Các trường hợp cụ thể khi phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử

Các trường hợp cụ thể khi phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử

 
   1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127
 
    Trường hợp làm sai lệch kết quả bầu cử không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 127 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
 
    Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quy định hình phạt đối với người phạm tội theo Khoản 1 Điều 127, Tòa án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ.
 
    2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127 
 
    a) Phạm tội có tổ chức.
 
    Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, tội làm sai lệch kết quả bầu cử có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
 
    Làm sai lệch kết quả bầu cử có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Người cầm đầu có thể là người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, nhưng cũng có thể là người không có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử mà có thể chỉ là người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên đối với người thực hành nhất thiết phải là người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử.
 
    Do đặc điểm của tội phạm này nên hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử thường được thực hiện có tổ chức, vì muốn làm sai lệch kết quả bầu cử nếu chỉ do một người thực hiện thì rất khó, mà phải do nhiều người, có sự phân công, nếu không rất dễ bị phát hiện.
 
    b) Gây hậu quả nghiêm trọng
 
    Làm sai lệch kết quả bầu cử gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội hoặc lợi ích chính đáng của công dân. Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn thế nào là làm sai lệch kết quả bầu cử gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng căn cư vào thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử gây ra:
 
    - Làm sai lệch kết quả bầu cử dẫn đến kết quả bầu cử bị hủy bỏ, phải tổ chức bầu cử lại;
 
    - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 trở lên
 
    - Ngoài ra, tùy trường hợp cụ thể mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định hậu quả khác là hậu quả nghiêm trọng như: gây mất an ninh chính trị và trật tự ở địa phương; gây ra dư luận xấu trong nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân;
 
    Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127 thì người phạm tội bị phạt tù từ một năm đến ba năm, cũng là tội ít nghiêm trọng.
 
    Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 127, Tòa án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 127, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể phạt người phạm tội dưới một năm tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì Tòa án có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.
 
    3. Hình phạt bổ sung
 
    Theo quy định tại khoản 3 Điều 127 thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội cò có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một đến năm năm.
 
    Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử, Tòa án cần xác định, nếu xét thấy để người phạm tội đảm nhiệm những chức vụ đó có thể gây nguy hại cho xã hội, thì mới áp dụng hình phạt này, không nên áp dụng tràn lan. Thông thường, chỉ áp dụng đối với trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm sai lệch kết quả bầu cử.

Tội xâm phạm quyền tự do
Hỏi đáp mới nhất về Tội xâm phạm quyền tự do
Hỏi đáp pháp luật
Đọc trộm tin nhắn của người khác có bị đi tù không?
Hỏi đáp pháp luật
Hình phạt áp dụng đối với tội xâm phạm quyền tiếp cận thông tin của công dân theo Bộ Luật hình sự 2015
Hỏi đáp pháp luật
Hình phạt áp dụng đối với tội xâm phạm quyền biểu tình của công dân theo Bộ Luật hình sự 2015
Hỏi đáp pháp luật
Tội xâm phạm các quyền hội họp, lập hội, tín ngưỡng của công dân theo quy định của Bộ Luật hình sự 1985
Hỏi đáp pháp luật
Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ theo Bộ luật hình sự 1985
Hỏi đáp pháp luật
Trường hợp phạm tội cụ thể khi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Hỏi đáp pháp luật
Các trường hợp phạm tội cụ thể khi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân
Hỏi đáp pháp luật
Đối tượng "bắt cóc" là bố đẻ của đứa trẻ và mục đích bắt cóc chỉ là để dành quyền nuôi dưỡng chăm sóc con thì sẽ xử lý như thế nào?
Hỏi đáp pháp luật
Có thể kiện gia đình vợ bắt cóc con?
Hỏi đáp pháp luật
Nhận biết tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Tội xâm phạm quyền tự do
Thư Viện Pháp Luật
198 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Tội xâm phạm quyền tự do
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào