Dấu hiệu nhận biết tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12,13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này vì theo quy định tại Điều 12, đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân không có trường hợp phạm tội nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
Khách thể của tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân chính là quyền xâm phạm quyền lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Quyền này được quy định tại Hiến pháp năm 1992 (Điều 69: công dân có quyền hội họp, lập hội theo quy định của pháp luật; Điều 70: công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước). Các quyền trên còn được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật khác của Nhà nước có liên quan đến quyền lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các hoạt động của công dân trong việc hội họp, lập hội, làm lễ, các nhà thờ, đình, chùa, miếu, và các nơi thờ tự khác của các tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a) Hành vi khách quan
Theo điều văn của điều luật thì tội phạm này chỉ có một hành vi kết quả, đó là hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, để cản trở công dân thực hiện các quyền trên, người phạm tội thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau tùy thuộc vào đối tượng tác động.
Cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, người phạm tội có thể có một trong những thủ đoạn như: cấm công dân tham gia các cuộc họp, các lễ hội, mit tinh, biểu tình hoặc ngược lại ép buộc, cưỡng bức công dân phải tham gia các cuộc họp, các lễ hội, các cuộc mít tinh, biểu tình mà công dân không muốn.
Cản trở công dân thực hiện quyền lập hội là hành vi cấm thành lập các hội mà pháp luật không cấm, mặc dù mọi thủ tục để thành lập hội đã đúng, hoặc ép buộc cưỡng bức công dân phải thành lập hoặc tham gia thành lập các hội không đúng với pháp luật.
Cản trở công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng là hành vi cấm công dân tham gia thờ cúng, lễ chùa, làm lễ trong các nhà thờ hoặc không được thực hiện các phong tục tập quán dân tộc…, hoặc ép buộc công dân phải theo tín ngưỡng mà họ không muốn theo.
Cản trở công dân thực hiện quyền tự do tôn giáo là hành vi cấm công dân theo một tôn giáo hoặc ép buộc công dân phải theo một tôn giáo mà họ không muốn theo.
Khi xác định hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần phải kết hợp xem xét đến những hành vi lợi dụng các quyền này để xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của công dân. Quyền hội họp, quyền lập hội phải phù hợp với lợi ích Nhà nước và của công dân. Thực tiễn cho thấy, hành vi xâm phạm các quyền trên ít xảy ra, nhưng hành vi lợi dụng các quyền này để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của công dân lại xảy ra khá phổ biến và tâm lý của một số cán bộ lại sợ bị coi là xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân nên không kịp thời ngăn chặn hoặc xử lý hành vi vi phạm; một số kẻ xấu lợi dụng, kích động lôi kéo làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thêm phức tạp, có nơi gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Hành vi xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân chỉ bị coi là tội phạm khi người thực hiện hành vi đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm.
Đã bị xỷ lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đã bị xử lý bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xóa kỷ luật, nay lại có hành vi xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân thì cũng không cấu thành tội phạm này.
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, nay lại có hành vi xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền hội họp, quyền lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân thì cũng không cấu thành tội phạm này.
Theo quy định của Điều 129 Bộ luật hình sự thì người phạm tội có thể thực hiện hành vi xâm phạm một quyền hoặc tất cả các quyền, vậy vấn đề đặt ra là: nếu người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm một quyền (quyền lập hội) nay lại xâm phạm một quyền khác (quyền tự do tín ngưỡng) thì có coi là đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm không?
Đây là vấn đề chúng ta chỉ thấy ở tội phạm này mà còn trong một số tội phạm tương tự quy định nhiều hành vi phạm tội và có dấu hiệu đã bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm. (Ví dụ: tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác). Vì vậy, có ý kiến cho rằng, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi nhưng lại vi phạm về hành vi khác thì không coi là tội phạm. Ví dụ: A đã bị xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm quyền lập hội chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, lại xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng thì chưa cấu thành tội phạm vì hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng chưa bị phạt hành chính.
Quan điểm này có vẻ hợp lý nhưng lại phiến diện vì Điều 129 Bộ luật hình sự cũng như một số điều luật khác tương tự quy định nhiều hành vi phạm tội là căn cứ vào đặc điểm của các hành vi đó cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và tương tự như nhau. Do đó, nếu đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi cùng loại mà cò vi phạm thì phải coi là tội phạm.
b) Hậu quả
Hậu quả của tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân là những thiệt hại do hành vi cản trở công dân thực hiện các quyền trên gây ra cho công dân và xã hội. Các thiệt hại này chủ yếu là thiệt hại về tinh thần, các thiệt hại về vật chất có thể xảy ra, nhưng nó là hậu quả gián tiếp hoặc thông qua các thiệt hại về tinh thần mà gây ra thiệt hại về vật chất. Ví dụ: do cản trở công dân làm lễ tại nhà thờ nên hàng trăm giáo dân bỏ việc làm, kéo nhau lên huyện, lên tỉnh khiếu nại, ảnh hưởng đến công việc và thu nhập của họ. Cũng có trường hợp trực tiếp gây thiệt hại vật chất như: đập phá chùa chiền, miếu thờ…
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được thực hiện do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm quyền lập hội, hội họp, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Nói chung, người phạm tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp, nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Tháng 11 âm lịch 2024 có bao nhiêu ngày? Tháng 11 âm lịch 2024 bắt đầu ngày mấy dương?
- Bảng tiêu chuẩn sức khỏe của người lái xe mới nhất theo Thông tư 36/2024/TT-BYT?
- Phương pháp tính thuế tự vệ như thế nào? Điều kiện áp dụng thuế tự vệ là gì?
- Việt Nam có mấy Tòa án nhân dân tối cao? Địa chỉ Tòa án nhân dân tối cao ở đâu?
- Hướng dẫn ghi giấy khám sức khỏe lái xe mới nhất từ ngày 01/01/2025?