Giả mạo chữ ký của chồng để chuyển quyền sở hữu tài sản chung

Tôi có 2 con chung với chồng và 1 con riêng. Vợ chồng tôi có 2 căn nhà là tài sản chung. Tôi đã nhờ người giả chữ ký của chồng tôi để chuyển quyền sở hữu 1 căn nhà cho 1 người con chung và 1 người con riêng. Căn nhà trị giá 500 triệu đồng. Nay chồng tôi muốn kiện tôi, không biết tôi có bị tội không? Tôi cám ơn.

Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng như sau:

- Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

- Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.

 - Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa  thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

Ngôi nhà mà bạn đã chuyển quyền sở hữu cho con là tài sản chung của vợ chồng bạn nên theo quy định tại Điều 28 nêu trên, việc định đoạt, thực hiện các giao dịch liên quan đến ngôi nhà phải được cả hai vợ chồng thỏa thuận, bàn bạc và cùng thực hiện. Tuy nhiên, khi thực hiện việc chuyển quyền sở hữu ngôi nhà, bạn đã không thỏa thuận với chồng bạn, không được sự đồng ý của chồng bạn, thậm chí đã giả mạo chữ ký của chồng bạn để thực hiện việc chuyển quyền đó. Đây có thể bị coi là hành vi gian dối, có mục đích chiếm đoạt tài sản của chồng bạn. Hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 139 quy định như sau: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Các khoản 2, 3, 4 Điều 139 còn quy định các tình tiết định khung tăng nặng với mức hình phạt cao hơn.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
274 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào