Các trường hợp phạm tội cụ thể khi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác

Những trường hợp phạm tội cụ thể theo Điều 125 Bộ luật hình sự về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là những trường hợp nào?

1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125
 
Trường hợp xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 125, có khung hình phạt từ cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
 
Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 125, Tòa án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một trong các hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc áp dụng hình phạt tiền, chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. Đây là một trong rất ít trường hợp không quy định hình phạt tù đối với người phạm tội, hình phạt cải tạo không giam giữ là loại hình phạt nặng nhất đối với người phạm tội này. Điều này cho thấy chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội này chủ yếu lấy giáo dục là chính; sau khi đã bị xử phạt hành chính mà họ vẫn còn vi phạm thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng ngay cả khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng không áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc với họ.
 
2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125
 
a) Phạm tội có tổ chức
 
Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoặc để thực hiện dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
 
Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
 
b) Lợi dụng chức vụ quyền hạn để xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác
 
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu của, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có ưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
 
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác trái pháp luật là việc người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khac được truyền đưa bằng phương tiện truyền thông và máy tính; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng.
 
Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để phạm tội thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng định khung. Nếu tội phạm do thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này.
 
c) Phạm tội nhiều lần
 
Là trường hợp xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác từ hai lần trở lên và mỗi lần xâm phạm đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác từ hai lần trở lên, nhưng chưa có lần nào bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính thì hành vi xâm phạm chưa cấu thành tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu có hai lần xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, trong đó có một lần đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính thì hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác mới cấu thành tội phạm và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 125, chứ không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần.
 
d) Gây hậu quả nghiêm trọng
 
Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc những thiệt hại khác cho xã hội. Mặc dù cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn thế nào là xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng căn cứ vào thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau là nghiêm trọng:
 
 - Gây chết người. Ví dụ: nhận được điện thoại cấp cứu nhưng không báo cho người có trách nhiệm cấp cứu dẫn đến người không được cấp cứu chết.
 
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỉ lệ thương tật từ 41% trở lên.
 
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.
 
- Ngoài ra, tùy trường hợp cụ thể mà cơ quan tiền hành tố tụng xác định hậu quả khác là hậu quả nghiêm trọng như: do chiếm đoạt thư, điện báo, telex, faex hoặc các văn bản truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính, nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh, dẫn đến điều động nhân lực trong việc phòng chống thiên tai, dịch bệnh…
 
đ) Tái phạm
 
Là trường hợp người phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác thuộc trường hợp tái phạm.
 
    Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật hình sự thì tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
 
    Khoản 2 Điều 125 chỉ quy định tái phạm mà không quy định tái phạm nguy hiểm. Đây là một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 125, vì điểm đ khoản 2 Điều 125 chỉ quy định tái phạm. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 125 vì tái phạm còn bị truy cứu theo khoản 2 huống hồ tái phạm nguy hiểm. Tương tự thế, người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 125.
 
    Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 thì người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ từ một năm đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến 2 năm, là tội ít nghiêm trọng.
 
    Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 125, Tòa án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt theo Chương VII Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt tù đối với họ; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì Tòa án có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.
 
3. Hình phạt bổ sung
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 125 thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một đến năm năm.
- Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cần chú ý:
 
- Chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung khi không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người phạm tội; bởi lẽ, theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự thì phạt tiền là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.
 
- Mức tiền phạt từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng được coi là khung hình phạt, do đó nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới hai triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng.
 
- Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, Tòa án cần xác định, nếu xét thấy để người phạm tội đảm nhiệm những chức vụ đó có thể gây nguy hại cho xã hội, thì mới áp dụng hình phạt này, không nên áp dụng tràn nan. Thông thường, chỉ đối với trường hợp lợi dụng chức vụ quyền hạn để xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác mới áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định.

Tội xâm phạm quyền tự do
Hỏi đáp mới nhất về Tội xâm phạm quyền tự do
Hỏi đáp pháp luật
Đọc trộm tin nhắn của người khác có bị đi tù không?
Hỏi đáp pháp luật
Hình phạt áp dụng đối với tội xâm phạm quyền tiếp cận thông tin của công dân theo Bộ Luật hình sự 2015
Hỏi đáp pháp luật
Hình phạt áp dụng đối với tội xâm phạm quyền biểu tình của công dân theo Bộ Luật hình sự 2015
Hỏi đáp pháp luật
Tội xâm phạm các quyền hội họp, lập hội, tín ngưỡng của công dân theo quy định của Bộ Luật hình sự 1985
Hỏi đáp pháp luật
Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ theo Bộ luật hình sự 1985
Hỏi đáp pháp luật
Trường hợp phạm tội cụ thể khi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Hỏi đáp pháp luật
Các trường hợp phạm tội cụ thể khi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân
Hỏi đáp pháp luật
Đối tượng "bắt cóc" là bố đẻ của đứa trẻ và mục đích bắt cóc chỉ là để dành quyền nuôi dưỡng chăm sóc con thì sẽ xử lý như thế nào?
Hỏi đáp pháp luật
Có thể kiện gia đình vợ bắt cóc con?
Hỏi đáp pháp luật
Nhận biết tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Tội xâm phạm quyền tự do
Thư Viện Pháp Luật
207 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Tội xâm phạm quyền tự do
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào