Có được giao dịch cho vay vàng giữa các cá nhân không?
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Hợp đồng vay tài sản không bắt buộc phải công chứng nhưng nếu các bên yêu cầu thì công chứng viên vẫn có quyền chứng nhận hợp đồng đó theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, những giao dịch liên quan đến vàng là giao dịch đặc thù và chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, trực tiếp là Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Để tạo khung pháp lý trong việc quản lý hoạt động này, Chính phủ đã ban hành các văn bản như: Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng ban hành các văn bản quản lý như: Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng; thông tư số 24/2012/TT-NHNN ngày 23/8/2012 sửa đổi bổ sung thông tư 11/2011/TT-NHNN.
Và mới đây nhất là Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã quy định rõ hơn về quyền sở hữu vàng của cá nhân. Tại Điều 4 nguyên tắc quản lý, quyền sở hữu vàng được khẳng định “Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Nhưng tổ chức, cá nhân cũng chịu một số hạn chế như:
- Chỉ được thực hiện việc mua bán vàng miếng tại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng (Điều 10).
- Cấm mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
- Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.
Ngoài một số hạn chế trên thì đến thời điểm này, chưa có văn bản pháp luật nào cấm cá nhân được cho vay vàng với cá nhân khác. Về Nghị định số 95/2011/NĐ-CP của Chính phủ như bạn dẫn chiếu và Nghị định số 202/2004/NĐ-CP, đây là Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Liên quan đến hoạt động cho vay thì hai nghị định chỉ chỉ ra những vi phạm liên quan đến cho vay trong nước bằng ngoại tệ không đúng quy định của pháp luật, vi phạm hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng…. Về cho vay vàng giữa cá nhân thì chưa có quy định nào (ngoài các hành vi vi phạm liên quan đến vàng dưới đây: Thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng vàng với nhau không đúng quy định của pháp luật; Kinh doanh, mua, bán vàng không đúng quy định của pháp luật).
Như vậy thì đến thời điểm này pháp luật vẫn chưa cấm giao dịch cho vay vàng giữa các cá nhân nên giao dịch này vẫn hợp pháp và có quyền yêu cầu công chứng.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Hướng dẫn xếp lương giáo viên THCS theo Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT?
- Mẫu Biên bản kiểm phiếu đánh giá hồ sơ đăng ký tuyển chọn, giao trực tiếp nhiệm vụ bảo vệ môi trường 2024?
- Đối tượng được đặc cách tốt nghiệp THPT 2025 chi tiết mới nhất?
- Mẫu phiếu phúc tra sức khỏe nghĩa vụ quân sự Thông tư 105?
- Mẫu Báo cáo định kỳ tình hình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường mới nhất là mẫu nào? Tải về mẫu báo cáo?