VIỆT KIỀU CÓ ĐƯỢC ĐỨNG TÊN SỞ HỮU NHÀ TẠI VIỆT NAM

Hiện nay tôi mang quốc tịch Hàn Quốc, nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam. Tôi đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Seoul, Hàn Quốc cấp Giấy miễn thị thực nhập cảnh (có giá trị đến năm 2014, mỗi lần nhập cảnh được phép lưu trú tại Việt Nam không quá 3 tháng). Theo như Luật nhà ở mới được sửa đổi thì tôi có được đứng tên sở hữu nhà ở tại Viêt Nam không? Gia đình bên nội tôi có ý định tặng tôi một mảnh đất để xây dựng căn nhà làm chỗ ở cho tiện lợi mỗi lần tôi về thăm họ hàng. Vậy tôi muốn hỏi việc tôi đứng tên trên mảnh đất đó và xây dựng nhà ở có phù hợp với pháp luật Việt Nam không? (Phạm Huyền Trang- Seoul, Hàn Quốc)

Hiện tại, bà đang mang quốc tịch Hàn Quốc và định cư tại Hàn Quốc, nhưng bà vẫn chưa làm thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam. Theo Luật quốc tịch Việt Nam 2008 (Luật quốc tịch), bà vẫn có quyền giữ quốc tịch Việt Nam và được xác định là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cụ thể là người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài (Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoàilà công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài” và khoản 4 Điều 3 quy định: “Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoàilà người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”).

Đối với vấn đề sở hữu nhà ở tại Việt Nam:

Tại Điều 1 Luật số 34/2009/QH12 ngày 18/06/2009 sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai (Luật sửa đổi Luật nhà ở) quy định quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài như sau:

“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:

a) Người có quốc tịch Việt Nam;

b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.

2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thựcđược phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam”.

Đối với trường hợp của bà, bà đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc cấp Giấy miễn thị thực nhập cảnh có giá trị đến năm 2014, mỗi lần nhập cảnh được phép lưu trú tại Việt Nam không quá 3 tháng. Như vậy, nếu bà được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam với thời gian đủ 3 tháng thì sẽ đáp ứng các điều kiện theo quy định nêu trên để được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bà và các thành viên trong gia đình bà sống tại Việt Nam.

Về quyền sử dụng đất của bà tại Việt Nam:

Tại Điều 2 Luật sửa đổi Luật nhà ở quy định như sau:“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam”.

Điều này có nghĩa là khi bà đã được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì đồng thời bà cũng có quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở đó. Khi đó, bà sẽ có những quyền của người sử dụng đất như: chuyển quyền sử dụng đất ở khi bán, tặng cho, để thừa kế, đổi nhà ở cho tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở  tại Việt Nam để ở; tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở cho Nhà nước, cộng đồng dân cư; thế chấp nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam.

Như vậy, quyền sử dụng đất của bà tại Việt Nam là quyền gắn liền và phái sinh từ quyền sở hữu nhà ở của bà tại Việt Nam. Điều đó có nghĩa là bà không được nhận tặng cho mảnh đất và đứng tên trên mảnh đất đó để xây dựng nhà ở trên đó. Trường hợp này bà chỉ có thể nhận tặng cho ngôi nhà đã được xây dựng gắn liền với quyền sử dụng đất ở.

 

 

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
269 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào