Tính lãi theo khế ước vay

Năm 2003, Tòa án quyết định buộc doanh nghiệp A phải trả cho Ngân hàng B số tiền vốn vay là 200.000.000 đồng và lãi suất theo khế ước vay tính đến thời điểm thi hành án xong (không tuyên lãi chậm thi hành án). Năm 2004, Ngân hàng B làm đơn yêu cầu thi hành án số tiền 230.000.000 đồng (số tiền lãi khế ước vay tính đến ngày làm đơn yêu cầu thi hành án là 30.000.000 đồng). Cơ quan thi hành án căn cứ nội dung đơn yêu cầu thi hành án và ra quyết định thi hành án với nội dung nêu trên. Năm 2005, Tòa án quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp A. Năm 2006, cơ quan thi hành án ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án nêu trên. Năm 2010, Tòa án đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nhiệp A. Theo đó cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục thi hành bản án nêu trên và doanh nghiệp A đã nộp số tiền thi hành án 230.000.000 đồng. Khi doanh nghiệp A nộp xong số tiền nêu trên, Ngân hàng B tiếp tục làm đơn yêu cầu thi hành án 209.000.000 đồng lãi suất theo khế ước vay (Ngân hàng B tính lãi từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (năm 2004) đến ngày nộp xong số tiền 230.000.000 đồng). Xin hỏi: 1. Thời gian tạm đình chỉ thi hành án (theo khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004) có tính lãi theo khế ước vay không? 2. Ngân hàng B có còn thời hiệu để yêu cầu thi hành án không?

1. Về thời hiệu yêu cầu thi hànhh án:

Nội dung vụ việc nếu đúng như bạn nêu thì vụ việc này đã được cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của Ngân hàng từ năm 2004 đối với bản án năm 2003 của Tòa án, tuy nhiên việc thi hành án chưa thi hành được do bị tạm đình chỉ để giải quyết theo thủ tục phá sản. Vì thế, người được thi hành án đã làm đơn yêu cầu thi hành án trong thời hiệu thi hành án nên không hết thời hiệu yêu cầu thi hành án.

2. Về mức lãi suất:

Năm 2010, Tòa án đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp A thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành bản án nêu trên. Việc thi hành án này bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi, do đó lãi tính trong cả thời gian tạm đình chỉ thi hành án.

Căn cứ quy định tại khoản 1 mục IV Thông tư liên tịch số 01-TT/LT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản thì để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.

Do bản án này giải quyết việc vay tiền giữa doanh nghiệp A và Ngân hàng B là tổ chức tín dụng theo khế ước. Do vậy, tính lãi trong trường hợp này phải tính theo hướng tại khoản 3 phần 1 Thông tư này, cụ thể: Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.

Vì thế, theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Các tổ chức tín dụng hiện nay thì vụ việc này lãi tính theo khế ước mà bản án của Tòa án đã tuyên.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
473 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào