Môi giới hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự

Môi giới hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự?

a) Có tổ chức

Làm môi giới hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án môi giới hối lộ có tổ chức nào cùng có đủ những người giữ vai trò như trên, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.

Thực tiễn xét xử cho thấy, hành vi làm môi giới hối lộ có tổ chức ít xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng khó phát hiện, vì làm môi giới hối lộ có tổ chức thường gắn liền với hành vi đưa và nhận hối lộ có tổ chức, nên khó có thể phân biệt làm môi giới hối lộ với hành vi đưa hoặc nhận hối lộ có tổ chức.

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt

Dùng thủ đoạn xảo quyệt để làm môi giới hối lộ là người phạm tội có những mánh khóe, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người đưa và nhận hối lộ hoặc những người khác khó lường trước được để đề phòng.

Những mánh khóe, cách thức mà người làm môi giới hối lộ sử dụng rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khóe, cách thức làm cho người nhận và người đưa hối lộ không thể từ chối hoặc nếu biết cũng không thể đối phó được.

Nói chung, những mánh khóe, cách thức làm môi giới hối lộ mà người đưa hối lộ sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ.

c) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước

Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự đối với tội nhận hối lộ và điểm c khoản 2 Điều 289 đối với tội đưa hối lộ. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này thường đối với người làm môi giới hối lộ là người biết người đưa hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội sẽ dùng tiền hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức để đưa hối lộ cho người khác với động cơ cá nhân hoặc với động cơ vụ lợi cho cơ quan, tổ chức của mình. Ví dụ Nguyễn Hồng A là nhân viên của công ty dịch vụ nhà đất đã nhận lời với Lê Văn K là Giám đốc công ty xây dựng thuộc tổng công ty xây dựng thành phố H tìm cách móc nối với Nguyễn Trọng Th là phó chủ tịch UBND tỉnh và là chủ đầu tư dự án phát triển khu đô thị mới. A đã nhiều lần gặp Th để thăm dò những thông tin về dự án và báo cho K biết, đồng thời đưa K đến nhà Th để K xin Th cho công ty của mình được đấu thầu xây dựng phần các công trình hạ tầng, nếu được K sẽ biếu ông Th 3% tổng giá trị công trình trúng thầu, ngoài 10% mà nhà thầu phải trả cho bên A theo thỏa thuận.

Cũng như đối với các tội phạm khác có quy định tình tiết “tài sản Nhà nước”, khái niệm tài sản nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau đối với tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước, như: các công ty cổ phần, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa nhà nước với các đơn vị kinh doanh tập thể hoặc tư nhân…

Có thể còn có ý kiến khác nhau về thế nào là tài sản của Nhà nước, nhưng chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ cso quyền sở hữu một phần dù đó là phần lớn thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước.

d) Phạm tội nhiều lần

Phạm tội làm môi giới hối lộ nhiều lần là có từ hai lần làm môi giới hối lộ trở lên và mỗi lần làm môi giới hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý (kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần.

đ) Của hối lộ có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị của hối lộ thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Điều luật quy định có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã môi giới hối lộ mà người đưa hoặc người nhận của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 290,  còn đã đưa được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

e) Gây hậu quả nghiêm trọng khác

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ từ 2 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng. Nếu chỉ dưới 2 triệu đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội làm môi giới hối lộ theo khoản 2 Điều 290, Tòa án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, không tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đáng được khoan hồng thì Tòa án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù) nhưng không được dưới sáu tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng,  không có tình tiết giảm nhẹ lại tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt thì có thể bị phạt tới mười lăm năm tù.

Tội phạm về chức vụ
Hỏi đáp mới nhất về Tội phạm về chức vụ
Hỏi đáp Pháp luật
Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại bao nhiêu tiền thì bị đi tù?
Hỏi đáp Pháp luật
Phân biệt tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo pháp luật hình sự?
Hỏi đáp Pháp luật
Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ có phải là hành vi tham nhũng không?
Hỏi đáp Pháp luật
Người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ bị phạt bao nhiêu năm tù?
Hỏi đáp Pháp luật
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ bị phạt bao nhiêu năm tù?
Hỏi đáp pháp luật
Quy định về tội đào nhiệm theo điều 363 Bộ luật hình sự?
Hỏi đáp pháp luật
Đưa tiền để chạy việc có vi phạm gì không?
Hỏi đáp pháp luật
Tham ô bao nhiêu tiền sẽ bị phạt tù?
Hỏi đáp pháp luật
Nhận tiền để chạy việc cho người khác nhưng không làm được thì bị tội gì?
Hỏi đáp pháp luật
Có truy cứu hành vi tham nhũng của người đã nghỉ hưu không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Tội phạm về chức vụ
Thư Viện Pháp Luật
320 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Tội phạm về chức vụ

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Tội phạm về chức vụ

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào