Giải quyết việc sa thải lao động trái pháp luật

Xin được hỏi luật sư, em bị sa thải trái luật cả về căn cứ và thủ tục. Quyết định sa thải vào tháng 10-2014, nếu tháng 8-2015, em làm đơn khởi kiện thì việc đòi bồi thường do sa thải trái luật sẽ áp dụng theo Nghị định mới 05/2015 hay Nghị định 41/CP? Mức lương trong hợp đồng lao động của em là 4.000.000 đồng và em đã có quyết định nâng lương lên 4.500.000 đồng. Thực tế trong bảng lương, tổng thu nhập của em 6 tháng trước khi nghỉ việc đều khoảng trên dưới 5 triệu đồng. Vậy mức lương em yêu cầu bồi thường trong thời gian bị nghỉ là trung bình lương 6 tháng cuối cùng hay là mức 4 triệu đồng? Em có yêu cầu công ty phải trả cả tiền BHXH, BHYT là 22% x 4 triệu x 10 tháng , như vậy có đúng không? Ngoài ra, em còn được yêu cầu bồi thường những gì nữa?


Từ khi Bộ luật Lao động 2012 có hiệu lực cho đến trước ngày 1-3-2015, vấn đề về hậu quả pháp lý của việc kỷ luật sa thải trái pháp luật vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có quy định chính thức để giải quyết quyền lợi của người lao động và nghĩa vụ của người sử dụng lao động. Chỉ khi Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12-1-2015 của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1-3-2015 mới có những quy định rõ về việc giải quyết hậu quả của việc kỷ luật sa thải lao động trái pháp luật.

Theo Khoản 3, Điều 33, Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, người sử dụng lao động phải khôi phục quyền và lợi ích của người lao động bị vi phạm do quyết định xử lý kỷ luật lao động hoặc quyết định tạm đình chỉ công việc hoặc quyết định bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động. Trường hợp kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải trái pháp luật thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực hiện các quy định các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 42 của Bộ luật Lao động.

Theo đó, người sử dụng lao động có nghĩa vụ:

1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường nêu trên, người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định của bộ luật này. 

3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường nêu trên và trợ cấp thôi việc theo quy định của bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường nêu trên, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

Tiền lương ghi trong hợp đồng lao động do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động để thực hiện công việc nhất định, bao gồm:

a) Mức lương theo công việc hoặc chức danh là mức lương trong thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng. Mức lương đối với công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động và thời giờ làm việc bình thường (không bao gồm khoản tiền trả thêm khi người lao động làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm) không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định;

b) Phụ cấp lương là khoản tiền bù đắp các yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp của công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ trong mức lương theo công việc hoặc chức danh;

c) Các khoản bổ sung khác là khoản tiền bổ sung ngoài mức lương, phụ cấp lương và có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động, trừ tiền thưởng, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của người sử dụng lao động không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
276 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào