Quy định mới về sửa đổi Bộ luật Hình sự

Do làm ăn buôn bán, anh tôi có nhận hàng của một số chủ hàng (hình thức nhận hàng, trả một ít tiền khi nhận hàng, sau một thời gian căn cứ vào lượng hàng tiêu thụ thì thanh toán tiếp). Đầu năm 2008, do gia đình cũng bị một số người mua hàng nợ nên chưa có tiền thanh toán cho chủ hàng khoảng trên 10 triệu đồng (của nhiều người) và họ kiện nên anh tội bị khởi tố về hai tội là lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sau khi bị khởi tố thì gia đình đã trả cho các chủ nợ mỗi người một ít và họ đã viết đơn rút đơn tố cáo nên số nợ chỉ còn dưới 4 triệu đồng. Tháng 7/2009, anh tôi bị đưa ra xét xử, Toà án xử 3 năm tù về tội lừa đảo nhưng cho hưởng án treo và xử vô tội về tội lạm dụng tín nhiệm. Vậy xin hỏi trường hợp của anh tôi, Toà án áp dụng pháp luật hình sự sửa đổi quy định cụ thể như thế nào, nếu xử không tội thì có được bồi thường không?

Anh của bạn bị khởi tố và truy tố về hai tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự (BLHS) và tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 140 BLHS. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (khoản 1) thì BLHS năm 1999 quy định: “Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. Đến ngày 19/6/2009, BLHS đã được sửa đổi, bổ sung và Nghị quyết số 33/2009/NQ-QH12 của Quốc hội về việc thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, quyết nghị: “...không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, trừ trường hợp có yếu tố định tội khác... hành vi quy định tại khoản 1 Điều 140 mà tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới bốn triệu đồng”. Như vậy, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của anh bạn khi khởi tố số tiền chiếm đoạt là 10 triệu đồng, nhưng khi truy tố thì gia đình anh đã trả cho một số người bị hại, số người này họ rút đơn khởi kiện, vậy số tiền anh của bạn chiếm dụng chỉ còn dưới bốn triệu đồng; đối chiếu với Nghị quyết 33 của Quốc hội về thi hành luật sửa đổi bổ sung, một số điều của BLHS thì hành vi làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của anh bạn không phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Toà án xử anh của không phạm tội (là do sự chuyển biến của pháp luật). Và căn cứ để tuyên không tội là áp dụng Nghị Quyết 33 (do sự chuyển biến của pháp luật) nên không được coi là oan sai và không được bồi thường theo Nghị quyết 388 của Quốc hội. Hơn nữa trong vụ án này anh của vẫn bị xử phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức án ba năm tù nhưng Toà án cho được hưởng án treo. Do vậy, anh của cũng không thuộc đối tượng được bồi thường theo Nghị quyết 388 của Quốc hội.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
230 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào