về việc phạm tội cho vay nặng lãi. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật hình sự 1999 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Không ký hợp đồng thi công công trình xây dựng với chủ đầu tư thì có phải kê khai thuế GTGT vãng lai không?
- Trường hợp giá dịch vụ thoát nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thấp hơn mức giá đã được tính đúng thì xử lý thế nào?
- Từ 1/1/2025, trường hợp nào được phép vượt xe bên phải mà không phạm luật?
- Căn cứ xác định giá gói thầu là gì? Giá gói thầu cập nhật trong thời gian nào?
- Từ 01/01/2025, hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá gồm những giấy tờ gì?