Phụ nữ có thai được hoãn chấp hành hình phạt tù

Vợ tôi bị phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bị kết án 2 năm tù. Nhưng vợ tôi lại đang mang bầu con của tôi, thai được 3 tháng. Xin hỏi, trường hợp của vợ tôi thì giải quyết như thế nào?

Căn cứ vào Điều 61 Bộ Luật hình sự năm 1999:
“1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến một năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến một năm.
2. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại phạm tội mới, thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”.
Căn cứ vào Công văn 96/2002/KHXX năm 2002 :
“Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Bộ luật hình sự, thì phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là một trong các trường hợp có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; do đó, đối với trường hợp người bị kết án phạt tù là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và có đề nghị được hoãn chấp hành hình phạt tù, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù. 
Nói chung, Toà án nên chấp nhận cho người bị kết án phạt tù là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con họ đủ 36 tháng tuổi, trừ các trường hợp sau đây: 
a) Nếu xét thấy cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù thì họ lại tiếp tục phạm tội; 
b) Họ không có nơi cư trú nhất định; 
c) Họ bị xử phạt tù từ 10 năm trở lên về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.”
Theo đó, người bị kết án phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
Về nguyên tắc chung thì Tòa án sẽ chấp nhận cho người bị kết án phạt tù là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn chấp hành hình phạt tù trừ trường hợp: Xét thấy cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù thì họ lại tiếp tục phạm tội; Hoặc họ không có nơi cư trú nhất định; Hoặc họ bị xử phạt tù từ 10 năm trở lên về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, vợ của anh đang có thai 3 tháng thì sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con anh đủ 36 tháng tuổi. Khi hết thời hạn được hoãn, vợ anh phải chấp hành hình phạt tù.

Hoãn chấp hành hình phạt tù
Hỏi đáp mới nhất về Hoãn chấp hành hình phạt tù
Hỏi đáp Pháp luật
Khi nào được hoãn chấp hành hình phạt tù? Phụ nữ mang thai được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Mẫu đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù mới nhất năm 2023?
Hỏi đáp Pháp luật
Phụ nữ có thai được hoãn chấp hành hình phạt tù nhưng tiếp tục phạm tội thì xử lý như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Mẫu Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù?
Hỏi đáp Pháp luật
Những điều kiện để hoãn chấp hành hình phạt tù? Trình tự và thủ tục như thế nào để đề nghị hoãn chấp hành án phát tù?
Hỏi đáp pháp luật
Phụ nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn thi hành hình phạt tù đến khi nào?
Hỏi đáp pháp luật
Có được hoãn hình phạt tù vì phải nuôi con nhỏ và người mẹ đã lớn tuổi không?
Hỏi đáp pháp luật
Phụ nữ có thai được hoãn đi tù đến khi nào?
Hỏi đáp pháp luật
Phụ nữ đang mang thai thì có bị phạt đi tù không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Hoãn chấp hành hình phạt tù
Thư Viện Pháp Luật
247 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Hoãn chấp hành hình phạt tù
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào