Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Số hiệu: 1121/QĐ-UBND Loại văn bản: Quyết định
Nơi ban hành: Tỉnh Lạng Sơn Người ký: Dương Xuân Huyên
Ngày ban hành: 21/07/2023 Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1121/QĐ-UBND

Lạng Sơn, ngày 21 tháng 7 năm 2023

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện một số điều của quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;

Theo đề nghị của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cơ quan Thường trực Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên, đường phố và công trình công cộng tỉnh Lạng Sơn tại Tờ trình số 87/TTr-SVHTTDL, ngày 11/7/2023.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn gồm 02 Phụ lục:

1. Phụ lục 1. Danh mục đường, phố và công trình công cộng đã được đặt tên trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (gồm các Biểu 1.A, Biểu 1.B, Biểu 1.C)

2. Phụ lục 2. Dữ liệu Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn gồm 440 tên đường, phố và công trình công cộng (viết tắt là tên), trong đó:

- Tên một số địa danh tiêu biểu, nổi tiếng của đất nước, của tỉnh: 40 tên;

- Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu: 10 tên;

- Các di tích lịch sử, danh thắng tiêu biểu được xếp hạng trên địa bàn tỉnh: 98 tên;

- Các phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược tiêu biểu trong lịch sử: 55 tên;

- Các danh nhân tiêu biểu của đất nước, của tỉnh: 237 tên.

Điều 2. Tổ chức thực hiện.

1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức tuyên truyền, phổ biến về nội dung, giá trị và ý nghĩa của việc ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh;

Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, lựa chọn tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng.

2. Các Sở, ban, ngành tỉnh; các tổ chức, đơn vị và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố được giao nhiệm vụ quản lý các tuyến đường, phố, công trình công cộng có trách nhiệm nghiên cứu, lựa chọn dữ liệu trong Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt để tiến hành đặt tên, đổi tên theo trình tự, thủ tục quy định.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

Điều 4. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh; Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; các Thành viên Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng trên địa tỉnh; các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.


Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Bộ VHTTDL; (B/c)
- Thường trực Tỉnh ủy; (B/c)
- Thường trực HĐND tỉnh; (B/c)
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh;
- Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh;
- Các Phó CVP UBND tỉnh; các phòng: TH, KGVX, KT, Trung tâm TT;
- Lưu VT, KGVX (NNK).

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Dương Xuân Huyên

PHỤ LỤC 1

DANH MỤC ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 1121/QĐ-UBND ngày 20/7/2023 của UBND tỉnh Lạng Sơn)

BIỂU 1.A. DANH MỤC ĐƯỜNG, PHỐ ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN

STT

Tên đường, phố

I

Phường Vĩnh Trại

1

Đường Ngô Quyền

2

Đường Lê Lợi

3

Đường Lê Đại Hành

4

Đường Phai Vệ

5

Đường Lương Thế Vinh

6

Đường Hoàng Đình Kinh

7

Đường Kéo Tào

8

Đường Mỹ Sơn

9

Phố Mỹ Sơn 1

10

Phố Mỹ Sơn 2

11

Phố Mỹ Sơn 3

12

Phố Mỹ Sơn 4

13

Phố Mỹ Sơn 5

14

Phố Mỹ Sơn 6

15

Phố Tinh Dầu 1

16

Phố Tinh Dầu 2

17

Phố Tinh Dầu 3

18

Phố Tinh Dầu 4

19

Phố Nguyễn Tri Phương

20

Phố Đặng Dung

21

Phố Kim Đồng

22

Phố Lương Định Của

23

Phố Linh Lang

24

Phố Đặng Văn Ngữ

25

Phố Đinh Công Tráng

26

Phố Đinh Lễ

27

Phố Lê Hữu Trác

28

Phố Trần Đại Nghĩa

29

Phố 17 - 10

30

Phố Đinh Liệt

31

Phố Thân Thừa Quý

32

Phố Cao Bá Quát

33

Phố Ông Ích Khiêm

34

Phố Trương Định

35

Phố Đoàn Thị Điểm

36

Phố Trần Xuân Soạn

37

Phố Phùng Hưng

38

Phố Đoàn Kết

39

Phố Đào Duy Từ

40

Phố Tôn Thất Tùng

41

Phố Bùi Thị Xuân 4

42

Phố Bùi Thị Xuân 5

II

Phường Tam Thanh

43

Đường Trần Đăng Ninh

44

Đường Lê Hồng Phong

45

Đường Nhị Thanh

46

Đường Tam Thanh

47

Đường Bến Bắc

48

Đường Ngô Thì Sỹ

49

Đường Ngô Thì Nhậm

50

Đường Tô Thị

51

Đường Lê Quý Đôn

52

Đường Ba Sơn

53

Đường Nguyễn Nghiễm

54

Đường Ngô Thì Vị

55

Đường Nguyễn Phi Khanh

56

Phố Phan Huy Ích

57

Phố Nguyễn Văn Ninh

58

Phố Muối

59

Phố Yết Kiêu

60

Phố Hoà Bình

61

Phố Mai Toàn Xuân

62

Đường Nà Trang A

63

Đường Nà Trang B

64

Phố Nguyễn Hữu Cảnh

65

Phố Nguyễn Khuyến

66

Phố Nhị Thanh 1

67

Phố Nhị Thanh 2

68

Phố Nhị Thanh 3

III

Phường Chi Lăng

69

Đường Trần Hưng Đạo

70

Đường Trần Quang Khải

71

Đường Hùng Vương

72

Đường Hoàng Văn Thụ

73

Đường Mai Thế Chuẩn

74

Đường Hoàng Diệu

75

Đường Tổ Sơn

76

Đường Chùa Tiên

77

Đường Đèo Giang

78

Đường Quang Trung

79

Đường Thác Trà

80

Đường Văn Vỉ

81

Đường Văn Cao

82

Đường Đại Huề

83

Đường Vạn Lý

84

Đường Phai Luông

85

Phố Phai Luông 1

86

Phố Phai Luông 2

87

Phố Phai Luông 3

88

Phố Phai Luông 4

89

Phố Phai Luông 5

90

Phố Phai Luông 6

91

Phố Phai Luông 7

92

Phố Phai Luông 8

93

Phố Phai Luông 9

94

Phố Đinh Tiên Hoàng

95

Phố Xứ Nhu

96

Phố Nguyễn Thái Học

97

Phố Trưng Trắc

98

Phố Trưng Nhị

99

Phố Phạm Ngũ Lão

100

Phố Trần Nhật Duật

101

Phố Lý Tự Trọng

102

Phố Đường Thành

103

Phố Cửa Nam

104

Phố Văn Miếu

105

Phố Dã Tượng

106

Phố Phan Huy Chú

107

Phố Phan Bội Châu

108

Phố Tuệ Tĩnh

109

Phố Hoàng Hoa Thám

110

Phố Ngô Sỹ Liên

IV

Phường Hoàng Văn Thụ

111

Đường Bà Triệu

112

Đường Bắc Sơn

113

Đường Trần Phú

114

Đường Bông Lau

115

Đường Tô Hiến Thành

116

Đường Mạc Đĩnh Chi

117

Đường Tông Đản

118

Đường Vi Đức Thắng

119

Đường Tản Đà

120

Đường Nguyễn Thế Lộc

121

Đường Lý Thường Kiệt

122

Đường Hoàng Quốc Việt

123

Đường Bùi Thị Xuân

124

Phố Lê Lai

125

Phố Minh Khai

126

Phố Kỳ Lừa

127

Phố Lương Văn Tri

128

Phố Phan Đình Phùng

129

Phố Trần Quốc Toản

130

Phố Phan Châu Trinh

131

Phố Thân Công Tài

132

Phố Ngô Văn Sở

133

Phố Thân Cảnh Phúc

134

Phố Trần Khánh Dư

135

Phố Tây Sơn

136

Phố Cao Thắng

137

Phố Hoàng Đình Giong

138

Phố Nguyễn Thượng Hiền

139

Phố Nguyễn Khắc Cần

140

Phố Tô Hiệu

141

Phố Mai Hắc Đế

142

Phố Lương Văn Can

143

Phố Phùng Chí Kiên

144

Phố Bùi Thị Xuân 1

145

Phố Bùi Thị Xuân 2

146

Phố Bùi Thị Xuân 3

147

Phố Hoàng Quốc Việt 1

148

Phố Bông Lau 1

149

Phố Bông Lau 2

150

Phố Bông Lau 3

151

Phố Bông Lau 4

152

Phố Bông Lau 5

153

Phố Bông Lau 6

154

Phố Bông Lau 7

155

Phố Tô Hiệu 1

156

Phố Nguyễn Khắc Cần 1

V

Phường Đông Kinh

157

Đường Nguyễn Du

158

Đường Nguyễn Đình Chiểu

159

Đường Chu Văn An

160

Đường Lý Thái Tổ

161

Phố Ngô Gia Tự

162

Phố Thác Mạ 1

163

Phố Thác Mạ 2

164

Phố Thác Mạ 3

165

Phố Thác Mạ 4

166

Phố Thác Mạ 5

167

Phố Thác Mạ 6

168

Phố Thác Mạ 7

169

Phố Thác Mạ 8

170

Đường Võ Thị Sáu

171

Phố Hồ Tùng Mậu

172

Phố Nguyễn Trường Tộ

VI

Xã Mai Pha

173

Phố Mai Pha 1

174

Phố Mai Pha 2

175

Phố Mai Pha 3

176

Phố Mai Pha 4

177

Phố Mai Pha 5

178

Phố Mai Pha 6

179

Phố Mai Pha 7

180

Phố Mai Pha 8

181

Phố Nam Cao

182

Phố Mạc Thị Bưởi

183

Phố Phạm Hồng Thái

184

Phố Nguyễn Phong Sắc

185

Phố Trần Quang Diệu

186

Phố Hồ Xuân Hương

187

Phố Nguyễn Chí Thanh

188

Phố Hồ Xuân Hương 1

189

Phố Hồ Xuân Hương 2

190

Phố Trần Văn Cẩn

191

Phố Trần Văn Cẩn 1

192

Phố Nguyễn Đức Cảnh

193

Phố Hà Huy Giáp

194

Phố La Văn Cầu

195

Phố Nam Cao 1

196

Phố Nam Cao 2

197

Phố Hồ Đắc Di

198

Phố Phạm Ngọc Thạch

199

Phố Đào Duy Anh

200

Phố Nguyễn Bá Ngọc

201

Phố Tô Vĩnh Diện

VII

Xã Hoàng Đồng

202

Phố Đội Cấn

203

Phố Lê Trọng Tấn

204

Phố Lê Đức Thọ

205

Đường Văn Tiến Dũng

206

Phố Hoàng Văn Thái

207

Phố Võ Chí Công

208

Phố Dương Quảng Hàm

209

Phố Chu Văn Tấn

210

Phố Nguyễn Cơ Thạch

211

Phố Lê Anh Xuân

212

Phố Cù Chính Lan

213

Phố Hoàng Đạo Thuý

214

Phố Đặng Thuỳ Trâm

215

Phố Nam Hoàng Đồng 1

216

Phố Nam Hoàng Đồng 2

217

Phố Nam Hoàng Đồng 3

218

Phố Nam Hoàng Đồng 4

219

Phố Nam Hoàng Đồng 5

220

Phố Nam Hoàng Đồng 6

221

Phố Nam Hoàng Đồng 7

222

Phố Nam Hoàng Đồng 8

223

Phố Nam Hoàng Đồng 9

224

Phố Nam Hoàng Đồng 10

225

Phố Nam Hoàng Đồng 11

226

Phố Nam Hoàng Đồng 12

227

Phố Nam Hoàng Đồng 13

228

Phố Nam Hoàng Đồng 14

229

Phố Nam Hoàng Đồng 15

230

Phố Nam Hoàng Đồng 16

231

Phố Nam Hoàng Đồng 17

232

Phố Nam Hoàng Đồng 18

233

Phố Nam Hoàng Đồng 19

234

Phố Nam Hoàng Đồng 20

235

Phố Nam Hoàng Đồng 21

236

Phố Nam Hoàng Đồng 22

BIỂU 1B. DANH MỤC ĐƯỜNG, PHỐ ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TẠI 10 HUYỆN THUỘC TỈNH

STT

Tên đường, phố

I

Huyện Tràng Định (Thị trấn Thất Khê)

1

Đường Hoàng Văn Thụ

2

Phố Phai Dài

3

Đường Nà Nghiều

4

Đường 21/8

5

Đường Nà Cạn

6

Đường Nà Slảng

7

Đường Nà Chào

8

Đường Pác Giàng

9

Đường 10/10

10

Phố Xá Cái

11

Phố Cốc Lùng

12

Phố Hòa Bình

13

Phố Bắc Khê

14

Đường Thanh Niên

15

Phố Cẩu Pung

16

Phố Bông Lau

17

Phố Vàng Cai

18

Phố Ngô Thì Sỹ

II

Huyện Văn Quan (Thị trấn Văn Quan)

1

Đường Lương Văn Tri

2

Đường Hoà Bình

3

Đường Tân Xuân

4

Đường Lùng Cà

5

Đường Tân An

6

Đường Lê Quý Đôn

7

Đường Ngô Gia Tự

8

Đường Phùng Chí Kiên

9

Đường Trần Phú

III

Huyện Đình Lập (Thị trấn Đình Lập)

1

Đường Yên Lập

2

Đường Hoà Bình

3

Đường Nà Thuộc

4

Đường Phai Lì

5

Đường Vườn Cam

6

Phố Cũ

7

Đường 31 tháng 10 (31/10)

IV

Huyện Hữu Lũng (Thị trấn Hữu Lũng)

1

Đường Xương Giang

2

Đường Chi Lăng

3

Đường Bắc Sơn

4

Đường 19 tháng 8 (19/8)

5

Đường Hoàng Đình Kinh

6

Đường Ba Đình

7

Đường Kim Đồng

8

Đường Tôn Thất Tùng

9

Đường Hoàng Hoa Thám

10

Đường Chu Văn An

11

Đường Thụy Hùng

12

Đường Bế Văn Đàn

V

Huyện Bình Gia (Thị trấn Bình Gia)

1

Đường 19 tháng 4 (19/4)

2

Đường Hoàng Văn Thụ

3

Đường Trần Hưng Đạo

4

Đường Ngô Thì Sỹ

5

Đường Phai Danh

6

Phố Hoà Bình

VI

Huyện Bắc Sơn (Thị trấn Bắc Sơn)

1

Đường Khởi nghĩa Bắc Sơn

2

Đường Văn Cao

3

Đường Phùng Chí Kiên

4

Đường Điện Biên

5

Đường Yên Lãng

6

Đường 27 tháng 9 (27/9)

7

Đường Hoàng Văn Thái

8

Đường Tuệ Tĩnh

9

Đường Lương Văn Tri

10

Đường Trường Chinh

11

Đường Hoàng Quốc Việt

12

Đường Cách mạng tháng 8

13

Đường Vĩnh Thuận

VII

Huyện Cao Lộc (Thị trấn Đồng Đăng và Thị trấn Cao Lộc)

1

Đường Hữu Nghị

2

Đường Nguyễn Đình Lộc

3

Đường Thanh Niên

4

Đường Hoàng Văn Thụ

5

Đường Trần Quốc Toản

6

Đường Trần Hưng Đạo

7

Đường Phùng Chí Kiên

8

Đường Lương Văn Tri

9

Đường Chi Lăng

10

Đường Bắc Sơn

11

Phố Nguyễn Trãi

12

Phố Nam Quan

13

Phố Kim Đồng

14

Đường Mỹ Sơn

15

Đường 3 tháng 2 (3/2)

16

Đường Na Làng

17

Đường Khòn Cuổng

18

Đường Lục Giàng

19

Phố Tạ Quang Bửu

20

Phố Phan Đăng Lưu

21

Phố Lê Văn Lương

22

Phố Thủy Môn Đình

23

Phố Xuân Diệu

24

Phố Tố Hữu

25

Phố Nguyễn Tuân

26

Phố Đặng Thai Mai

27

Phố Huy Cận

28

Phố Nguyễn Huy Tưởng

29

Phố Vương Thừa Vũ

30

Phố Nguyễn An Ninh

31

Phố Bắc Nga

32

Phố Lê Văn Lương 1

VIII

Huyện Chi Lăng (Thị trấn Đồng Mỏ)

1

Đường Lê Lợi

2

Đường Đại Huề

3

Đường Cai Kinh

4

Đường Khu Ga

5

Đường Bà Triệu

6

Đường Chu Văn An

7

Phố Tô Hiệu

8

Phố Trần Lựu

9

Phố Hoàng Hoa Thám

10

Phố Thân Công Tài

11

Phố Thân Cảnh Phúc

IX

Huyện Lộc Bình (Thị trấn Lộc Bình và Thị trấn Na Dương)

1

Đường Cách mạng Tháng 8

2

Đường Thống Nhất

3

Đường Hoàng Văn Thụ

4

Đường Pò Mục

5

Đường Vi Đức Thắng

6

Đường 19 tháng 10 (19/10)

7

Đường Lương Văn Tri

8

Đường Kim Đồng

9

Đường Trần Phú

10

Đường 12 tháng 1 (12/01)

11

Đường Nhiệt Điện

X

Huyện Văn Lãng (Thị trấn Na Sầm)

1

Đường Hoàng Văn Thụ

2

Đường 13 tháng 10 (13/10)

3

Đường Lương Văn Tri

4

Đường Bản Tích

5

Đường Khu Ga

6

Đường Hàng Dã

BIỂU 1C. NHỮNG CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

STT

Tên công trình công cộng

I

Thành phố Lạng Sơn

1

Công viên Chi Lăng

2

Cầu 17-10

3

Cầu Lao Ly 1

4

Cầu Lao Ly 2

5

Cầu Phố Muối

6

Công viên 15-6

7

Cầu Kỳ Cùng

8

Công viên Hồ Phai Loạn

9

Khuôn viên lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

10

Khuôn viên tượng đài đồng chí Hoàng Văn Thụ

11

Vườn hoa 17-10

II

Huyện Đình Lập

1

Cầu Đình Lập

2

Cầu Hạ Lý

3

Cầu Khuổi Siến

4

Cầu Nà Quan

5

Cầu Phố Cũ

PHỤ LỤC 2

DỮ LIỆU NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 1121/QĐ-UBND ngày 21/7/2023 của UBND tỉnh Lạng Sơn)

STT

Tên đưa vào ngân hàng dữ liệu

Tóm tắt ý nghĩa tên gọi

I

MỘT SỐ ĐỊA DANH TIÊU BIỂU CỦA ĐẤT NƯỚC, ĐỊA PHƯƠNG (40 tên)

A

Một số địa danh tiêu biểu của đất nước (12 tên)

1

Âu Lạc

Âu Lạc là tên Quốc hiệu Việt Nam thời An Dương Vương. Năm 208 trước công nguyên, sau cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi, Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán lên làm vua, hiệu là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa (nay là xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội). Nước Âu Lạc tồn tại đến năm 179 trước công nguyên (TCN) thì bị Triệu Đà thôn tính. Cuối thời đại các vua Hùng, An Dương Vương Thục Phán đã thống nhất các bộ lạc người Lạc Việt và Âu Việt để thành lập nhà nước Âu Lạc năm 257 TCN, đóng đô ở Cổ Loa, xây thành Cổ Loa. Năm 179 TCN nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà thôn tính, chia nước ta thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân.

2

Ba Đình

Ba Đình là tên địa danh căn cứ của nghĩa quân Phạm Bành, Đinh Công Tráng chống Pháp trong những năm 1885-1887 được xây dựng trên đất ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ và Mỹ Khê thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Sử gọi là cuộc khởi nghĩa Ba Đình nổi tiếng.

Tên gọi Ba Đình còn gắn liền với địa danh Quảng trường Ba Đình, thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Nơi đây vốn là vườn hoa Ba Đình, vào ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường Ba Đình trở thành nơi tổ chức nhiều sự kiện trọng đại của đất nước.

3

Đại Cồ Việt

Đại Cồ Việt là tên Quốc hiệu nước ta dưới thời Đinh Tiên Hoàng. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, xưng hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình, đóng đô ở Hoa Lư (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Cồ Việt đến năm 1009.

4

Đại Nam

Đại Nam là tên Quốc hiệu nước ta dưới thời Nguyễn. Đại Nam được vua Minh Mệnh đặt từ năm 1838. Quốc hiệu Đại Nam được dùng chính thức cho đến năm 1945, tổng cộng 107 năm. Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.

5

Đại Việt

Đại Việt là tên Quốc hiệu của nước ta từ triều Lý, Trần, Lê Sơ và Lê Trung Hưng (Hậu Lê). Quốc hiệu Đại Việt gắn với kinh thành Thăng Long là biểu tượng cho một giai đoạn phát triển thịnh đạt của chế độ phong kiến nước ta. Quốc hiệu của nước ta, chính thức vào thời Lý Thánh Tông đến thời Trần (Từ năm 1054 đến năm 1400). Năm 1400, Hồ Quý Lý cướp ngôi nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu. Năm 1428, sau khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt lại quốc hiệu là Đại Việt. Quốc hiệu Đại Việt trải qua các triều đại Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn và đầu Nguyễn, tổng cộng 722 năm. Quốc hiệu Đại Việt tồn tại đến năm 1804 khi Nguyễn Gia Long đổi tên nước là Việt Nam.

6

Điện Biên Phủ

Điện Biên là tên một thung lũng thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay là thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên), nơi diễn ra chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm phòng ngự của quân đội viễn chinh Pháp, chiến thắng quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta.

7

Hoàng Sa

Hoàng Sa là tên một quần đảo của Việt Nam ở Biển Đông cách thành phố Đà Nẵng 50 hải lý.

8

Trường Sa

Là hệ thống các đảo thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam.

9

Trường Sơn

Trường Sơn là tên dãy núi nằm giữa nước ta và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân, dài gần 1.000km, núi dốc về phía Việt Nam, thoải về phía Lào, có nhiều đèo.. Trường Sơn là địa danh tiêu biểu đã đi vào lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX. Đường Trường Sơn đã trở thành chứng tích lịch sử oai hùng trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

10

Thăng Long

Thăng Long là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng (1010 - 1788). Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn dời kinh đô Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long (nghĩa là "rồng bay lên"). Tên gọi Thăng Long đã đi vào lịch sử, được dùng nhiều trong văn chương, nghệ thuật và là địa danh gắn liền với Thủ đô Hà Nội.

11

Vạn Xuân

Vạn Xuân là tên Quốc hiệu nước ta thời Lý Nam Đế (Lý Bí). Năm 541 Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi Thứ sử Giao Châu, chiếm thành Long Biên. Mùa xuân năm 544, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân với mong muốn xã tắc được truyền đến muôn đời.

12

Văn Lang

Văn Lang là tên Quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Theo ghi chép của sử cũ, nước ta lúc đầu có tên là Văn Lang. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của giới sử học cho biết Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên và kết thúc vào năm 208 trước công nguyên. Kinh đô của Văn Lang là Phong Châu (nay là huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Nước Văn Lang nằm trên địa phận Bắc Bộ ngày nay và phần Bắc Trung Bộ đến giáp đèo Hải Vân.

B

Một số địa danh tiêu biểu của tỉnh, các địa phương trong tỉnh; địa phương kết nghĩa (28 tên)

1

Ba Sơn

Đây là nơi căn cứ địa an toàn của đội du kích Ba Sơn (Cao Lộc) thời kỳ chống Pháp (1947-1954). Trong kháng chiến chống Pháp, quân và dân khu du kích Ba Sơn, huyện Cao Lộc đã tổ chức 72 trận đánh lớn nhỏ tiêu diệt và bắt hàng trăm tên địch, uy hiếp, khống chế, làm tê liệt hàng chục cứ điểm tập trung của địch, chia cắt làm chủ nhiều địa bàn xung yếu trên đường số 4, cùng quân và dân trong tỉnh giam chân địch tại Lạng Sơn, hỗ trợ và phối hợp kịp thời với bộ đội chủ lực, góp phần đánh tan hoàn toàn quân Pháp tại Chiến dịch biên giới năm 1950.

2

Bản Ca

Địa danh thôn Bản Ca, xã Chí Minh, huyện Tràng Định. Nơi đây, dân quân du kích và lực lượng vũ trang địa phương đã phối hợp với các đơn vị bộ đội chủ lực tổ chức trận đánh địch lớn, tiêu diệt và tóm gọn 02 binh đoàn tinh nhuệ nhất của Pháp. Từ ngày 05/10/1950 đến ngày 07/10/1950, quân ta tiêu diệt 677 tên, bắt sống 1.386 tên, trong đó có tên chỉ huy Trung tá Sác - Tông, ngày 09/10/1950, quân ta tóm gọn tên chỉ huy Trung tá Lơ-pa-giơ và nhiều sĩ quan, binh lính.

3

Bản Cù

Nơi thành lập Trung đội vũ trang đầu tiên của huyện Bình Gia vào ngày 20/3/1947; là điểm giao liên quan trọng cho sự hoạt động đi lại của các đồng chí cán bộ Trung ương cũng như cán bộ Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng.

4

Cạm Bao

Đèo Cạm Bao tại xã Hưng Đạo, huyện Bình Gia. Trong giai đoạn 1946-1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân các dân tộc huyện Bình Gia đã có nhiều cuộc đấu tranh trên các mặt như kinh tế, chính trị, quân sự, góp phần to lớn vào sự thành công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt là trận phục kích đánh chặn quân Pháp tại đèo Cạm Bao xã Hưng Đạo ngày 25/9/1947. Ta đã tiêu diệt 42 tên địch, thu nhiều vũ khí, làm cho quân địch phải rút lui, không vào được địa bàn Bình Gia.

5

Cổ Lũng

Cuối thời nhà Trần và đầu thời nhà Hồ, Hữu Lũng có tên gọi Cổ Lũng nằm trong lộ Lạng Giang. Thế kỷ XIV khi nhà Minh xâm lược nước ta, Cổ Lũng nằm trong phủ Lạng Giang, lộ Bắc Giang. Thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông, thời kỳ này lộ Bắc Giang được đổi thành thừa tuyên Bắc Giang, huyện Cổ Lũng thuộc phủ Lạng Giang, thừa tuyên Bắc Giang. Năm 1469 vua Lê Thánh Tông cho vẽ lại bản đồ và đổi tên đơn vị hành chính từ thừa tuyên Bắc Giang thành trấn Kinh Bắc, phủ Lạng Giang thuộc trấn Kinh Bắc có 6 huyện trong đó có huyện Hữu Lũng.

6

Đắk Lắk

Đắk Lắk là tên tỉnh kết nghĩa của tỉnh Lạng Sơn.

Đầu năm 1960, Trung ương Đảng và Bác Hồ khởi xướng, phát động phong trào “Kết nghĩa Bắc Nam” giữa các tỉnh, thành phố miền Bắc với các tỉnh, thành phố miền Nam. Hoạt động kết nghĩa đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp, trở thành một trong những phong trào tiêu biểu vì miền Nam ruột thịt thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

Tỉnh Lạng Sơn đã kết nghĩa với tỉnh Đắk Lắk - một trong những tỉnh ở khu vực Tây Nguyên. Có thể coi Nghị quyết 88/TĐB ngày 08/3/1960 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về mở cuộc vận động kết nghĩa là dấu mốc khởi đầu của phong trào.

Công tác tuyên truyền và nhiều hoạt động, phong trào thi đua thiết thực đã được triển khai thực hiện. Nhiều công trình lao động tập thể đã lấy tên tỉnh Đắk Lắk để đặt tên: Hồ Đắk Lắk (huyện Lộc Bình, Văn Quan), Đồi Đắk Lắk (của Ty Lâm nghiệp), Công viên Đắk Lắk (thị xã Lạng Sơn)… Ngày 19/8/1960, nhân dịp kỷ niệm 15 năm Cách mạng Tháng Tám, lễ kết nghĩa giữa hai tỉnh được tổ chức trọng thể tại thị xã Lạng Sơn, thắm tình đoàn kết keo sơn gắn bó giữa hai địa phương.

7

Đồn Vang

Ngày 16/12/1945, 07 chiến sĩ đội tự vệ Đồn Vang đã chiến thắng trận đầu đánh tan 50 tên phỉ đến cướp phá làm nức lòng và động viên kịp thời các đội tự vệ du kích trong huyện. Tháng 3/1947 Pháp đẩy một trung đoàn lính Âu Phi đánh chiếm Hữu Lũng nhưng đã vấp phải sức mạnh kháng chiến của quân dân Hữu Lũng đánh chặn quyết liệt giam chân quân địch tại Đồn Vang Bến Lường, gây cho chúng thiệt hại nặng nề giẫm đạp lên nhau chạy về bên kia Cầu Lường. Bảo vệ an toàn địa bàn huyện và cuộc sống của nhân dân. Bằng trận đánh thắng lợi Đồn Vang, quân dân Hữu Lũng lại ghi tiếp chiến công lừng lẫy, làm nức lòng khí thế kháng chiến toàn dân tự hào đã đánh thắng quân đội nhà nghề của thực dân, làm tiêu tan mưu đồ lấn chiếm của chúng đối với vùng đất Hữu Lũng giàu truyền thống cách mạng. Hiện nay, Đồn Vang là tên của một thôn thuộc xã Minh Sơn huyện Hữu Lũng.

8

Đông Cai

Hán quận công Thân Công Tài (1620-1683). Đương thời làm quan, Hán quận công luôn thể hiện là vị quan mẫn tiệp, luôn giữ mình thanh liêm, tận tụy vì việc dân, nghiệp nước. Trong những năm làm quan ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo phòng thủ Đoàn Thành, ra sức thiết lập trật tự xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân, khôn khéo thực hiện đường lối ngoại giao mềm dẻo, thân thiết với các tỉnh biên giới của Trung Quốc và chăm lo giữ gìn biên ải. Hán Quận Công còn để tâm mở mang đường sá, phố, chợ, giúp dân làm ăn sinh sống dễ chịu hơn. Nhận thấy tầm quan trọng cũng như vị trí thuận lợi trong việc mở mang thương trường, giao lưu buôn bán giữa Lạng Sơn và Trung Quốc, ông đã đề xướng và cho san đồi, bạt đất, khởi công xây dựng khu đất ven bờ sông Kỳ Cùng thành 7 con đường, rồi lập thành 7 phường với các phố: Chính Cai, Đông Cai, Tây Cai, Bắc Cai, Nam Cai, Phai Món, Pò Càng cho cư dân hai nước Việt - Trung giao lưu buôn bán và gây dựng phố chợ Kỳ Lừa, làm cho nơi đây trở thành trung tâm buôn bán sầm uất, phồn thịnh của Nhân dân 2 nước Việt - Trung. Vì thế mà Nhân dân hai nước Việt - Trung tôn ông là “Sư phụ” và coi ông là “Lưỡng quốc khách nhân”. Những giá trị của tư tưởng giao thương quốc tế và tư tưởng đô thị hóa từ rất sớm của ông vẫn còn nguyên vẹn đến ngày nay.

9

Tây Cai

10

Nam Cai

11

Bắc Cai

12

Chính Cai

13

Phai Món

14

Đình Hải

Ngày 27/6/1951, nhập 02 huyện Hải Chi và Đình Lập (thuộc tỉnh Hải Ninh trước kia) thành một huyện mới lấy tên là Đình Hải, đến năm 1954, Huyện Đình Hải lại tách làm 2 huyện riêng biệt (huyện Đình Lập và huyện Ba Chẽ ngày nay).

15

Hải Ninh

Địa danh gắn liền với sự hình thành, phát triển huyện Đình Lập. Ngày 29/12/1978 huyện Đình Lập tách từ tỉnh Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh) và được chuyển, sáp nhập, trực thuộc tỉnh Lạng Sơn.

16

Kim Lỵ

Làng Kim Lỵ thuộc xã Đội Cấn, huyện Tràng Định. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Làng Kim Lỵ luôn là một địa điểm đón tiếp che chở và nuôi giấu nhiều cán bộ chủ chốt như Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri...Đặc biệt là nơi đón tiếp và bảo vệ bí mật cho đoàn cán bộ lãnh đạo Trung ương và Xứ ủy đi dự hội nghị Trung ương VIII tại Pác Bó - Cao Bằng năm 1941. Làng Kim Lỵ đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu “Làng có công với nước”.

17

Kéo Coong

Cuối năm 1947, thực dân Pháp đánh chiếm các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình. Trước âm mưu đánh lớn của địch, cơ quan lãnh đạo của tỉnh Lạng Sơn rút từ Ba Xã, Điềm He về địa bàn đèo Kéo Coong, xã Tân Văn, huyện Bình Gia.

18

Khánh Khê

Khánh Khê là tên của cây cầu bắc qua sông Kỳ Cùng- đoạn chảy qua địa phận giữa hai huyện Văn Quan và Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Cầu Khánh Khê là vị trí cực kỳ quan trọng trong trận đánh lui quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Thời điểm đó, Trung Quốc huy động hàng quân đoàn với hàng trăm pháo các loại đánh chiếm các điểm cao do Sư đoàn 337 trấn giữ. Từ 28/2 đến 05/3/1979 đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt. Với quân số áp đảo, địch đã mở nhiều cuộc tấn công nhằm vượt sông nhưng đều bị ta đánh bật trở lại.

Trong suốt 12 ngày đêm với 18 trận đánh chống quân xâm lược tại tuyến phòng thủ này, ước tính đã có 2.000 tên địch bị tiêu diệt, 8 xe tăng địch bị phá. Quan trọng hơn cả, Sư đoàn 337 đã hoàn thành nhiệm vụ, đập tan ý đồ bao vây chia cắt Lạng Sơn của địch. Đảng, chính quyền, Nhân dân Lạng Sơn đã xây dựng đài kỷ niệm chiến thắng ngay đầu cầu Khánh Khê.

19

Khau Háy

Đèo Khau Háy, xã Kiên Mộc, huyện Đình Lập nơi diễn ra các trận đánh lịch sử của quân và dân khu căn cứ chiến đấu Nà Thuộc trong kháng chiến chống Pháp. Hiện nay, tại Đèo Khau Hay, xã Kiên Mộc, huyện Đình Lập đã xây dựng và khánh thành nhà bia tưởng niệm di tích lịch sử Đèo Khau Háy.

20

Lủng Nọi

Cuối năm 1940, đồng chí Chu Văn Tấn, cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ đã tới thôn Lủng Nọi (Tổng Bình Gia; nay là khối phố 6a, thị trấn Bình Gia) và thôn Pá Nim (Tổng Hữu Lương; nay là thị trấn Bình Gia) để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng, gây dựng cơ sở quần chúng trung kiên cho hoạt động của cứu quốc quân.

21

Pá Nim

Là tên một thôn thuộc thị trấn Bình Gia, huyện Bình Ga. Cuối năm 1940, đồng chí Chu Văn Tấn, cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ đã tới thôn Lủng Nọi (Tổng Bình Gia; nay là khối phố 6a, thị trấn Bình Gia) và thôn Pá Nim (Tổng Hữu Lương; nay Thị trấn Bình Gia) để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng, gây dựng cơ sở quần chúng trung kiên cho hoạt động của cứu quốc quân.

22

Lý Lân

Di tích hang Lý Lân thuộc thôn Bến Cốn, xã Minh Tiến, huyện Hữu Lũng. Đây là di chỉ Cổ Sinh ở vào cuối thời kỳ Pleistocene thuộc trung kỳ Cách Tân. Đây là một điểm di tích quan trọng trong việc nghiên cứu sinh tồn và phát triển của các loài động vật cổ xưa và người cổ thuộc thời đại đá cũ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

23

Nà Thuộc

Ngày 14/4/1947 là ngày chiến thắng trận đầu của Khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc (huyện Đình Lập); Sau khi họp bàn thống nhất, cắt máu ăn thề ở đình Pò Háng, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, bẻ gãy đợt tấn công đầu tiên của địch vào khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc gồm một tiểu đoàn lính Âu Phi và bọn tay sai phản động, làm nên chiến thắng trận đầu, góp phần củng cố tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn huyện lúc bấy giờ. Tin vui chiến thắng của quân và dân khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc lan tỏa khắp chiến trường Việt Bắc. Năm 1948, Hồ Chủ tịch khen thưởng thành tích chiến đấu và tặng cán bộ, dân quân, du kích chiến khu bức trướng thêu dòng chữ “CHIẾN KHÁNG HỘ ỦNG” (Ủng hộ kháng chiến).

24

Na Hình

Di tích thuộc thôn Na Hình, xã Thuỵ Hùng, huyện Văn Lãng. Đây là nơi hoạt động bí mật của đồng chí Bế Chấn Biên (Bế Chấn Hưng) trong thời kỳ cách mạng 1941-1945. Trong chiến thắng Biên giới 1947-1950, nơi đây là hậu cứ đánh mặt trận đường số 4. Di tích lịch sử Hang Na Hình đã được phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích của UBND tỉnh Lạng Sơn.

25

Nhà Cao Phố Cũ

Ngày 06/8/1946, Tại ngôi nhà 2 tầng, phố cũ Đình Lập, chi bộ đầu tiên tỉnh Hải Ninh chính thức ra đời. Đây là tên gọi gắn với sự kiện lịch sử tại di tích Nhà Cao Phố Cũ trên địa bàn huyện Đình Lập.

26

Sông Thương

Sông Thương bắt nguồn từ vùng núi cao 600m, thuộc xã Bắc Thủy địa đầu phía Đông Bắc huyện Chi Lăng. Sông chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng qua địa bàn huyện Hữu Lũng nhập dòng với sông Trung bắt nguồn từ Thái Nguyên tại Na Hoa, xã Sơn Hà, Hữu Lũng rồi chảy về địa phận tỉnh Bắc Giang. Không chỉ tạo nên sự nên thơ, cung cấp nguồn nước tưới tiêu trong sản xuất nông lâm nghiệp, bù đắp phù sa mầu mỡ cho cây trồng mà trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, dòng Sông Thương với địa hình đồi núi tạo ra địa thế thuận lợi cho quân và dân Lạng Sơn nói chung, huyện Chi Lăng, và huyện Hữu Lũng nói riêng lập nên những chiến công hiển hách, đánh tan mọi kẻ thù xâm lược, trong đó Chiến thắng Chi Lăng có một phần “công lao góp sức” của dòng Sông Thương huyền thoại.

27

Tam Lung

Ga Tam Lung thuộc thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, là di tích cấp tỉnh. Di tích Ga Tam Lung là nhà ga nhỏ được xây dựng vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1968-1972) có nhiệm vụ đưa đón khách và hàng hóa từ Lạng Sơn lên Đồng Đăng và tiếp tục qua nước bạn Trung Quốc. Ga Tam Lung vận hành đón khách và vũ khí vào Nam. Đến năm 1995 nhà ga không còn sử dụng nữa mà trở thành Trạm sửa chữa, bảo dưỡng đường sắt tuyến Hà - Lạng. Ga Tam Lung gắn liền với lịch sử ra đi tìm đường hoạt động cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Tại đây, năm 1928 đồng chí Hoàng Văn Thụ cùng một số thanh niên yêu nước đã đi tới Ga tàu, tìm đường qua biên giới Việt - Trung tìm cách liên lạc với các tổ chức cách mạng để trở về nước hoạt động, gây dựng phong trào cách mạng.

28

Yên Vượng

Ngày 20/11/1948, tại Khu căn cứ du kích Yên Vượng, Chi bộ huyện Đình Lập chính thức được thành lập. Là một xã thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn hiện nay.

II

DANH TỪ CÓ Ý NGHĨA TIÊU BIỂU VỀ CHÍNH TRỊ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI (10 tên)

1

Đoàn kết

Kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung.

2

Độc lập

Là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao.

3

Đồng tâm

Thể hiện sự đoàn kết cùng hướng về một hướng, đồng lòng nhất trí cao.

4

Giải phóng

Là làm cho được tự do, thoát khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc; là thoát khỏi tình trạng bị nước ngoài nô dịch, chiếm đóng.

5

Hòa bình

Là trạng thái xã hội không có chiến tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội.

6

Thanh niên

Là lực lượng to lớn, là nguồn lực dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước.

7

Thành công

Sự thắng lợi, thành quả đạt được sau quá trình nỗ lực, cố gắng.

8

Thống nhất

Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước và dân tộc ta, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giang sơn thống nhất, thu về một mối, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn cho toàn dân tộc.

9

Tự do

Là trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động chính trị, xã hội.

10

Thái bình

Là trạng thái một dân tộc, một xã hội, không có loạn lạc, chiến tranh, đất nước yên ổn, Nhân dân được sống trong hòa bình.

III

CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ, DANH THẮNG TIÊU BIỂU ĐƯỢC XẾP HẠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH (98 TÊN)

1

- Ải Chi Lăng

- Chi Lăng

Là tên gọi di tích thuộc thôn Quán Thanh, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Lũy Ải Chi Lăng được xây dựng từ thời Lý Trần đến thời Lê - Mạc thì được tôn tạo thêm. Mục đích xây dựng lũy dùng để mai phục đánh quân xâm lược Phương Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, lũy ải đã góp phần đánh tan quân tiếp viện do Liễu Thăng cầm đầu. Sau này vua các triều đại nước ta đã dùng lũy ải làm nơi đóng quân, luyện tập nghĩa binh. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

2

Bản Háu

Di tích Hang Bản Háu thuộc thôn Bản Háu, xã Tràng Phái, huyện Văn Quan. Di tích hang Bản Háu được hai nhà Sử học và Khảo cổ học người Pháp là H.Mansuy và M.Colani phát hiện vào những năm 1923 - 1924. Tại hang này hai nhà Khảo cổ học đã đào thám sát nhỏ thấy vỏ ốc Cypraea cách ngày nay khoảng 33.000 - 28.000 năm. Ngoài ra, còn tìm thấy “Dấu Bắc Sơn” cùng nhiều mảnh đá công cụ khác như mảnh tước, rìu mài toàn thân, vỏ ốc nước ngọt, xương răng động vật, di cốt người, đồ gốm trang trí khắc vạch kiểu Mai Pha, và tô thổ hoàng. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1968 - 1972, hang đã được dùng làm nơi trú ẩn, kho vũ khí đạn dược của Huyện đội Văn Quan. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

3

Ba Đăng

Núi Ba Đăng là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng - đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Núi Ba Đăng là một quả đồi nhỏ nằm giữa cánh đồng màu mỡ dọc theo bờ sông Thương. Trên đỉnh núi, có tượng đá giống như ba ngọn lửa cháy hình trái tim đặt ngược nên nhân dân địa phương quen gọi là núi Ba Đăng hoặc Tam Đăng. Tương truyền đây là nơi nghĩa quân Lê Lợi cảnh giới đặt đài quan sát ở trong lòng ải Chi Lăng để dễ dàng phát hiện khi giặc Minh tiến vào ải Chi Lăng.

4

Bãi Đầm

Là điểm di tích thuộc thôn Quán Bầu, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Là nơi diễn ra trận đánh ác liệt của nghĩa quân trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nhà Minh năm 1427. Tại đây, quân ta đã tiêu diệt hơn 100 tên thuộc đội quân kỵ binh của Liễu Thăng, góp phần tạo nên chiến thắng Chi Lăng oanh liệt. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.

5

Bàn Cờ

Núi Bàn Cờ là điểm di tích thuộc thôn Phố Sặt, thị trấn Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh đã chọn núi Bàn Cờ làm nơi luyện tập binh sĩ, là nơi chiêu mộ nghĩa quân chống giặc... Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

6

Bản Trại

Di tích lịch sử thuộc xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định. Nơi đây ngày 16/31949 tiểu đoàn 29 kết hợp với đại đội địa phương Tràng Định, đại đội du kích Bắc Sơn đã tấn công đồn địch tiêu diệt 50 tên lính Pháp, bắt sống 60 tên, thu 2 súng Bazoka, 1 cối 60 mm, 2 địa liên, 49 tiểu liên và nhiều quân trang, quân dụng khác, chặn đứng đường rút lui của địch từ Thất Khê về Na Sầm. Góp phần trong chiến thắng chiến dịch biên giới 1950. Di tích lịch sử đường số 4 được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.

7

Bản Nằm

Di tích lịch sử thuộc xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định. Ngày 16 tháng 3 năm 1948, tiểu đoàn 48 cùng đại đội độc lập Bắc Sơn đã phục kích diệt gọn 88 tên lính Âu phi, làm bị thương 54 tên, phá hủy 7 xe cơ giới, 01 đại bác 20mm, 1 trọng liên 12,7 ly, 4 đại liên 1 súng cối, 1 máy vô tuyến điện, chiến thắng đã góp phần cắt đứt đường tiếp tế vận chuyển, cô lập các cứ điểm trên tuyến phòng thủ biên giới phía Bắc của thực dân Pháp. Di tích lịch sử đường số 4 được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.

8

Bản Ranh

Di tích Đình Bản Ranh thuộc xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích Đình Bản Ranh đã được xếp hạng là di tích cấp tỉnh. Đình Bản Ranh là một ngôi đình làng được xây dựng kiểu truyền thống với kiểu kiến trúc chữ Nhất tường trình đất, mái lợp ngói âm dương, thấp nhỏ, tĩnh tọa trên một quả đồi thấp sau thôn Bản Ranh. Đình thờ Thành Hoàng thôn. Di tích Đình Bản Ranh là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân thôn Bản Ranh (trước cách mạng tháng 8) đã cho thấy phong tục tập quán nơi đây được gìn giữ, bề dày văn hóa và sự phát sinh, phát triển của đồng bào dân tộc ở nơi đây. Thứ hai đây là một trong những điểm di tích lịch sử cách mạng thuộc khu du kích Ba Sơn (hòm thư liên lạc bí mật). Thứ ba là địa điểm mà nhân dân thôn Bản Ranh tập trung cắt máu ăn thề quyết đánh giặc, quyết theo du kích Ba Sơn (1947-1949). Qua đó đã chứng minh cho tính cộng đồng và lòng yêu nước căm thù giặc của nhân dân thôn Bản Ranh nói riêng và nhân dân huyện Cao Lộc nói chung cùng đánh Pháp giải phóng Ba Sơn và huyện Cao Lộc sau này.

9

Bó Nam

Di tích hang Bó Nam thuộc thôn Kéo Phầy, xã Bằng Hữu, huyện Chi Lăng. Hang Bó Nam nằm trong cánh cung đá vôi Bắc Sơn. Di tích được nhà khảo cổ học H.Mansuy thám sát, khai quật năm 1916 và viện KCH khai quật năm 1966. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

10

Bản Sao

Là tên gọi một điểm di tích thuộc đoạn đèo trên quốc lộ 4A, xã Tri Phương, huyện Tràng Định. Ngày 30/7/1947, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đã đập tan âm mưu của thực dân Pháp hòng đánh chiếm Việt Bắc. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

11

Bản Xâm

Di tích Đồn Bản Xâm nằm trên một quả đồi thuộc thôn Bản Xâm, xã Cao Lâu, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Đồn Bản Xâm do thực dân Pháp xây dựng vào những năm 1946-1947 ngay tại nơi cửa ngõ của xã Cao Lâu, nhằm án ngữ, ngăn chặn các hoạt động thông tin liên lạc của quân dân du kích Ba Sơn, đồng thời chúng cũng xây dựng những đồn, bốt nhỏ xung quanh hòng kìm kẹp nhân dân Ba Sơn để dễ bề cai trị và đàn áp cách mạng, hòng đập tan mọi hoạt động của du kích nơi đây.

Cuối năm 1949, dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng huyện Cao Lộc, quân du kích Ba Sơn phối hợp với bộ đội địa phương và lực lượng cách mạng toàn khu phối hợp tấn công đồn lính Pháp, buộc địch phải rút chạy về thị xã Lạng Sơn, nhiêu tên bị bắn và giết chết. Chiến thắng này góp phần giải phóng khu Ba Sơn và giải phóng tỉnh Lạng Sơn sau này.

12

Bắc Lệ

Trong giai đoạn 1967-1968 Bắc Lệ là địa danh phải hứng chịu nhiều bom đạn của giặc Mỹ nhằm phá hỏng và chia cắt tuyến đường sắt liên vận, ga Bắc Lệ. Tại đây đã diễn ra các trận đánh oanh liệt của quân và dân chống trả các cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ trong chiến tranh leo thang ra miền Bắc của đế quốc Mỹ; Bắc Lệ cũng nổi tiếng với đền Mẫu Công Đồng Bắc Lệ. Hiện nay hàng năm nơi đây đón hàng trăm nghìn lượt khách thập phương trong nước và quốc tế đến tham quan, chiêm bái, hành lễ và du lịch tâm linh. Đền Bắc Lệ đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

13

Bắc Nga

Di tích Chùa Bắc Nga nằm tại một quả đồi lớn thuộc thôn Bắc Nga, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; đã xếp hạng di tích cấp tỉnh.

Qua tích truyện lưu truyền trong dân gian kể lại rằng: “Chuyện xưa lâu lắm! từ thủa người và tiên thường gặp nhau trên trái đất, các tiên nữ trên trời thường rủ nhau bay về trần gian vui chơi nơi có nhiều hoa thơm, cỏ lạ, có dòng sông Kỳ Cùng chảy quanh uốn lượn theo triền núi xanh tươi. Sông kỳ cùng nơi này nước trong xanh thường có một bầy tiên thường có một bầy tiên nữ về đây tắm mát rồi lên núi hái hoa, bắt bướm vui đùa đến chiều tà mới rủ nhau bay về thượng giới. Trong vùng có một bà cụ động thân thường hay lên núi hái củi. Một hôm giữa trưa nắng đẹp, bà tựa lưng vào hốc đá hóng mát, bà cụ thiu thiu ngủ thì thấy một bầy tiên nữ múa hát trước khoảng rừng trước mặt. Bỗng có một tiên tiến tới nói rằng: "Nơi đây đất lành cảnh đẹp ta ở lại đây không về thượng giới nữa.." nói đoạn tiên nữ quất dải lụa vào người bà, tỉnh dậy trong giấc mơ lành, bà cụ liền về nói lại với dân làng, dân làng cũng cho biết thường xuyên thấy tiên nữ bay về khu rừng ấy và cũng thường tắm ở khúc sông này. Với lòng tin ấy bà cùng mọi người góp công, góp của vào xây dựng Miếu thờ tiên tại điểm đó. Với mong muốn tiên phù hộ cho dân làng một cuộc sống bình an hạnh phúc và lấy ngày 15 tháng Giêng hàng năm để làm Lễ hội chùa, mời tiên, mời Phật về phù hộ cho dân làng được bình an hạnh phúc... sau này cũng có nhiều tiền nhân, công thần văn sĩ ngưỡng mộ cảnh đẹp đã phát tâm, bỏ tiền dựng miếu thờ tiên, sau thành chùa thờ Tiên rồi thờ Phật. Gọi là chùa Bắc Nga (Tiên Nga Tự)”.

14

Bến Tuần

Bến Tuần là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Than Muội, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng. Bến Tuần là nơi tuần tra của dân binh, binh sĩ trấn ải Chi Lăng, là nơi diễn ra các cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược phương Bắc, bảo vệ đất nước và bảo vệ quê hương dân tộc ta. Di tích Bến Tuần nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.

15

Bó Tát

Di tích Bó Tát thuộc thôn Bó Tát, xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn, nằm trong Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Nơi đây, ngày 25/9/1936, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hoàng Văn Thụ đã diễn ra sự kiện thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn, với 4 đảng viên là các đồng chí: Đường Văn Thông (Đường Kỳ Tân) - bí thư, Hà Khai Lạc (Hoàng Doãn Tạo), Đường Văn Tư (Đường Quảng Long), Nguyễn Mai Huyền (Nguyễn Văn Phòng).

16

- Cầu Trạm

- Phù Kiều

Cầu Trạm (còn gọi là cầu Phù Kiều) bắc qua sông Thương. Cầu Trạm là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt.

Theo truyền thuyết, cầu được xây dựng hình cầu vồng, có mái ngói; làm bằng gỗ quý, cột, kèo, trụ cầu bằng gỗ nghiến, lim được trạm trổ tinh vi. Mặt cầu, lan can cầu… bằng trầm hương và lát hoa. Thành cầu ghép gỗ mít chạm trổ những bức tranh mang tinh thần thượng võ hào khí của dân tộc. Cầu là nơi nơi diễn ra các hoạt động tưởng niệm những người anh hùng, nghĩa sĩ đã hy sinh trong chiến đấu chống giặc phương Bắc, nơi tổ chức lễ cầu hồn cho những người anh hùng và binh sĩ đã hy sinh nhân ngày giỗ các anh hùng dân tộc có công với nước.

17

Cốc Lý

Di tích hang Cốc Lý (hang Gốc Lý) thuộc tiểu khu Hoàng Văn Thụ, thị trấn Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn. Hang Cốc Lý là một di tích danh thắng hang động đẹp và tự nhiên của huyện Bắc Sơn. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1930 - 1954) và đế quốc Mỹ xâm lược (1955 - 1975), hang Cốc Lý là nơi đặt hòm thư liên lạc và nuôi giấu cán bộ, nơi trú ẩn của bà con nhân dân thị trấn Bắc Sơn để tránh máy bay ném bom. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

18

Cốc Mười

Hang Cốc Mười là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Na Han, xã Tri Phương, huyện Tràng Định. Đây là nơi hoạt động bí mật của Chi bộ Phi Mỹ; nơi in ấn báo, tài liệu, truyền đơn, Nghị quyết TW8 (5/1941) và là nơi hoạt động nghỉ ngơi của đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và một số đồng chí khác. Đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.

19

Cửa Dinh

Cửa Dinh: là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.

Tương truyền đây là nơi giặc Minh xây dựng thành lũy khoảng những năm 1407 - 1409 để chiếm đóng, kiểm soát con đường độc đạo qua ải Chi Lăng và đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Sau đó bị nghĩa quân Lê Lợi đánh chiếm để chuẩn bị cho trận tiêu diệt viện binh của Liễu Thăng. Trong trận Chi Lăng, đây là nơi diễn ra những trận quyết chiến chiến lược góp phần vào thắng lợi chung. Sau chiến thắng Chi Lăng 1427 đây là nơi đặt quân đồn trú và nơi ở của các quan lại có trách nhiệm trấn giữ Ải Chi Lăng.

20

Chi Lăng

Chi Lăng là tên Khu du kích thuộc địa bàn 03 xã: Tĩnh Bắc, Tam Gia, Tú Mịch, huyện Lộc Bình, gồm 13 điểm di tích (điểm Cái Tàn, Khau Chu, Tằm Pùng, Kéo Vèo, Khau Chài, Hua Trạng, Tẳng Thần, Pò Nâm, Pò Khưa, Pò Mỏ xã Tĩnh Bắc; Khau Hai, Phạc Phiền, Khau Pầu). Đây là một căn cứ kháng chiến vững chắc hỗ trợ đắc lực cho lực lượng vũ trang của ta tấn công tiêu diệt địch trên tuyền mặt trận đường số 4. Với những thành tích đặc biệt đã đạt được, Khu di tích Chi Lăng được Nhà nước tặng thưởng huân chương quân công hạng Ba. Năm 2000, Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp cho nhân dân 3 xã: Tam Gia, Tĩnh Bắc, Tú Mịch. Khu du kích Chi Lăng đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

21

Cửa Đông

Là tên gọi cổng thành phía Đông của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm...Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền Cửa Đông thuộc phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Di tích thờ Thần Sông gắn với tên gọi là “Quan Lớn Đệ Tam” hay “Quan Lớn Thoải Phủ”. Thể hiện được ý chí của người dân Việt trong việc đắp đê ngăn lũ chống lại giặc thủy, trồng lúa nước đem về mùa màng bội thu. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

22

Cửa Tây

Là tên gọi cổng thành phía Tây của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm... Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền Cửa Tây nằm trên đường Trần Quang Khải, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Dựa trên những giai thoại của mảnh đất Xứ Lạng và truyền thuyết Mẫu Liễu Hạnh gặp trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan ở Lạng Sơn) và vị anh hùng dân tộc - nhà quân sự thiên tài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn người có công lao lớn trong việc ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII giữ vững nền độc lập của dân tộc. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

23

Cửa Nam

Là tên gọi cổng thành phía Nam của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm... Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền Cửa Nam thuộc phố Cửa Nam, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Đền thờ Mẫu (hệ tứ phủ) và thờ vọng Đức Thánh Trần (Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn). Cùng với các đền: Cửa Đông, cửa Tây, cửa Bắc, đền cửa Nam có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Thành cổ Lạng Sơn. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

24

Cửa Bắc

Là tên gọi cổng thành phía Bắc của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm... Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền Cửa Bắc nằm trên đường Trần Nhật Duật, Phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Thờ đức Trần Triều vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Người đã có công 3 lần đánh tan quân Nguyên - Mông ở thế kỷ thứ 13) và đồng thời thờ tín ngưỡng Mẫu (tục thờ Mẫu ở nước ta là một tín ngưỡng bản địa lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người). Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

25

Dã Nham

Di tích Cầu đá - Bia đá Dã Nham thuộc thôn Bản Dạ, xã Bình Phúc, huyện Văn Quan. Cầu đá - Bia đá do một viên quan người địa phương họ Hà là Hà Quốc Tán, xây dựng vào năm 1769. Cầu bắc qua suối Khằm Ngàn, gồm có 03 trụ đá và 06 thanh đá bắc qua. Cầu có kích thước dài 5m, rộng 2,3m và cao 2,5m. Bia đá được dựng cách cầu đá 50m về hướng Tây, là một tấm bia 4 mặt (Cao 1,5m và mỗi cạnh là 0,48m). Bia tạc năm 1770 nội dung bia ghi lại năm xây dựng cầu và tên người hưng công xây dựng cầu. Bia đá được xây dựng nhà bia và xây tường rào bảo vệ. Di tích đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

26

Dục Lắc

Di tích đình Dục Lắc thuộc xã Bắc Quỳnh, huyện Bắc Sơn. Đình được xây dựng khoảng đầu thế kỷ XX, thờ Thành Hoàng Làng họ Dương. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đình là nơi hội họp tuyên truyền cách mạng. Ngày 26/9/1940 tại đình đã diễn ra cuộc họp bí mật của các đồng chí lãnh đạo chi bộ xã Bắc Sơn quyết định phát động Nhân dân tham gia đánh chiếm Đồn Mỏ Nhài. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

27

Đăng Mò

Thác Đăng Mò thuộc địa phận huyện Bình Gia, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 90 km. Thác nằm ở vị trí cây số 11 trên đường quốc lộ 279 từ huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn đi huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, là nơi tiếp giáp của ba xã vùng cao của huyện Bình Gia: Mông Ân, Thiện Thuật và xã Hoàng Văn Thụ. Thác Đăng Mò còn được gọi là thác Mũi Bò, do phía thượng nguồn có 2 dòng suối chảy cùng một hướng rồi nhập lại thành ngọn thác này giống hình mũi bò; từ đỉnh thác tới chân thác ước chừng dài khoảng trăm mét. Thác Đăng Mò được công nhận là điểm du lịch của tỉnh vào tháng 6/2020, những năm qua thu hút rất nhiều du khách tham quan, dã ngoại.

28

Đông Quất

Đình Đông Quất thuộc thôn Khe Bó, xã Cường Lợi, huyện Đình Lập. Đình Đông Quất có từ khoảng trước năm 1940, thờ thành hoàng làng có tên Lô Văn Pạ (Lư Văn Pạ). Ngài là vị Thành Hoàng nổi tiếng linh thiêng, thường “linh ứng” giúp Vua giữ nước, che chở cho Nhân dân khỏi ma quỷ quấy nhiễu, mang lại mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi cho Nhân dân.Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

29

Đồng Bụt

Di tích đình Đồng Bụt, thuộc thôn Đồng Bụt, xã Yên Bình, huyện Hữu Lũng. Đình thờ Cao Sơn Đại Vương Khắc Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần, Ngài là người có công lao to lớn trong việc giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước, mang lại thái bình cho nhân dân. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

30

Đồng Lâm

Danh thắng Đồng Lâm thuộc địa phận thôn Đoàn Kết, xã Hữu Liên, huyện Hữu Lũng. Là cánh đồng rộng mênh mông, diện tích khoảng trên một trăm héc ta và được bao bọc xung quanh là núi non xanh biếc, hùng vĩ; vị trí tọa lạc cách UBND xã Hữu Liên về phía Bắc khoảng 3km. Đồng Lâm bao gồm thung lũng rộng lớn và các dãy núi đá vôi bao bọc xung quanh tạo thành một cánh đồng lòng chảo, với hệ thực vật phong phú và đa dạng. Do chịu ảnh hưởng của khí hậu thiên nhiên, Đồng Lâm được nhìn nhận rõ rệt theo hai mùa: mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 9 dương lịch) Đồng Lâm trở thành một hồ nước bằng phẳng, có độ sâu trung bình từ 1m đến 4m. Mùa khô (khoảng từ tháng 10 đến tháng 5 dương lịch): Đồng Lâm là một cánh đồng cỏ tự nhiên rộng lớn, có độ dốc dần theo chiều Đông Bắc - Tây Nam, tổng chiều dài của thung lũng khoảng 5km, chiều rộng trung bình từ 300 - 400m.

Danh thắng Đồng Lâm đã được UBND tỉnh phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2019.

31

Hang Gió

Là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Sao Thượng B, xã Mai Sao, huyện Chi Lăng. Hang Gió là hang động đẹp tự nhiên. Từ năm 1940 - 1944 thực dân Pháp cho phu, lính khai thác quặng chì tại khu vực hang. Năm 1968 đế quốc Mỹ ném bom ác liệt xuống miền Bắc, hang Gió là nơi cư trú, tránh bom của Nhân dân trong vùng. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

32

Háng Van

Chợ Háng Van là di tích lịch sử thuộc thôn Háng Van, xã Hội Hoan, huyện Văn Lãng. Háng Van là nơi ghi dấu tội ác của giặc Pháp. Từ ngày 24/8/1943) chúng đã tiến hành cưỡng bức, dồn đồng bào ở các làng, bản ở khu vực Hội Hoan về một địa điểm chung chợ Háng Van thành một trại tập trung gọi là “căng” (trại Háng Van) để dễ bề cai trị. Trong trại Háng Van chật chội, 200 gia đình với hơn 1.000 người từ già đến trẻ đã phải sống trong cảnh chen chúc, cực khổ, thiếu thuốc chữa bệnh, bệnh dịch tả hoành hành đã cướp đi 400 sinh mạng đồng bào trong trại. người chôn chung cùng một hố (khu Lý Van) - còn một số khác chúng đem đi tù đày nơi khác. Di tích lịch sử Chợ Háng Van đã được xếp hạng cấp tỉnh.

33

Hòn Ngọc

Là tên gọi một điểm di tích thuộc (núi Hòn Ngọc hay núi Tỷ Muội) thuộc thôn Than Muội, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng. Núi Hòn Ngọc là biểu tượng thiêng liêng, bất khuất của nghĩa quân Đại Việt gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Tương truyền rằng, xưa có hai chị em gái cùng lãnh đạo nghĩa binh chống quân xâm lược phương Bắc, trong một trận chiến đấu ác liệt với kẻ thù, hai nàng đã hy sinh anh dũng tại chiến trường Chi Lăng. Cảm thương nghĩa khí trung kiên của hai nàng, Nhân dân đã đắp mộ chôn cất họ, sáng hôm sau mộ hai cô biến thành một ngọn núi độc lập ở giữa cánh đồng vì vậy di tích còn có tên khác là núi Tỷ Muội (núi Hòn Ngọc). Di tích Hòn Ngọc nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng được xếp hạng cấp Quốc gia.

34

Kéo Lèng

Di tích hang Kéo Lèng thuộc thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia. Di tích Hang Kéo Lèng là điểm di tích cổ sinh của người Tiền sử. Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá khoa học, các nhà nghiên cứu đã xác định được niên đại của di tích thuộc thời hậu Cánh Tân, cách ngày nay khoảng 30.000 năm. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

35

Keng Tiếm

Di tích đèo Keng Tiếm thuộc thôn Hồng Phong 4, xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn. Đây là một di tích lịch sử ghi dấu sự kiện: trên đường rút chạy khoảng cuối năm 1940 thực dân Pháp đã bị quân và dân địa phương mai phục chặn đánh, tại đây nghĩa quân đã tiêu diệt được 07 tên lính Pháp và thu được một số vũ khí, đạn dược của chúng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

36

Khánh Sơn

Di tích đền Khánh Sơn thuộc phố Bờ Sông, thị trấn Lộc Bình, huyện Lộc Bình. Di tích được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đền thờ Mẫu Tam Phủ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

37

Khau Bay

Di tích địa điểm lán Khau Bay thuộc thôn Thuận Lợi, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng. Đây là địa điểm hoạt động bí mật tại quê nhà của đồng chí Hoàng Văn Thụ trong những năm 1935 -1938. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

38

Khuôn Dầu

Di tích đền Khuôn Dầu thuộc thôn Khuôn Dầu, xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng. Đền thờ vị nữ tướng Cao Sơn Tiên Nữ họ Nguyễn. Truyền thuyết kể lại rằng ngày xưa vị nữ tướng Cao Sơn Tiên Nữ họ Nguyễn cầm quân đánh giặc đã đến đóng quân tại làng Khuôn Dầu. Sau khi đánh đuổi được giặc ngoại xâm, cảm kích trước công lao to lớn và tấm lòng của vị nữ tướng, Nhân dân trong vùng đã lập đền phụng thờ vị Nữ tướng trên ngọn núi cao nhất của thôn. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

39

Khuôn Khát

Di tích làng Khuôn Khát thuộc thôn Minh Tiến, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn. Năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn càn quét vào xã Vũ Lễ. Tại làng Khuôn Khát chúng đã phá hủy hoàn toàn 16 ngôi nhà của đồng bào Dao sinh sống tại đây, tất cả mọi người trong làng đều bị bắt, tra tấn tàn ác rồi giết chết, chỉ duy nhất có một người đã trốn thoát được. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

40

- Khuổi Slao

- Bông Lau

Là tên gọi một điểm di tích thuộc đoạn đèo trên Quốc lộ 4A thuộc địa phận xã Chi Lăng, huyện Tràng Định. Nơi đây, ngày 30/10/1947, Tiểu đoàn 249 thuộc Trung đoàn 28 bộ đội chủ lực Lạng sơn và Đại đội bộ đội địa phương huyện Tràng Định đã phục kích chặn đánh đoàn xe vận tải của thực dân pháp tiếp tế phương tiện chiến tranh cho các cứ điểm trên đường 4. Quân ta phá hủy 27 xe cơ giới, diệt 94 lính Âu Phi, 55 lĩnh ngụy, bắt 101 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Đây là một trận đánh hiệp đồng tập trung tiêu diệt sinh lực địch, góp phần đánh bại cuộc chiến công lên Việt Bắc thu đông năm 1947 của thực dân Pháp. Di tích đã được xếp hạng Cấp Quốc gia.

41

Khum Nặm

Bãi đất Khum Nặm thuộc thôn Khòn Mới, xã Bình Phúc, huyện Văn Quan. Di tích là một Bãi đất bằng phẳng, rộng khoảng 200m2, giữa thôn Khòn Mới, xung quanh là nhà dân và rặng tre bao bọc.

Tháng 10/1945 Tỉnh ủy lâm thời và Tỉnh bộ Việt Minh lâm thời Lạng Sơn đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại đây. Mỗi đoàn đều có cờ đỏ, sao vàng, băng rôn khẩu hiệu: “Ủng hộ Mặt trận Việt Minh”, “Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh”. Tại cuộc mít tinh này, Tỉnh ủy đã long trọng tuyên bố UBND lâm thời Tỉnh Lạng Sơn đã được thành lập do đồng chí Lô Quang Nam làm chủ tịch. Di tích đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

42

Kỳ Cùng

Di tích đền Kỳ Cùng thuộc Khối 1, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng từ trước năm 1783, theo kiến trúc chữ Đinh. Đền Kỳ Cùng (tên chữ là Kỳ Cùng Đại Vương từ) hay còn có tên gọi khác là đền thờ Quan lớn Tuần Tranh là di tích có từ lâu đời và mang nhiều dấu ấn văn hóa, tín ngưỡng của dân bản địa. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

Kỳ Cùng là tên con sông chính ở tỉnh Lạng Sơn. Sông Kỳ Cùng đoạn chảy trên đất Việt Nam dài khoảng 243km. Đây là con sông duy nhất ở miền Bắc Việt Nam chảy ngược. Bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa cao 1.166m thuộc huyện Đình Lập, sông Kỳ Cùng chảy theo hướng Đông Nam-Tây Bắc qua TP. Lạng Sơn. Khi cách thành phố khoảng 22km, sông bất ngờ đổi dòng chảy nghiêng về hướng Nam - Bắc tới thị trấn Na Sầm (huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) rồi lại đổi hướng thành Đông Nam - Tây Bắc trước khi rẽ sang hướng Đông ở gần thị trấn Thất Khê (huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn). Từ Thất Khê, sông chảy gần như theo đường vòng cung, cho tới khi vượt biên giới sang Trung Quốc để hợp lưu với sông Bằng Giang tại thị trấn Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc).

43

Lạo Pảo

Di tích hang Lạo Pảo thuộc thôn Còn Cóoc, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc. Di tích là địa điểm hoạt động kín đáo của quân và dân ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tại đây ngày 15/6/1947 Chi bộ đảng đầu tiên của xã Bình Trung được thành lập. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

44

Lân Áng

Di tích thuộc thôn Nông Lục, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn. Đây là nơi đồng chí Hoàng Văn Hán đã hoạt động bí mật trong thời gian từ năm 1941 - 1944. Do sự chỉ điểm của tay sai bán nước đồng chí đã bị thực dân Pháp bắt, giết hại tại Lân Áng. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

45

Lân Giao

Là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Đồng Ngầu, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Lân Giao là nơi tập kết và luyện tập chuẩn bị cho trận phục binh nổi tiếng của quân ta vào mùa thu năm 1427. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.

46

Lân Lắc

Di tích bãi Lân Lắc thuộc xã Bắc Quỳnh, huyện Bắc Sơn. Bãi Lân Lắc là địa điểm ghi dấu thời kỳ hoạt động của nghĩa sĩ Hoàng Đình Kinh (cuối thế kỷ XIX) và quân dân du kích Bắc Sơn, các chiến sĩ cách mạng cùng chống Pháp. Năm 1885 - 1886 nghĩa quân Hoàng Đình Kinh lập căn cứ chống Pháp. Đây là nơi học tập chính trị và luyện tập quân sự của các chiến sĩ cách mạng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

47

Lùng Yêm

Di tích hang Lùng Yêm thuộc thôn Phai Rọ, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan. Đây là di chỉ khảo cổ thuộc vào thời kỳ hậu kì đá mới; Tại đây đã tìm thấy một số đốt sống cá, các mảnh gốm, một dấu Bắc Sơn. Đồ gốm có loại bụng lồi, mép miệng gập xuống; có loại miệng bát, thành mỏng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

48

Ngõ Thề

Lũy Ngõ Thề là tên một điểm di tích thuộc thôn Ba Đàn, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Tương truyền: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên nghĩa quân ta đã cắt máu ăn thề quyết tâm tiêu diệt quân giặc. Từ đó, hẻm núi được gọi là nơi thề (Ngõ Thề). Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.

49

Khuổi Nọi

Di tích Khuổi Nọi, Thôn Tam Tấu, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn. Tại đây, ngày 23/02/1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ - Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ đã phổ biến Nghị quyết của Trung ương, đổi tên Đội Du kích Bắc Sơn thành Cứu Quốc quân. Đội cứu quốc quân Bắc Sơn chính thức được thành lập. Di tích Khuổi Nọi thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

50

Lạng Nắc

Di tích hang Lạng Nắc thuộc thôn Lạng Nắc, xã Mai Sao, huyện Chi Lăng. Di tích hang Lạng Nắc có ý nghĩa trong việc nghiên cứu cuộc sống người tiền sử. Bộ sưu tập di vật phát hiện tại đây mang các yếu tố văn hóa Bắc Sơn cho đến văn hóa Mai Pha. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

51

Lân Pán

Tại Lân Pán (huyện Bắc Sơn), ngày 23/6/1941 Đoàn cán bộ Trung ương do đồng chí Trường Chinh dẫn đầu đi dự hội nghị Trung ương 8 trở đã dừng chân ở đây một thời gian để chỉ đạo phong trào cách mạng Bắc Sơn. Truyền đạt nội dung nghị quyết Trung ương 8 và đường lối đấu tranh của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cho cán bộ đảng viên huyện Bắc Sơn. Di tích Lân Pán thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

52

Lân Táy

Nơi đây, ngày 12/7/1941 đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh và đồng chí Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Văn Thụ đã chỉ đạo đội cứu quốc quân và Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 của Đảng. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống phát xít Nhật và thực dân Pháp đấu tranh giải phóng dân tộc. Di tích Lân Táy thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

53

Lũng Phầy

Là tên gọi một điểm di tích nằm trên Quốc lộ 4A - Xã Chí Minh, huyện Tràng Định. Trong suốt 4 năm (1947 - 1950) địa điểm Bông Lau - Lũng Phầy đã diễn ra hàng chục trận đánh lớn nhỏ, gây cho quân Pháp nhiều tổn thất nặng nề, góp phần đập tan âm mưu đánh chiếm Việt Bắc của thực dân Pháp. Di tích Lũng Phầy thuộc khu Di tích lịch sử Đường số 4 đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

54

- Lũng Vài

- Bó Củng

Là 02 điểm di tích trên đường quốc lộ số 4A thuộc xã Trùng Quán nay là xã Bắc Hùng, huyện Văn Lãng. Tại 2 điểm này ghi dấu sự kiện ngày 18/01/1948 quân và dân địa phương đã phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực đã phục kích chặn đánh một đoàn xe vận tải của quân Pháp trên đoạn đường Bó Củng, Lũng Vài, đã phá huỷ 4 xe quân sự, tiêu diệt gần 2 trung đội của địch, thu nhiều vũ khí. Chiến thắng Bó Củng, Lũng Vài đã gây tiếng vang lớn trên mặt trận đường số 4, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân Lạng Sơn trên khắp các chiến trường. Di tích lịch sử Lũng Vài, Bó Củng đã được phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích theo Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 10/01/2019 của UBND tỉnh Lạng Sơn.

55

Ma Sẳn

Núi Ma Sẳn: là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng - đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt. Núi Ma Sẳn là 1 trong 5 quả núi nhỏ, nằm trong hệ thống lũy nối giữa các quả núi này tạo nên thế hiểm yếu trong lòng ải Chi Lăng. Phía trước và sau núi hiện vẫn còn lại những đoạn lũy hào nối giữa Núi Ma Sẳn với Núi Phượng Hoàng.

Trong trận đồ Chi Lăng năm 1427, núi Ma Sẳn là nơi quân ta bố trí mai phục đạo quân do Liễu Thăng chỉ huy. Khi đội kỵ binh tiên phong 100 tên do Liễu Thăng cầm đầu bị tiêu diệt ở khu vực đầm lầy - núi Mã Yên thì cụm quân bộ gồm 01 vạn tên cũng tiến về cửa Hàm Quỷ, quân ta mai phục ở núi Ma Sẳn và các núi xung quanh nhất tề xông ra tiêu diệt địch khiến tàn quân không dám tiến về Mã Yên nữa mà phải quay lại cầu cứu hậu đội.

56

Mã Yên

Là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Làng Cằng, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Là một địa điểm lịch sử quan trọng gắn liền với chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang, tại đây quân ta đã tiêu diệt viện binh giặc Minh năm 1427, giải phóng nước ta khỏi ách đô hộ phong kiến phương Bắc. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Khu Di tích Quốc gia đặc biệt

57

Mẫu Sơn

Là tên gọi một khu di tích danh thắng thuộc xã Mẫu Sơn, xã Công Sơn, huyện Lộc Bình, xã Mẫu Sơn, huyện Cao Lộc. Đây là một dãy núi cao chạy theo hướng Đông-Tây, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Lạng Sơn thuộc địa phận chính của 3 xã: Mẫu Sơn, Công Sơn huyện Cao Lộc và xã Mẫu Sơn huyện Lộc Bình, của tỉnh Lạng Sơn. Trung tâm dãy núi, (khu du lịch hiện tại) cách thành phố Lạng Sơn 30 km theo đường bộ về phía đông. Đầu phía đông dãy núi giáp với biên giới Việt - Trung. Đây là dãy núi có địa hình và hệ sinh thái vùng núi cao ngoạn mục và đa dạng. Độ cao trung bình của dãy núi từ 800 - 1.000 m so với mực nước biển, với trên 80 ngọn núi lớn nhỏ cao từ 600 m trở lên. Đỉnh Phjia Pò (Công Sơn) cao 1.541 m, cao nhất vùng Đông Bắc Bắc bộ (Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh). Mẫu Sơn là một dãy núi tự nhiên, nơi đây có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên sơn thủy hữu tình, là địa điểm du lịch sinh thái lý tưởng cho du khách đến thăm quan Xứ Lạng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

58

Mỏ Nhài

Là tên gọi của một di tích thuộc thôn Mỏ Nhài, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn. Tại đây, ngày 27/9/1940 Đảng bộ Bắc Sơn đã lãnh đạo Nhân dân và quân khởi nghĩa tấn công vào Đồn, mở đầu cho phong trào khởi nghĩa, đấu tranh vũ trang để giải phóng quê hương. Di tích Mỏ Nhài thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

59

Mỏ Rẹ

Hang Mỏ Rẹ là nơi hoạt động bí mật của các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ và là nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt của các đồng chí Dương Thần Tần Hoàng Đình Ruệ, Nguyễn Cao Đàm, Dương Quốc Vinh phá vòng vây của địch ngày 28/8/1941. Di tích Mỏ Rẹ thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

60

Minh Đán

Thôn Minh Đán nằm trong thung lũng được bao quanh bởi dãy núi đá vôi Co Lầu và dãy núi Sa Cướm toàn thôn có diện tích 18ha. Ngày 01/10/1940, thực dân Pháp huy động lực lượng tiến vào địa bàn trung tâm cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, chúng đã đốt cháy 14 ngôi nhà tại Làng Minh Đán. Di tích Minh Đán đã được xếp hạng di tích quốc gia.

61

Nà Kheo

Là tên gọi gắn liền với di tích đồi Nà Kheo, thôn Nam Hương 1, xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, ngày 25/5/1938 dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ mà trực tiếp là đồng chí Hoàng Văn Thụ ủy viên thường vụ Trung ương Đảng đã diễn ra một cuộc hội nghị gồm phần lớn là các Bí thư chi bộ ở các xã. Hội nghị đã bầu ra Ban cán sự Châu ủy Bắc Sơn gồm 07 đồng chí: Lê Xuân Thụ, Đường Văn Thất, Hoàng Đình Ruệ, Dương Thần Tần, Lương Đình Sơn, Hoàng Việt Thành, Dương Văn Tạch. Đồng chí Lê Xuân Thụ được bầu giữ chức vụ Bí thư Châu ủy. Di tích Nà Kheo thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

62

Nà Ngụm

Di tích hang Nà Ngụm thuộc thôn Làng Giao, xã Bằng Hữu, huyện Chi Lăng. Di tích là một hang đá tự nhiên nằm ở lưng chừng núi, trong thời kỳ những năm kháng chiến chống Pháp hang Nà Ngụm là căn cứ tập quân sự của du kích ta. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

63

Nông Lục

Là tên gọi gắn liền với di tích Đình Nông Lục, thôn Nông Lục 2, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, tối ngày 26/9/1940 đã diễn ra cuộc họp của các đồng chí đảng viên Châu ủy Bắc Sơn và một số đồng chí đảng viên chi bộ các xã Hưng Vũ, Bắc Sơn…quyết định phát động khởi nghĩa, thành lập Ban chỉ đạo Khởi nghĩa Bắc Sơn, xây dựng kế hoạch tiến đánh Đồn Mỏ Nhài ngày 27/9/1940 để giành chính quyền về tay Nhân dân. Di tích Đình Nông Lục thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

64

Nhàn Tằm

Di tích Nhàn Tằm thuộc xã Công Sơn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích đã được công nhận là di tích cấp tỉnh.

Di tích Nhàn Tằm là điểm tựa, căn cứ hoạt động và tập kết an toàn của du kích Ba Sơn trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong những cuộc kháng chiến đố, quân dân du kích Ba Sơn đã lập những chiến công xuất sắc với 72 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch, uy hiếp, khống chế và làm tê liệt hàng chục cứ điểm, chia cắt và làm chủ điều địa bàn xung yếu góp phần quan trọng cùng quân và dân trong tỉnh giải phóng quê hương.

65

Ngườm Thẳm

Di tích Hang Ngườm Thẳm thuộc thôn Còn Riềng, xã Tràng Phái, huyện Văn Quan. Trong thời kỳ chống Mỹ xâm lược, Ngườm Thẳm là nơi ẩn náu, nơi che dấu cán bộ cách mạng, là nơi che chở cho dân làng tránh khỏi bom đạn của đế quốc Mỹ. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hang Ngườm Thẳm là một căn cứ cách mạng quan trọng của huyện Văn Quan, là nơi diễn ra các cuộc họp quyết định vào sự thắng lợi to lớn của quân và dân ta thời kỳ đó. Hang ở lưng chừng núi, cách chân núi khoảng 30m. Đây là một hang động tự nhiên, có độ sâu và rộng, có nhiều nhũ đá với hình thù sinh động. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

66

Pác Yếng

Di tích đình Pác Yếng thuộc thôn Pác Yếng, xã Đồng Ý, huyện Bắc Sơn. Di tích Đình Pác Yếng được xây dựng đầu thế kỷ XX thời Vua Bảo Đại năm 1932, Đình do nhân dân đóng góp xây dựng, đình thờ vị Thành hoàng “Cao Sơn Quý Minh”. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

67

Pò Chầu

Di tích địa điểm đồi Pò Chầu thuộc thôn Nặm Slim, xã Hồng Phong, huyện Bình Gia. Đây là nơi ghi dấu sự kiện ngày 05/5/ 1945, phát xít Nhật kéo quân vào tập kích căn cứ cách mạng của ta. Chúng bao vây làng Nặm Slim để truy bắt đồng chí Lê Huyền Trang, không bắt được, chúng đàn áp, tra khảo nhân dân và đốt phá làng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

68

Pò Deng

Đồi Pò Deng thuộc thôn Phai Rọ - Lùng Mán, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan. Di tích là một bãi đất rộng, là nơi ghi dấu sự kiện, ngày 01/5/1946, Chi bộ Đảng đầu tiên của Đảng bộ Điềm He được thành lập tại nơi đây, đồng chí Phương Đình Slừ (Tức Nhạc Sơn) làm bí thư, cùng các đảng viên: Phương Nháy (Tức Hoan Cảnh), Nông Văn Chính (Tức Trung Thành). Việc thành lập Chi bộ Đảng của huyện đánh dấu phát triển mới của phong trào quần chúng huyện Điềm He nói chung và của các xã thuộc Tổng Tràng Phái nói riêng. Địa điểm Pò Deng nằm cách trụ sở UBND xã Tân Đoàn 400m, cách đường tỉnh lộ đi Điềm He, Pác Ve 100m. Tại địa điểm Pò Deng đã được xây dựng 1 khu tưởng niệm có bia ghi dấu sự kiện. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

69

Pò Đồn

Pò Đồn là di tích thuộc huyện Bình Gia, đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Khi thực dân Pháp xâm lược đã xây dựng căn cứ địa tại đây. Pò Đồn là một khu đồi cao, có thể quan sát được toàn bộ thị trấn Bình Gia. Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 19/4/1945, quân dân ta đã vùng lên đập tan chế độ cai trị của thực dân Pháp tại châu Bình Gia, cắm ngọn cờ cách mạng tại khu đồi này.

70

Pò Háng

Di tích đình Pò Háng thuộc thôn Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập. Đình có từ khoảng trước năm 1940, thờ thành hoàng làng. Ngày 14/4/1945 các đội tự vệ chống Phỉ giữ làng do các cụ cao niên đứng lên kêu gọi đã làm lễ uống máu ăn thề tại Đình Pò Háng và thôn Ba La. Đây là hành động tiên phong và lan rộng đến nhiều xã lân cận. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

71

Phai Cam

Di tích đình Phai Cam thuộc khối phố 5A, thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia. Đình thờ Hảo Sơn Đại Vương tên húy là Nguyễn Khắc Loan và 04 người con của Ngài đều là những người có công được nhân dân suy tôn là thành hoàng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

72

Phai Sa

Di tích hang Phai Sa thuộc thôn Đơn Xa, xã Hòa Bình, huyện Chi Lăng. Hang Phai Sa là một hang đá tự nhiên khá rộng nằm trong núi đá Phai Sa. Năm 1924 di tích đã được nhà khảo cổ học người Pháp tên là H.ManSuy thám sát, khai quật và đã thu được một số hiện vật khảo cổ. Năm 1925 ông cho công bố kết quả khai quật và khẳng định hang Phai Sa là một di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hóa Bắc Sơn. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

73

Phia Điểm

Hang Phia Điểm là một di tích khảo cổ học cấp quốc gia. Di chỉ núi Phia Điểm thuộc thôn Kéo Khoác, xã Yên Trạch, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Hang Phia điểm nằm trong một quả núi sót có tên gọi tùng tên là núi Phia Điểm, xung quanh núi là dãy đồi bao bọc có các điểm cách xa khác nhau chỗ gần nhất là 300m, chỗ xa nhất là 1000m. Di tích khảo cổ học hang Phia Điểm được phát hiện vào tháng 1/1998 và được khai quật vào tháng 4/1998 với sự tham gia của các cán bộ Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Tổng hợp Lạng Sơn. Sau khi khai quật xong, di chỉ đã để lại nhiều di vật đặc biệt quý hiếm, có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu lịch sử loài người, đặc biệt lại là ở một tỉnh miền núi vùng đông bắc của Tổ quốc

- Địa điểm khảo cổ học Phia Điểm là một quả núi đá vôi dạng sót đứng độc lập tại thung lũng Yên Trạch, tháng 4 năm 1998. Tại Hang Phia Điểm đã thám sát và đến 12/1998 Bảo Tàng TH.LS đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật. Tại địa điểm này đã thu thập được nhiều di vật, hiện vật: rìu, bôn, gốm, xương dấu Bắc Sơn… theo các nhà khảo cổ học nhận định đây là một điểm di chỉ hậu kì đá mới - Sơ kì kim khí. Là cầu nối của Văn hoá Bắc Sơn với Văn hoá Mai Pha.

74

Phja Thình

Ngày 24 tháng 8 năm 1945, tại hang Phja Thình, thôn Phai Rọ, xã Vân Nham (Nay là xã Tân Đoàn), huyện Văn Quan, đồng chí Phan Minh Tuệ đặc phái viên của Trung ương Đảng và các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy lâm thời, Tỉnh bộ Việt Minh lâm thời đã tiến hành cuộc họp để quyết định ngày giải phóng tỉnh Lạng Sơn. Đây cũng là một di tích khảo cổ. Các di vật tìm thấy trong hang gồm: ốc ruộng, ốc suối, ốc biển, mảnh tước, mảnh rìu, mảnh gốm, xương răng di cốt người và động vật… Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

75

Phja Thạng

Di tích Hang Phja Thạng thuộc xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan. Hang ở lưng chừng núi Phja Thạng, đường lên xuống hang rất khó khăn. Năm 1923, bà M.Colani (Nhà KCH người Pháp) đã đào thám sát nhỏ thu thập được nhiều vỏ ốc suối, mảnh tước, rìu có vai và đồ gốm. Năm 1993, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Lạng Sơn và Viện KCH Việt Nam cũng đã lên thám sát hang và cũng thu thập được một số di vật: Ốc suối, đá công cụ... và đồ gốm. Di tích là một hang đá tự nhiên nằm trên lưng chừng núi. Hang sâu 25m, có độ dốc khoảng 15° cao dần từ ngoài vào trong, trần thấp, đáy có lớp trầm tích lắng đọng khá cứng. Di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số 700/QĐ-BVHTTDL ngày 20/3/2023.

76

Phú Vị

Di tích đền Phú Vị thuộc thôn Phú Vị, xã Hồ Sơn, huyện Hữu Lũng. Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam cùng hệ thống thờ tự của Đạo Mẫu Tam Phủ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

77

Quán Thanh

Là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Quán Thanh, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Theo dân gian truyền lại, đây nguyên là địa điểm một quán nước của quân ta ngụy trang để dò la tin tức của địch,... là nơi mà xứ bộ của ta và Trung Quốc thường dừng chân nghỉ ngơi... Di tích Quán Thanh nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng được xếp hạng cấp Quốc gia.

78

Quỳnh Sơn

Di tích đình Quỳnh Sơn thuộc xã Bắc Quỳnh, huyện Bắc Sơn. Đình được xây dựng từ thời nhà Lý, thờ Dương Tự Minh hiệu là Quý Minh Đại Vương. Người có công lớn trong cuộc chinh chiến chống quân xâm lược nhà Tống, giữ vững biên cương phía Bắc của nước Đại Việt đầu thế kỷ XII. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

79

Rộc Mạ

Di tích Hang Rộc Mạ thuộc thôn Bản Dạ, xã Bình Phúc, huyện Văn Quan. Đây là nơi hai lần tổ chức sự kiện Đại hội Đảng bộ huyện Điềm He (Nay là huyện Văn Quan): Lần thứ nhất tháng vào tháng 10/1947 và lần thứ hai vào tháng 7/1949. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Mỹ và chiến tranh biên giới hang Rộc Mạ là kho đạn dược vũ khí của bộ đội công binh. Hang Rộc Mạ còn là di tích Khảo cổ học được người Pháp phát hiện và công bố vào đầu thế kỷ XX. Hang Rộc Mạ có phần cửa rộng, vòm cao khoảng 20m. Tại đây quân đội ta xây tường đá bao quanh tạo tường thành khá lớn trong hang. Phía trong gần cửa hang được san bằng, láng nền và xây bậc khá bằng phẳng. Trong lòng hang có nhiều ngõ ngách và nhũ đá. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

80

Sa Khao

Di tích Sa Khao, Thôn Nam Hương xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, ngày 14/10/1940, đã diễn ra cuộc họp của xứ uỷ Bắc Kỳ dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Đăng Ninh đã quyết định thành lập Đội du kích Bắc Sơn và xây dựng khu căn cứ du kích Bắc Sơn. Di tích Sa Khao thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

81

Tả Phủ

Di tích đền Tả Phủ thuộc Khối 4, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XVII, thờ vị quan thời Hậu Lê là Thân Công Tài- từng giữ chức Tả Đô Đốc Hán Quận Công người có công mở mang phố phường, giao lưu buôn bán. Ông là người đã đề xướng và cho khởi công xây dựng khu đất ven sông Kỳ Cùng thành 7 con đường, rồi lập 7 phố phường cho nhân dân hai nước Việt - Trung giao lưu buôn bán, đó chính là phố chợ Kỳ Lừa ngày nay. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

82

Tam Canh

Di tích Đèo Tam Canh, thôn Lân Luông, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, ngày 23/9/1945 quân du kích Bắc Sơn đã phục kích và tiêu diệt 7 tên lính Nhật thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Chiến công này đã góp phần đập tan âm mưu mở rộng vùng chiếm đóng của phát xít Nhật ở Lạng Sơn. Di tích Tam Canh thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

83

Tu Lầm

Di tích Hang Tu Lầm là một hang đá tự nhiên thuộc xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích Hang Tu Lầm đã được công nhận là di tích cấp tỉnh. Hang Tu Lầm là địa điểm khảo cổ được phát hiện khá muộn tại xã Bình Trung. Do nằm trên núi cao nên bề mặt hang còn khá nguyên vẹn và không bị xáo trộn. Di tích Hang Tu Lầm sau khi đã được khảo sát và đào thám sát hai lần đã cho thấy tầm quan trọng về mặt khoa học khảo cổ của di tích, hang vừa mang đậm giá trị lịch sử, cổ sử (thời Tiền sơ sở - Tiền sử..) do vậy hang cần được giữ nguyên hiện trạng di tích và bảo quản thật tốt cho việc nghiên cứu sau này.

84

Thạch Khuyên

Làng phòng thủ Thạch Khuyên là một địa điểm nằm trong di tích lịch sử cách mạng Ba Sơn (huyện Cao Lộc), được UBND tỉnh Lạng Sơn công nhận là di tích cấp tỉnh.

Làng Thạch Khuyên (Làng Phòng Thủ Khuyên Hin) thuộc thôn Thạch Khuyên, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Đây là làng phòng thủ của người Nùng ở xã Xuất Lễ. Làng được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX (1825). Làng Thạch Khuyên trải qua một thời gian dài hình thành và phát triển cho tới nay cho thấy sự "Kết nối cộng đồng" của đồng bào dân tộc Tày, Nùng của huyện Cao Lộc nói riêng và tỉnh Lạng Sơn nói chung. Làng mang tính chất là Làng phòng thủ (chống Phỉ, giặc cướp,...) nhưng cũng là một làng có kiến trúc xây dựng đặc biệt ít nơi khác có (tường làng cao xây dựng bằng đá hộc vững chắc, nhà ở trình đất, có 3 lớp cửa và các phần hiên, đầu hồi đều có lỗ châu mai, các đường lối đi lại trong làng thống nhất với nhau, tất cả chỉ trong một vành đai "Nội bất xuất, ngoại bất nhập"). Trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, làng Thạch Khuyên là một địa điểm hoạt động, học tập của du kích Ba Sơn.

85

Thanh Hương

Di tích chùa Thanh Hương (chùa Tà Lài) thuộc thôn Tà Lài, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng. Chùa Thanh Hương đã thể hiện rõ được sự phối thờ: “Tiền Thánh - Hậu Phật”, Chùa gồm 2 gian, gian ngoài thờ Mẫu, gian trong thờ Phật. Gian thờ Phật (Cung Tam Bảo) nằm ở phía trên cao trong cùng của hang đá, kiến trúc gian thờ Mẫu được xây dựng theo kiểu chữ Nhất (-) cạnh cửa hang. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

86

Thành Bầu

Là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Quán Bầu, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Thành được xây dựng vào thời Lê, để phục kích đánh giặc phương Bắc tràn qua Chi Lăng. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Thành Bầu là nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn năm 1427. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Khu Di tích Quốc gia đặc biệt.

87

Thành Kho

Là tên gọi một điểm di tích thuộc thôn Ba Đàn, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Đây vốn là địa điểm dự trữ quân lương của quân đội ta trong thời kỳ phong kiến. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

88

Thành Trong

Thành Trong: là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

Di tích Thành Trong nằm trên một vườn rộng, ven quốc lộ 1A cũ, cạnh dãy núi Mặt Quỷ, cách di tích Ải Chi Lăng khoảng 800m. Dấu tích hiện còn là một khoảng đất rộng khoảng 300m2, tương đối bằng phẳng, xung quanh hiện còn dấu vết của hệ thống hào.Quan sát trên thực địa, có thể thấy rõ dấu tích của mặt thành hiện còn, được đắp bằng đất cao hơn so với xung quanh khoảng 1m. Phía dưới chân thành hiện còn hệ thống hào, mặc dù đã bị lấp, thu hẹp do cây cối mọc và rác thải lâu năm, thu hẹp hiện vẫn còn rộng khoảng 1,5 - 2m.

89

Thâm Thôong

Di tích Thâm Thôong - Dập Dị, nơi đây trong hai ngày 27 và 28/9/1940, quân khởi nghĩa Bắc Sơn đã phục kích chặn đánh tàn binh Pháp, tiêu diệt 1 tên quan ba, 4 tên lính Pháp. Di tích thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

90

Thẩm Khuyên

Di tích hang Thẩm Khuyên nằm ở thôn Còn Nưa, xã Tân Văn, huyện Bình Gia, đây là một di tích khảo cổ, cổ sinh được đánh giá là có giá trị đặc biệt quan trọng. Năm 1965 các nhà khảo cổ học tiến hành khai quật di chỉ đã thu thập được nhiều hóa thạch xương, răng, hộp sọ của một số loài động vật và một số răng của người vượn Homo Erectus, vượn khổng lồ Gigantopithecus, có niên đại cách ngày nay khoảng 475.000 năm. Việc phát hiện di cốt người vượn tại di chỉ Thẩm Khuyên là bằng chứng thuyết phục về sự xuất hiện đầu tiên của con người trên đất nước Việt Nam. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

91

Thẩm Hai

Di tích hang Thẩm Hai nằm ở thôn Còn Nưa, xã Tân Văn, huyện Bình Gia, cách hang Thẩm Khuyên 200m. Năm 1964, 1965 các nhà khảo cổ học tiến hành khai quật hang Thẩm Hai đã thu thập được nhiều hóa thạch xương hóa thạch của một số loài động vật và di cốt hóa thạch người vượn HomoErectus giống với di chỉ Thẩm Khuyên, có niên đại cách ngày nay khoảng 475.000 năm.Những hóa thạch động vật, hóa thạch vượn khổng lồ và đặc biệt là hóa thạch người vượn phát hiện tại Thẩm Khuyên, Thẩm Hai là những tư liệu vô cùng quan trọng để tìm hiểu giai đoạn sơ kỳ đá mới nói chung và sự xuất hiện người vượn ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á nói riêng. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.

92

Thuốc Sơn

Di tích đền Thuốc Sơn thuộc thôn Làng Bến, xã Cai Kinh, huyện Hữu Lũng. Đền có kiến trúc kiểu “chữ Đinh”; thờ “Đài ái Tôn thần” vị nữ thần đã có công đánh giặc giữ nước, bảo vệ quê hương ở thế kỷ XVIII. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

93

Thủy Môn Đình

Di tích Bia, Nhà bia Thủy Môn nằm tại sườn núi Phjia Mạt (gần quốc lộ 1A), thuộc khu Vườn Sái thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích cách cửa khẩu Hữu Nghị 02km về phía Nam. Là một di tích Lịch Sử - Văn hóa, có nhiều giá trị nổi bật, không những gắn bó mật thiết với phiên thần Nguyễn Đình Lộc, một nhân vật lịch sử của thế kỷ XVII, mà còn thể hiện rõ ý chí, nguyện vọng bảo vệ vững chắc chủ quyền nơi biên giới của các thế hệ cha ông. Việc bảo vệ phát huy giá trị của di tích là rất cần thiết nhằm giáo dục cho các thế hệ con cháu về lòng tự hào dân tộc, về tình yêu đối với quê hương đất nước. Bia Thủy Môn Đình luôn là một chứng tích lịch sử quý báu, là một di vật, bảo vật của quốc gia lưu truyền lại cho các thế hệ con cháu người Việt Nam về ranh giới của đất nước, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, về một tinh thần đoàn kết dân tộc để bảo vệ vùng biên giới của Tổ quốc. Di tích Nhà bia Thủy Môn Đình đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia.

94

Trung Thiên

Di tích Chùa Trung Thiên thuộc thôn Dinh Chùa, xã Tú Đoạn, huyện Lộc Bình. Chùa Trung Thiên do quận công Vi Đức Thắng xây dựng năm 1680 nhằm phục vụ nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng cho bà con nhân dân trong vùng. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chùa là nơi thành lập UBND lâm thời châu Lộc Bình năm 1945 và cũng là một điểm giao thông liên lạc vững chắc cho khu di tích Chi Lăng (1947 - 1949). Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

95

Văn Mịch

Di tích bến đò Văn Mịch thuộc phố Văn Mịch, xã Hồng Phong, huyện Bình Gia. Di tích là địa điểm phục vụ vận chuyển vũ khí, lương thực, thuốc men phục vụ chiến đấu, chuyên trở, tải thương đưa các đồng chí thương binh bị thương từ mặt trận trở về tuyến sau điều trị trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

96

Vằng Khắc

Di tích đình Vằng Khắc thuộc thôn Khòn Chả, xã Vân Mộng, huyện Lộc Bình. Đình Vằng Khắc được xây dựng vào khoảng thời Lê Cảnh Hưng. Đây là ngôi đình được xây dựng sớm nhất tại huyện Lộc Bình. Đình Vằng Khắc là nơi thờ thần rắn - hiện thân của Quan Lớn Tuần Tranh. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

97

Vũ Lăng

Di tích Trường Vũ Lăng, thôn Tràng Sơn 3, xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn. Tại đây, ngày 28/10/1940 đồng chí Trần Đăng Ninh đã thay mặt Xứ ủy Bắc Kỳ và Ban chỉ đạo khởi nghĩa tổ chức một cuộc mít tinh và tuần hành thị uy nhằm mục đích nâng cao quyết tâm chiến đấu cho chiến sỹ và Nhân dân Bắc Sơn, qua đó uy hiếp tinh thần địch. Di tích trường Vũ Lang thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.

98

Quốc Phòng

Di tích Hang Quốc Phòng (thị trấn Văn Quan, huyện Văn Quan) là một hang đá tự nhiên to, rộng và đã được bộ đội ta cải tạo thành kho quân khí, cung cấp vũ khí đạn dược vào chiến trường miền nam trong những năm kháng chiến 1968 - 1972. Cửa hang quay về phía Tây, cao khoảng 2,5m xây bê tông cao khoảng 2m. Lòng hang rộng 60m, trần hang cao khoảng 30m. Hang sâu chừng 500m có 2 cửa. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.

IV

CÁC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, SỰ KIỆN LỊCH SỬ, CHIẾN THẮNG CHỐNG XÂM LƯỢC CÓ Ý NGHĨA TIÊU BIỂU CỦA ĐẤT NƯỚC, CỦA TỈNH (55 TÊN)

1

3/2

Sau khi phong trào yêu nước chống Pháp trong nước lần lượt thất bại thì nổ ra cuộc cách mạng vô sản ở Nga năm 1917. Một số chiến sĩ cách mạng Việt Nam hướng về Liên Xô, vạch cho mình con đường đánh đuổi thực dân phong kiến. Từ đó ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời ở ba kỳ: Đông Dương Cộng sản liên đoàn, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng, mỗi đảng đều hoạt động riêng, điều này sẽ làm suy yếu tiềm lực cách mạng của quần chúng. Đứng trước tình hình này, ngày 3/2/1930 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra triệu tập cuộc họp ở Quảng Châu (Trung Quốc) kêu gọi đoàn kết, thống nhất ba đảng làm một, lấy tên là Đông Dương Cộng sản Đảng, tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Ngày 3/2 được chính thức xem là ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

2

23/2

Gắn với 2 sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh:

- Ngày thành lập Đội Cứu quốc quân 1: Ngày 23 tháng 02 năm 1941, tại căn cứ Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, Đội Cứu quốc quân 1 chính thức được thành lập. Đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ được Trung ương chỉ định đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng, đồng chí Chu Văn Tấn giữ chức vụ Chỉ huy phó. Đội Cứu quốc quân 1 khi mới thành lập gồm 32 cán bộ, chiến sỹ cả miền ngược lẫn miền xuôi đã trưởng thành từ khởi nghĩa Bắc Sơn và các phong trào cách mạng thời kỳ này. Đội Cứu quốc quân 1 là một đội vũ trang đầu tiên tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đảng ta trực tiếp tổ chức và lãnh đạo để chuẩn bị đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

- Ngày 23/2/1960 tỉnh Lạng Sơn vinh dự được đón Bác về thăm. Nói chuyện trong cuộc mít tinh lớn với hơn 25.000 cán bộ, bộ đội, học sinh và đồng bào các dân tộc Lạng Sơn tại sân vận động Đông Kinh, thị xã Lạng Sơn, Bác Hồ biểu dương:“Trong thời kỳ kháng chiến, đồng bào và cán bộ tỉnh ta đã anh dũng đánh giặc, cứu nước giữ làng. Từ ngày hòa bình trở lại, đồng bào và cán bộ tỉnh ta đã có nhiều cố gắng và thành tích. Đó là những ưu điểm, Trung ương và Chính phủ vui lòng khen ngợi toàn thể cán bộ và đồng bào”.

- Đồng thời là ngày thành lập thị trấn Đình Lập, trung tâm hành chính, văn hóa, xã hội của huyện Đình Lập.

3

11/4

Ngày 11/4/1938, tại thôn Na Han, xã Phi Mỹ (nay là xã Tri Phương), Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập chi bộ đầu tiên ở Tràng Định gồm 07 đảng viên là các đồng chí: Bế Văn Bính (Bí thư), Hoàng Kim Sơn, Hoàng Văn Cường, Hoàng Văn Bản, Mã Văn Ngân, Hoàng Váy Thao, Triệu Dín Nè.

4

30/4

Tổng thống Dương Văn Minh của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Quân Giải Phóng Miền Nam tiến vào Sài Gòn. Chính quyền Quân quản Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản. Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước giành thắng lợi.

Chiến thắng ngày 30/4/1975 đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Nhân dân ta.

5

7/5

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7/5/1954 mãi mãi là mốc son chói lọi, là thiên sử vàng trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ mở ra thời kỳ mới cho dân tộc là xây dựng CNXH ở miền Bắc

6

25/5

Ngày thành lập châu ủy Bắc Sơn: Ngày 25 tháng 5 năm 1938 được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ mà trực tiếp là đồng chí Hoàng Văn Thụ Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng tại đồi Nà Kheo, xã Tân Hương, đã diễn ra Hội nghị với sự tham dự của phần lớn các đồng chí Bí thư Chi bộ của các xã để tiến hành bầu ra Ban cán sự Châu ủy. Hội nghị đã bầu được 07 đồng chí vào Ban cán sự Châu ủy, gồm các đồng chí: Lê Xuân Thụ, Đường Văn Thất, Hoàng Đình Ruệ, Dương Thần Tần, Lương Đình Sơn, Hoàng Việt Thành, Dương Văn Tạch. Đồng chí Lê Xuân Thụ được bầu giữ chức vụ Bí thư Châu ủy, cơ quan thường trực châu ủy đặt tại nhà đồng chí Đường Văn Thất ở thôn Mỏ Tát, Vũ Lăng

7

16/8

Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.

8

- 19/8

- Cách mạng tháng Tám

Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn không chỉ với Nhân dân Việt Nam mà có ý nghĩa đối với toàn thế giới. Cách mạng Tháng 8 mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, lật đổ ngai vàng phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do.

Đối với huyện Đình Lập, 19/8 là ngày thành lập thị trấn Nông Trường Thái Bình, huyện Đình Lập. Ngày nay, thị trấn được nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, cũng như các tỉnh lân cận biết đến với thương hiệu Chè như Chè Ô Long, Chè Ngọc Thúy, Chè Bát tiên… các sản phẩm đã được công nhận là sản phẩm OCOP.

9

- 2/9

- Quốc khánh

Ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9/1945 chính là ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa. Sự kiện ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay). Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bản Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.

10

25/9

Ngày thành lập chi bộ đảng đầu tiên tại Bắc Sơn: Ngày 25 tháng 9 năm 1936, được sự phân công của Đảng, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn tại thôn Mỏ Tát, xã Tân Hương gồm 04 đảng viên là các đồng chí: Đường Văn Thông (tức Đường Kỳ Tân), Hà Khai Lạc (tức Hoàng Doãn Tạo), Đường Văn Tư (tức Đường Quảng Long), Nguyễn Mai Huyền (tức Nguyễn Văn Phòng). Đồng chí Đường Văn Thông (tức Đường Kỳ Tân) giữ chức vụ Bí thư.

11

- 27/9

- Khởi nghĩa Bắc Sơn

Sáng ngày 27 tháng 9 năm 1940, Đảng bộ Bắc Sơn đã triệu tập cuộc họp quan trọng tại đình Nông Lục xã Hưng Vũ. Cuộc họp đã thống nhất thông qua chủ trương khởi nghĩa, quyết định phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang và chọn thời gian khởi nghĩa từ 19 giờ 30 phút đến 20 giờ 27 tháng 9 năm 1940. Mục tiêu tiến công đầu tiên là đánh chiếm đồn Mỏ Nhài, Châu lỵ Bắc Sơn.

Khởi nghĩa Bắc Sơn là “tiếng súng” thức tỉnh quần chúng và mở đầu cho thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang để đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc.

12

Cứu quốc quân 1

Ngày 23 tháng 02 năm 1941, tại căn cứ Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, Đội Cứu quốc Quân 1 chính thức được thành lập. Đây là lực lượng vũ trang đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

13

10/10

Ngày 10/10/2427 (tức ngày 20/9 năm Đinh Mùi), tại Ải Chi Lăng, dưới chân núi Mã Yên, nơi có cánh đồng lầy lội (Bãi Đầm), Liễu Thăng và hơn 100 quân kỵ binh vừa qua cầu thì cầu bị đánh sập. Đội quân tiên phong của địch bị chia cắt. Đúng lúc đó, phục binh của ta nhất tề nổi dậy, xông lên tiêu diệt địch. Hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt gọn, tướng giặc Liễu Thăng bị chém đầu bên sườn Mã Yên Sơn (Núi Mã Yên).

Tại Ải Chi Lăng, sau khi Liễu Thăng bị chém đầu, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Trần Lựu…đã tiêu diệt hơn 01 vạn quân tiên phong của địch.

Ngày 10/10 hàng năm được lấy làm ngày kỷ niệm chiến thắng Chi Lăng của người dân Chi Lăng, Lạng Sơn nói riêng và Nhân dân cả nước nói chung.

14

14/10

Ngày thành lập Đội Du kích Bắc Sơn: Ngày 14 tháng 10 năm 1940, thay mặt ban chỉ huy khu du kích Bắc Sơn, đã tổ chức một cuộc mít tinh diễn thuyết tại làng Đon Úy (Sa Khao) xã Tân Hương với hơn 100 đảng viên và quần chúng cách mạng tham gia. Tại hội nghị, thay mặt Ban chỉ huy, đồng chí Trần Đăng Ninh tuyên bố Đội Du kích Bắc Sơn được thành lập. Hội nghị kêu gọi Nhân dân tích cực ủng hộ đội du kích; đồng chí nêu rõ đường lối đánh Pháp đuổi Nhật và nhiệm vụ cấp thiết của Đảng ta, các đảng viên cùng nhân địa phương phải tổ chức bộ đội vũ trang, xây dựng căn cứ địa và đánh du kích, chống khủng bố trắng của giặc. Công việc đầu tiên của đội du kích Bắc Sơn là tấn công bọn phản động ở địa phương, tuyên truyền, giải thích về đường lối, chủ trương của Đảng, động viên Nhân dân sẵn sàng đối phó với giặc Pháp và bè lũ phản động tay sai.

15

17/10

Tháng 9 năm 1950, ta chủ động mở mở chiến dịch Biên giới tấn công tiêu diệt quân Pháp. Từ ngày 03 đến ngày 08/10/1950, quân ta đã đánh tan 2 binh đoàn chủ lực của Pháp, tiêu diệt cánh quân cứu viện của chúng từ Hà Nội lên. Ngày 10 tháng 10, thị trấn Thất Khê được giải phóng. Ngày 13 tháng 10, địch rút khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, hai huyện Văn Uyên, Thoát Lãng được giải phóng. Đến ngày 17 tháng 10, địch rút khỏi An Châu (Đình Lập) chấm dứt sự chiếm đóng cuối cùng của thực dân Pháp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đối với Tỉnh lỵ Lạng Sơn, trong đó Thị xã Lạng Sơn là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của tỉnh nên sự kiện ngày 17 - 10 - 1950 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, được coi là ngày Giải phóng tỉnh Lạng Sơn nói chung và thị xã Lạng Sơn (nay là Thành phố Lạng Sơn) nói riêng.

16

31/10

Trong chiến dịch Biên giới 1950, trên trục đường số 1 và số 4 đã diễn ra nhiều trận đánh quan trọng, góp phần tiêu diệt quân Pháp, giải phóng vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tiến tới giành chính quyền chủ động trên chiến trường chính. Ngày 16/9/1950, chiến dịch bắt đầu, quân ta nổ súng tấn công tiêu diệt đồn Đông Khê. Ta liên tiếp chủ động tiến công tiêu diệt địch trên tuyến đường số 4. Đến ngày 30/10/1950, rạng sáng ngày 31/10/1950 nghe tin quân ta chuẩn bị tiến công Đình Lập, địch vội vã thu quân, chạy thục mạng về Tiên Yên, Hải Ninh (nay là Quảng Ninh). Ngày 31/10/1950, quân ta tiến vào tiếp quản huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn hoàn toàn giải phóng, trở thành hậu phương vững chắc, góp phần vào chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

17

04/11

Năm Tân Mão (1831), Vua Minh Mệnh tiến hành cải cách bộ máy hành chính toàn quốc, chia định địa hạt từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh bao gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng.

18

An Lão

Chiến thắng An Lão (ngày 7 - 8/12/1964) có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Lần đầu tiên trên địa bàn Khu V, quân ta đánh bại hệ thống phòng ngự của địch bằng cụm cứ điểm kết hợp với hệ thống ấp chiến lược; đồng thời đánh bại thủ đoạn đổ bộ bằng “trực thăng vận” của địch. Chiến thắng An Lão cũng đánh dấu bước trưởng thành của quân chủ lực Khu V, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích trong việc phối hợp thực hiện phương án tác chiến mới dưới hình thức chiến dịch quy mô trung đoàn. Chiến thắng An Lão đã làm thất bại chiến thuật “Trực thăng vận, thiết xa vận” của Mỹ - Ngụy, góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ trên chiến trường khu V.

19

Ấp Bắc

Trận Ấp Bắc (02/01/1963) là một trận đánh quy mô lớn diễn ra vào giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước với kết quả là chiến thắng lớn đầu tiên của quân vũ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với quân chính quy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được cố vấn Mỹ chỉ huy. Thất bại của Mĩ và quân lực Việt Nam Cộng hòa trong trận này không chỉ là một thất bại thuần tuý về chiến thuật mà còn mang ý nghĩa chiến lược, đã làm rung chuyển giới báo chí Mỹ, làm cho Nhân dân Mỹ quan tâm hơn đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Chiến thắng của Quân giải phóng tại Ấp Bắc đã đánh dấu sự thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.

20

Bạch Đằng

Sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội. Ngày nay, các loại tàu thuyền có tải trọng 300-400 tấn tham gia vận tải được cả hai mùa trên sông. Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam: Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán; Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 981, Hoàng đế Lê Đại Hành phá tan quân Tống xâm lược; Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Mông Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba).

21

Bãi Sậy

Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889): Nguyễn Thiện Thuật (tức Tân Thuật) dựng cờ khởi nghĩa lập căn cứ kháng Pháp ở Bãi Sậy (thuộc hai huyện Văn Giang và Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cũ), suốt mấy năm trời kiên trì đánh du kích tiêu hao, tiêu diệt địch. Đến năm 1889, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.

22

Bình Than

Hội nghị Bình Than là một hội nghị quân sự do vua Trần Nhân Tông triệu tập vào tháng 11 năm 1283 để bàn phương hướng kháng chiến khi quân Mông Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Hội nghị bàn hai vấn đề thiết yếu nhất: đó là xác định phương hướng chiến lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy chống xâm lăng. Ở hội nghị Bình Than, vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã quyết định trao quyền Tổng chỉ huy quân đội cho Trần Quốc Tuấn; Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư làm Phó đô tướng quân.

23

Cần Vương

Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) nổ ra vào cuối thế kỷ XX do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng trước nạn xâm lược của thực dân Pháp. Phong trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi.

24

Cốc Lùng

Di tích Cốc Lùng (Soong Luồng) tại thôn Co Hồng xã Xuân Dương tại đây tháng 6/1948 Đại hội Đảng bộ huyện Lộc Bình lần thứ I được tổ chức. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lộc Bình, bầu đồng chí Lê Viết Hùng giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy. Di tích Cốc Lùng (Soong Luồng) nằm trong danh mục kiểm kê theo Quyết định số 73/QĐ- UBND ngày 10/01/2019 của UBND tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

25

- Chiến thắng Chi Lăng

- Chi Lăng

Qua ngàn năm lịch sử, thời nào Chi Lăng cũng ghi dấu ấn với các trận đánh lớn, những chiến công oanh liệt, hiển hách mang tính quyết định trước các đội quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh,...

- Thế kỷ X, XI: Quân Tống 02 lần thất bại tại Ải Chi Lăng (Quỷ Môn quan).

- Thế kỷ XIII: Chi Lăng là nơi ghi dấu 2 lần thất bại của quân xâm lược Nguyên - Mông.

- Thế kỷ XV: Ngày 10/10/1427 (tức 20/9 năm Đinh Mùi 1427), tại Ải Chi Lăng đã ghi dấu một mốc son chói lọi, đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc với chiến thắng Chi Lăng, chém đầu tướng giặc Liễu Thăng, đập tan âm mưu đô hộ của nhà Minh, giành lại độc lập dân tộc.

- Thế kỷ XVIII (năm 1789), dưới thời Hoàng đế Quang Trung, Ải Chi Lăng một lần nữa làm cho Tôn Sĩ Nghị, tướng giặc nhà Thanh phải kinh hoàng bạt vía.

Chiến thắng Chi Lăng, cùng với Bạch Đằng, Như Nguyệt, Rạch Gầm - Xoài Mút, Ngọc Hồi - Đống Đa, Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh..., không chỉ là biểu tượng của mỗi địa phương mà đối với cả nước về tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tinh thần quyết chiến quyết thắng và nghệ thuật quân sự tuyệt vời của dân tộc Việt Nam.

26

Chương Dương

Trận Chương Dương diễn ra tại bến Chương Dương (nay thuộc địa phận huyện Thường Tín, Hà Nội) vào khoảng tháng 5, 6 Âm lịch (1285). Trong trận đánh này, các lực lượng quân Trần đã tập kích phá tan căn cứ thủy quân Nguyên, tạo mở ra thời cơ đánh úp đại bản doanh địch, tái chiếm kinh thành Thăng Long. Thượng tướng Trần Quang Khải đem quân vào Thăng Long, cảm khái trước sự dũng mãnh của dũng sĩ và Nhân dân đã xuất khẩu thành thơ: Chương Dương cướp giáo giặc / Hàm Tử bắt quân thù / Thái bình nên gắng sức / Non nước ấy nghìn thu.

27

Diên Hồng

Hội nghị Diên Hồng là hội nghị được tổ chức tại kinh thành Thăng Long do Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu họp các bô lão trong cả nước về trước thềm điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý, hỏi về chủ trương hòa hay đánh khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ 2.

28

Duy Tân

Phong trào Duy Tân (1906-1908): Là tên gọi một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động. Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước bằng con đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hoá, với các hoạt động thực tiễn như là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học hiện đại: dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại ngữ cũng như hướng đến nền chính trị dân chủ.

29

- Đá Bia

- Rừng Cấm

Đá Bia - Rừng Cấm là 02 địa danh nổi tiếng thuộc xã Đồng Tân và xã Hoà Lạc trong kháng chiến chống Pháp. Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ, cả nước, cả dân tộc anh dũng vùng lên chiến đấu chống quân thù xâm lược. Ngay trong đêm 19 tháng 12 năm 1946 nhiều nơi ở Hà Nội, Nam Định, Bắc Giang, Lạng Sơn... đã nổ súng tấn công tiêu diệt địch. Thắng lợi mở màn Đá Bia - Rừng Cấm của quân và dân Hữu Lũng góp phần quan trọng vào chiến công chung của cả nước trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm thất bại bước đầu mưu đồ lấn chiếm của chúng trên địa bàn huyện, thể hiện rõ ý chí quyết tâm đánh giặc, đáp ứng kịp thời lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

30

Đèo Cà

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 -1954), Đèo Cà là địa bàn đánh phá ác liệt của địch, trong đó địa danh Đèo Cà, thuộc thôn Làng Cà, xã Đồng Tiến, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn giáp ranh với thôn Đèo Cà, xã Đồng Hưu, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang - là địa điểm đánh phá ác liệt nhất nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta lên chiến trường Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống Pháp, Đèo Cà - Pha Đin - Điện Biên Phủ là một trong nhiều cung đường vận chuyển quan trọng phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

31

Đông Du

Phong trào Đông Du: là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan Bội Châu.

32

Đông Kinh Nghĩa Thục

Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907): Là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 trong thời Pháp thuộc. Mục đích của phong trào là: khai trí cho dân, phương tiện được hoạch định: mở những lớp dạy học không lấy tiền (để đúng với cái tên ‘nghĩa thục’ - trường tư thục vì việc nghĩa) và tổ chức những cuộc diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng.

33

Đồng Khởi

Phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre (17/1/1960): tính đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở nông thôn của Việt Nam Cộng hòa. Trong 2.627 xã toàn miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã, đồng thời làm tê liệt chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở hầu hết các xã khác. Dân số vùng giải phóng toàn miền Nam có khoảng 6,5 triệu người thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận. Kế hoạch lập khu trù mật và chính sách “cải cách điền địa” của Ngô Đình Diệm bị thất bại nặng. Hai phần ba số ruộng đất trong Cải cách điền địa (khoảng 17 vạn héc ta) được chia lại cho người dân. Phong trào Đồng khởi ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị. Trong năm 1960 ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, trong đó tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh nhân ngày 20/7/1960.

34

Hàm Tử

Sau cuộc rút lui chiến lược về Thiên Trường (Nam Định) từ tháng 2 năm 1285 để vào Thanh Hóa, vua tôi nhà Trần bắt đầu mở cuộc phản công vào các cứ điểm quan trọng của quân Nguyên tại vùng Khoái Châu, Hưng Yên. Trận quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng 5 năm 1285, 50.000 quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy đã nhanh chóng giành thắng lợi. Chiến thắng Hàm Tử góp phần tiêu diệt và quét sạch 500.000 quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, giải phóng hoàn toàn Đại Việt.

35

Hai Bà Trưng

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 - năm 43): là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa đã đánh đổ sự cai trị nhà Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ, mang lại độc lập trong 3 năm cho người Việt.

36

Hùng Lĩnh

Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 - 1892): Tống Duy Tân cùng với Cao Điền dựng cờ khởi nghĩa ở Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) cùng lúc với cuộc khởi nghĩa Phạm Bành, Đinh Công Tráng… Sau khi nghĩa quân Ba Đình bị tan rã, Tống Duy Tân tạm thời giấu lực lượng rồi lánh sang Trung Quốc. Năm 1888, ông trở về Thanh Hóa, tổ chức lại nghĩa quân, xây cứ điểm, đánh địch sáu năm ròng, lập nhiều chiến công. Năm 1892, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tống Duy Tân bị giặc bắt và hy sinh anh dũng.

37

Hương Khê

Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896): Năm 1885, Phan Đình Phùng hưởng ứng “Chiếu Cần Vương”, mộ quân đánh Pháp, lập căn cứ ở vùng núi hai huyện Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), cầm cự với giặc trên mười năm. Cuối năm 1895, Phan Đình Phùng lâm bệnh từ trần. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê tàn lụi dần. Đến đây cũng chấm dứt phong trào Văn thân chống Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1885 -1896).

38

Kỳ Lân

Núi Kỳ Lân là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng - đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

Núi Kỳ Lân là nơi bố trí phục binh của ta trong trận Chi Lăng ngày 10/10/1427. Khi đội kỵ binh tiên phong do Liễu Thăng chỉ huy tiến đến khu vực Đầm lầy dưới chân núi Mã Yên, phục binh của ta ém chốt ở đây đã bất ngờ đổ ra tiêu diệt gọn, góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang của trận Chi Lăng lịch sử.

39

Lam Sơn

Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo năm Mậu Tuất (1418). Trải qua 10 năm nếm mật nằm gai, kết thúc thắng lợi vào năm Đinh Mùi (1428), đánh dấu bằng sự kiện Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra Vương triều Hậu Lê tồn tại suốt 360 năm, đồng thời mở ra kỷ nguyên xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt hưng thịnh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, ngoại giao.

40

Lý Bí

Khởi nghĩa Lý Bí (542 - 544): sau khi đánh bại quân Lương giành được thắng lợi hoàn toàn, năm 544, Lý Bí lên ngôi làm hoàng đến lấy tên là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, dựng kinh đô tại cửa sông Tô Lịch. Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.

41

Như Nguyệt

Chiến thắng Sông Như Nguyệt (1077): là một trận đánh lớn diễn ra ở một khúc sông Như Nguyệt (hay sông Cầu) vào năm 1077, trận đánh có tính quyết định của cuộc Chiến tranh Tống-Việt (1075-1077). Trận chiến diễn ra trong nhiều tháng, kết thúc bằng chiến thắng của quân đội Đại Việt, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược Đại Việt của nhà Tống, buộc nhà Tống phải thừa nhận độc lập, chủ quyền Đại Việt.

42

Nội Bàng

Chiến thắng Ải Nội Bàng (1288): biết tin đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đánh chìm ở Vân Đồn (Quảng Ninh), quân Nguyên hoàn toàn suy sụp, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo 2 đường thủy bộ. Đích thân Thoát Hoan chỉ huy quân bộ rút về Trung Quốc. Khi đến Ải Nội Bàng (Lạng Sơn), đạo quân Nguyên bị phục binh của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng thoát thân.

43

Ngọc Hồi - Đống Đa

Trận Ngọc Hồi - Đống Đa hay còn gọi là Chiến thắng Kỷ Dậu 1789 là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và cũng là chiến công oanh liệt nhất của Hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ). Chiến thắng này đã chặn đứng ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị, giữ vững nền độc lập dân tộc.

44

Nguyễn Trung Trực

Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 - 1868): Năm 1861, Nguyễn Trung Trực (tức Nguyễn Văn Lịch) nổi dậy ở Tân An, chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy Vọng (Espérance) của giặc Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (12/1861), rồi lập căn cứ kiên trì chống giặc khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Năm 1868, bị giặc bắt và đưa đi hành hình, ông đã hiên ngang nói thẳng vào mặt chúng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.

45

Núi Thành

Chiến thắng Núi Thành (tỉnh Quảng Nam 27/5/1965) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Chỉ trong 25 phút giao tranh, quân ta đã chiếm lĩnh cả hai ngọn đồi 49 và 50, tiêu diệt toàn bộ đại đội lính Mỹ đóng tại đây. Từ chiến thắng Núi Thành đã mở đầu cho cao trào diệt Mỹ ở Khu 5 với khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt” dâng cao trên khắp các chiến trường, cổ vũ cho các trận đánh tiêu diệt địch trên quy mô lớn trong mùa khô các năm 1965 - 1966, 1966 - 1967.

46

Phượng Hoàng

Núi Phượng Hoàng là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

Di tích này gắn với truyền thuyết chim Phượng Hoàng và sự kiện năm 687, những nghĩa binh Tày - Nùng từ núi Phượng Hoàng vùng cao đứng lên sát cánh cùng Lý Tự Tiên - Đinh Kiến, tiến quân về phá tan thành Tông Bình (Hà Nội ngày nay) giết chết tên đô hộ Lưu Diên Hựu.

47

Tây Kết

Trận Tây Kết (1285): sau các chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo chia quân chặn các ngả đường không cho Thoát Hoan và Toa Đô liên lạc với nhau. Tiếp đó, Vương đem binh đến Tây Kết tấn công quân Nguyên, đặt phục binh bắt sống Toa Đô. Quân ta càng đánh càng mạnh, quân địch chống cự không nổi, Ô Mã Nhi và Toa Đô phải đem tàn quân chạy ra biển, tiếp tục bị phục binh của ta đổ ra vây đánh. Trong trận đánh này, Toa Đô bị tướng Nguyễn Khoái bắn chết, Ô Mã Nhi chạy vào Thanh Hóa, tiếp tục bị truy đuổi, phải dùng thuyền trốn chạy về nước. Trận đánh Tây Kết thắng lợi rực rỡ, toàn bộ 80.000 quân Nguyên bị chúng ta bắt sống và tiêu diệt.

48

- 15/6

- Thụy Hùng

Thành lập chi bộ Thụy Hùng: giữa năm 1933, Đồng chí Hoàng Văn Thụ và đồng chí Đoàn Viết Thọ tới Thụy Hùng, Văn Uyên (nay là xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc) tổ chức lễ kết nạp đảng viên, thành lập Chi bộ Thụy Hùng, là chi bộ đầu tiên ở Văn Uyên và tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí Hoàng Văn Thụ được chỉ định làm Bí thư Chi bộ. Chi bộ Thụy Hùng đảm nhận vai trò quan trọng làm nòng cốt để chỉ đạo việc xây dựng và phát triển phong trào cách mạng địa phương trong giai đoạn đầu của cuộc đấu tranh giải phóng do Đảng lãnh đạo trên địa bàn Lạng Sơn.

Ngày 22/12/2022, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 101-NQ/TU về Ngày truyền thống Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn, quyết nghị lấy ngày 15/6/1933 là Ngày truyền thống Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn; bổ sung mốc lịch sử này vào Lịch sử Đảng bộ tỉnh.

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chọn ngày 15/6 chính là ngày khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ nhất 15/6/1948, trùng với thời gian thành lập Chi bộ Thụy Hùng năm 1933. Việc lấy thời điểm thành lập Chi bộ Thuỵ Hùng làm ngày truyền thống của Đảng bộ tỉnh có ý nghĩa tôn vinh những đóng góp lớn lao của nhiều đồng chí lãnh đạo tiền bối, tiêu biểu của Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và trực tiếp thành lập Chi bộ Thuỵ Hùng trên cơ sở phát triển của phong trào cách mạng ở Lạng Sơn, nằm trong chủ trương của Đảng, của Quốc tế Cộng sản về việc tái lập hệ thống tổ chức đảng ở Đông Dương. Chi bộ Thụy Hùng đóng vai trò nòng cốt trong chỉ đạo việc xây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở Lạng Sơn, cùng với các tỉnh, thành phố trong khu vực tạo sức mạnh đoàn kết, tích cực đóng góp vào thành quả cách mạng của Đảng, của Dân tộc.

49

Trà Bồng

Khởi nghĩa Trà Bồng: ngày 28/8/1959, cuộc khởi nghĩa Trà Bồng đã nổ ra và sau đó lan rộng cả miền Tây Quảng Ngãi. Nhân dân các dân tộc cùng với các lực lượng vũ trang của ta đã nổi dậy cướp chính quyền địch, tấn công, tiêu diệt địch ở các căn cứ và các hang ổ, đồn bốt của địch ở vùng rừng núi; phá trụ sở ngụy quyền, thành lập chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng; đánh địch bảo vệ quê hương, bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Đây là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên của đồng bào các dân tộc ở vùng căn cứ miền núi Trung Bộ, một cuộc khởi nghĩa có tích chất quần chúng rộng rãi, có sức mạnh cỗ vũ, khích lệ phong trào đấu tranh chống Mỹ trên toàn miền Nam, chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

50

Trương Định

Khởi nghĩa Trương Định (1859 - 1864): Năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Trương Định tổ chức nghĩa quân chống Thực dân Pháp ở Gò Công, Tân An, được triều đình Huế giao chức Lãnh binh. Năm 1862, vua quan nhà Nguyễn hàng giặc, ra lệnh giải binh, nhưng Trương Định cương quyết kháng Pháp đến cùng, được Nhân dân suy tôn là Bình Tây đại nguyên soái. Ngày 20/8/1864, Trương Định bị thương nặng đã rút gươm tự sát. Con trai là Trương Quyền tiếp tục chiến đấu đến năm 1867.

51

Vạn Tường

Chiến thắng Vạn Tường (17/8-18/8/1965) có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, là mốc son chói lọi phản ánh khí thế cách mạng tiến công, sự mưu trí, kiên cường, dũng cảm, đoàn kết chiến đấu của quân và dân Quảng Ngãi với bộ đội chủ lực Quân khu 5. Nếu như chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho “cao trào diệt ngụy”, thì chiến thắng Vạn Tường lịch sử mở đầu cho “cao trào diệt Mỹ”. Chiến thắng Vạn Tường khẳng định quân và dân ta có khả năng đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lăng, dù chúng có thể đông quân, hùng hậu về vũ khí trang bị và khả năng cơ động.

52

Vân Đồn

Chiến thắng Vân Đồn (1288): đây là trận đánh ghi dấu ấn lớn của tướng Trần Khánh Dư vào tháng 1/1288. Trong trận đánh này, quân Trần đã đánh bại đoàn thuyền lương của quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy. Toàn bộ 14.300 thạch lương bị đánh chìm khiến đạo quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy đi vào nước ta trước đó hoàn toàn tê liệt.

53

Việt Bắc

Khu Giải phóng Việt Bắc (4/6/1945): thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập Khu Giải phóng gồm 02 căn cứ lớn nằm trên địa bàn của 06 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái…

Trong Khu Giải phóng, các Ủy ban Nhân dân do dân cử được hình thành, tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Khu Giải phóng với một triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau thực sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945.

54

Xô Viết Nghệ Tĩnh

Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh: Là tên gọi chỉ phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930- 1931 chống lại đế quốc Pháp tại Việt Nam. Tên gọi Xô viết Nghệ Tĩnh xuất phát từ sự hình thành các “xã bộ nông” mà những người cộng sản gọi là “Xô Viết”.

55

Yên Thế

Khởi nghĩa Yên Thế (1887 - 1913): nghĩa quân Yên Thế bền bỉ chiến đấu suốt 25 năm, gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất. Bọn thực dân Pháp nhiều lần mở những cuộc tiến công lớn, hai lần phải đình chiến và dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ nhưng đều thất bại. Cuối cùng chúng phải lập mưu sát hại Hoàng Hoa Thám (10/12/1913) mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa Yên Thế.

V

CÁC DANH NHÂN, TƯỚNG LĨNH TIÊU BIỂU CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ CỦA TỈNH (237 TÊN)

V.1

Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu của đất nước (177 tên)

A

Trước thế kỷ X

1

Lạc Long Quân

Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN), theo sử cũ Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng".

2

An Dương Vương

An Dương Vương tên thật là Thục Phán, là vị vua lập nên nước Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước này. Âu Lạc là nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau nhà nước Văn Lang đầu tiên của các vua Hùng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm (từ 257 TCN đến 208TCN). Căn cứ và Sử ký Tư Mã Thiên thì cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại gần 30 năm (từ 208 TCN đến 179 TCN). Ông là người xây thành Cổ Loa và phát triển thủy binh, cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế vững chắc cho Cổ Loa.

3

Cao Lỗ

Cao Lỗ quê quán: xã Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh, là một vị tướng tài của Thục Phán An Dương Vương. Ông giỏi võ nghệ, là người chế ra nỏ Liên Châu (Nỏ thần) và được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Ông được tôn là vị tổ sư nghề rèn của Việt Nam.

4

Hùng Vương

Truyền thuyết được ghi lại trong “Lĩnh Nam chích quái” thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược"(thời Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm.

5

Lê Chân

Lê Chân quê xã An Biên, huyện Đông Triều (Quảng Ninh). Bà đã tới An Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển trở thành một trại ấp lớn là An Biên (nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang quân theo Hai Bà Trưng để hợp sức đánh Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là Thánh Chân Công chúa.

6

Bà Triệu

Bà Triệu (226-248) tên thật là Triệu Thị Trinh, người Sơn Trung (Nông Cống - Thanh Hóa). Năm 247 cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống quân thống trị nhà Ngô, ở Ngàn Nưa, lập căn cứ Bồ Điền (Hậu Lộc), sau bị Lục Dận đem quân sang bao vây. Thế cùng lực tận, bà tuẫn tiết trên ngọn Tùng Sơn (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Nay ở đó còn lăng mộ và đền thờ bà.

7

Triệu Việt Vương

Triệu Việt Vương là miếu hiệu của Triệu Quang Phục, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, trước phò trợ Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân (544), rồi tự mình lên ngôi, xây căn cứ Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) chống quân xâm lược nhà Lương; sau bị Lí Phật Tử đánh bại, chạy về đến cửa Đại An (Nam Định) thì mất.

8

Mai Thúc Loan

Mai Thúc Loan quê quán Hà Tĩnh, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 8. Ông xưng đế và đóng kinh đô ở thành Vạn An. Sau đó, ông cùng nghĩa quân quanh vùng, liên kết với cả các nước Chăm Pa, Chân Lạp chống giặc tại địa phương và tiến quân ra Bắc tiến công thành phủ Tống Bình. Bọn đô hộ nhà Đường bỏ thành chạy tháo thân về nước.

9

Phùng Hưng

Phùng Hưng, quê ở làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, trước sự tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, khoảng năm 766 - 791, Phùng Hưng cùng với người em Phùng Hãi phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ. Phùng Hưng lãnh đạo nghĩa quân làm chủ đất Đường Lâm và cả một vùng rộng lớn, chiếm được thành phủ Tống Bình - cơ quan đầu não của bọn đô hộ nhà Đường.

10

Khúc Thừa Dụ

Khúc Thừa Dụ, quê ở Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, năm 905 nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta suy yếu, ông tự xưng là Tiết độ xứ, cùng với Nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khúc Thừa Dụ đã kết thúc cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là một trong những người đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc.

B

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII (Nhà Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý)

11

Ngô Quyền

Ngô Quyền (899-944), quê quán làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, là một tướng tài và con rể của Dương Đình Nghệ. Trong cuộc đấu tranh chống triều đình Nam Hán do Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhằm giành độc lập dân tộc vào những năm 930- 931, ông đã góp một phần công sức rất quan trọng. Sau khi đã thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ (931), và cử ông trông coi Châu Ái. Cuối năm 938, Ngô Quyền kéo quân từ châu Ái ra Bắc diệt giặc và lập một chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, quét sạch đội thủy quân Nam Hán do Vạn vương Hoằng Thao, con vua Nam Hán dẫn đầu.

12

- Đinh Tiên Hoàng

- Đinh Bộ Lĩnh

Đinh Tiên Hoàng (924-979), quê ở xã Gia Phương, Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cổ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cổ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.

13

- Lê Hoàn

- Lê Đại Hành

Lê Hoàn (941-1005), quê ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Ông không chỉ là một vị vua có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội.

14

Lý Thái Tổ

Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn (974-1028), quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, nơi vẫn còn lưu giữ ngôi đền Lý Bát Đế nổi tiếng thờ 08 vị vua triều Lý. Theo truyền thuyết Ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi. Lý Công Uẩn mới nhận lời lên ngôi vua, lập ra triều Lý. Lên ngôi báu, nhận thấy đất Hoa Lư chật hẹp, bốn bề núi giăng, không xứng là đất định đô của một quốc gia độc lập, càng khó để xây dựng đất nước phồn thịnh, Lý Thái Tổ nghĩ tới việc dời đô. “xem khắp đất Việt”, thấy chỉ có Đại La là “nơi thắng địa”, “ở trung tâm của trời đất”, “được thế rồng chầu hổ phục, đã thuận hướng nam bắc đông tây, lại tiện nghi núi sông sau trước”, “mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa”, Lý Thái Tổ bèn soạn thiên chiếu dời đô nổi tiếng sử sách để tham vấn ý kiến quần thần. Vua tôi nhất trí đồng lòng, quyết dời đô từ Hoa Lư ra Đại La.

15

Lý Thánh Tông

Lý Thánh Tông (1023-1072) quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, là vị vua thứ 3 của nhà Lý, cai trị từ năm 1054 đến 1072. Ông tên thật là Lý Nhật Tân, là người văn võ song toàn, ông nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam. Công lao của ông là đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn Miếu, phá Tống (1069), bình Chiêm (1069) và lấy được ba châu của Chiêm Thành.

16

Lê Văn Thịnh

Lê Văn Thịnh (chưa rõ năm sinh, mất năm 1096), là người tài năng, đỗ đầu trong khoa thi đầu tiên của Nho học Việt Nam có công lao lớn làm quan tới chức Thái sư Thời Lý Nhân Tông. Năm 1084, được cử lên trại Vĩnh Bình (Lạng Sơn) giải quyết vấn đề biên giới với quan chức nhà Tống. Theo "Đại Việt sử kí toàn thư", nhà Tống phải trả cho Đại Việt 6 huyện, 3 động. Đền thờ Ông hay Đền thờ Quan Trạng ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

17

Tô Hiến Thành

Tô Hiến Thành (1102-1179), người làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội), làm quan Thái úy thời vua Lý Anh Tông (1138-1175); giỏi cả văn, võ. Chỉ huy quân dẹp loạn và bọn xâm lấn ở biên giới phía tây, phía nam. Ông là người trung trực, thanh liêm nổi tiếng, có công khai phá vùng Tống Sơn - Nga Sơn (Thanh Hóa).

18

Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt (1019-1105), họ Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh tại Phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông có tài văn, võ. Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống bình Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Lịch sử cũng đã lưu lại tư tưởng quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông là tác giả bài thơ bất hủ “Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc. Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất.

19

Trần Thủ Độ

Trần Thủ Độ (1194-1264), quê huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều Trần bằng cách buộc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân vật trụ cột của triều đình, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất với câu nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương.

20

Trần Hưng Đạo

Trần Hưng Đạo (1232-1300), quê ở Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, còn gọi là Trần Quốc Tuấn hương Tức - Mặc, phủ Thiên - Trường, được phong ấp ở hương Vạn-kiếp, thuộc huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng - Giang. Ông có học vấn rất uyên bác, vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo. Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 -88), ông lại được đề bạt làm tiết chế thống lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng. Trần Hưng Đạo đã đề ra đường lối quân sự ưu việt, có tính chất Nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rút lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng - Long, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch - Đằng. Bên cạnh tư tưởng quân sự kiệt xuất, ông còn có nhiều tác phẩm như Binh gia diệu lý yếu lược (còn gọi là binh thư yếu lược) và Vạn- kiếp tông bí truyền thư, nhưng văn bản nay đều đã gần như thất lạc. Tác phẩm thứ ba duy nhất còn giữ được của ông là bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, vẫn quen gọi là Hịch tướng sĩ. Bài hịch chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của ông.

21

Trần Quang Khải

Trần Quang Khải (1241-1294): Trần Quang Khải, con thứ ba của Thái Tông Trần Cảnh, em ruột vua Trần Thánh Tông, làm tới chức Thượng tướng Thái sư; đảm nhận việc ngoại giao trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, trực tiếp chỉ huy trận thắng ở Chương Dương (1285); tác giả bài Tụng giá hoàn kinh sư nổi tiếng. Trần Quang Khải có học lực cao, sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc, bộc lộ hào khí của thời đại đất nước hưng thịnh, đồng thời lại chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ phong phú, gắn bó với thiên nhiên. Tập thơ Lạc đạo tập chỉ còn sót lại hơn mười bài, có bài nổi tiếng.

22

Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phủ Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên; một nông dân, ham học, có ý chí, tình nguyện tham gia quân đội đánh giặc ngoại xâm, chỉ huy quân cấm vệ của Trần Hưng Đạo; lập nhiều chiến công trong hai lần chống Nguyên - Mông (1285-1288), sau còn đi dẹp loạn quấy phá biên giới Lão Qua và Chiêm Thành ở phía Nam, trở thành danh tướng đời Trần, được phong tước Quan nội hầu.

23

Trần Bình Trọng

Trần Bình Trọng (1259-1285), danh tướng đời Trần, quê huyện Thanh Liêm, Hà Nam, vốn họ Lê do có công lớn nên được ban họ vua; trong trận đánh ở sông Thiên Mặc bị giặc Nguyên bắt dụ hàng, ông khảng khái nói: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và chịu chết.

24

Trần Quốc Toản

Trần Quốc Toản (1267-1285), quê ở Tức Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định, người anh hùng thiếu niên chống Nguyên Mông. Năm 1282, lúc ông mới 15 tuổi, được tin quân Nguyên Mông sang cướp nước ta, vua Trần Nhân Tông hội các vương hầu bàn kế sách chống giặc. Quốc Toản cũng là Hầu tước, nhưng vì nhỏ tuổi nên đến dự Hội Bình Than mà không được vào họp bàn. Ông đứng ngoài căm tức lỡ tay bóp nát quả cam vua ban cho. Tan Hội về, ông tập hợp đám bạn thiếu niên thân thuộc, sắm sửa vũ khí, may cờ hiệu đề 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân", rồi tự dẫn binh ra trận đánh giặc. Ông cùng các chiến binh trẻ tuổi tham dự vào nhiều trận đánh lớn, từng có lúc theo Thượng tướng Trần Quang Khải, góp phần chiến thắng Chương Dương vang dội trong lịch sử chống Nguyên Mông. Trong một trận đánh không cân sức, ông bị trọng thương và hy sinh năm 1285, lúc ấy mới qua tuổi 18. Vua Trần Nhân Tông thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Hoài Văn Vương. Trần Quốc Toản là vị tướng trẻ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Ông là tấm gương anh hùng yêu nước trẻ tuổi tiêu biểu của đất nước.

25

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), quê ở Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; đỗ trạng nguyên đời Trần. Ông thông minh, tài trí từ nhỏ, làm quan thanh liêm qua ba đời vua Trần, hai lần đi sứ nhà Nguyên, nổi tiếng với bài phú Ngọc Tỉnh Liên ví mình như đóa sen trong giếng ngọc.

26

Dã Tượng

Dã Tượng có công trong sự nghiệp chống quân Nguyên - Mông cuối thế kỷ XIII. Ông là người nổi tiếng trung thành, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô. Trong cuộc chiến gay go, quân sĩ tản mác, ông đã bám trụ ở một điểm đến khi chủ tướng gặp được Yết Kiêu mới thôi. Ông được Trần Quốc Tuấn tin yêu. Theo truyền thuyết, Dã Tượng còn là ông tổ nghề rèn. Những làng rèn đều thờ Dã Tượng tiên sư.

27

Yết Kiêu

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế quê ở huyện Thanh Hà, Hải Dương, do trải cuộc sống trên sông nước từ nhỏ nên ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều chiến công đóng góp cho chiến thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã được Nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).

28

Huyền Trân

Huyền Trân (1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Chế Mân qua đời, Huyền Trân được cứu đưa về Thăng Long. Năm 1308, bà đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Năm 1311, bà đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản, tỉnh Nam Định) lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau bà được Nhân dân thờ phụng tại đó.

29

Chu Văn An

Chu Văn An (1292-1370), quê quán xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng. Đến đời Dụ Tông, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết sách cho tới khi mất.

30

Lê Văn An

Lê Văn An (1384 - 1437), người làng Mục Sơn nay là xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông là một trong các công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Khi khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra, Lê Lợi cho ông làm thủ vệ kỵ binh quân Thiết đột. Năm 1424, trong trận Khả Lưu, ông xung phong đi đầu hãm trận, đánh lui quân Minh. Năm 1425, khi Lê Lợi cầm quân vây Nghệ An, sai Trần Nguyên Hãn đánh Tân Bình và Thuận Hoá, ông được cử cùng các tướng Lê Ngân, Lê Bôi mang thuyền tiếp ứng, phối hợp với Trần Nguyên Hãn đánh được hai thành. Năm 1427, Lê Văn An liên tục đánh bại quân Thôi Tụ, bao vây quân địch ở Xương Giang. Tháng 11 năm 1427, ông cùng các tướng tổng tấn công, bắt và giết toàn bộ quân địch, kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là một trong số các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

31

Nguyễn Bặc

Nguyễn Bặc (924- 980), là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Ninh Bình), Ông có nhiều công lao trong việc đánh dẹp loạn 12 sứ quân giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ quân. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua (Hoàng Đế Đinh Tiên Hoàng), ông được phong làm Định Quốc công, trông coi việc nội chính. Năm Đinh Dậu, Định Quốc công Nguyễn Bặc được vua Khải Định sắc phong là Hộ Quốc Tướng Công Trác Võ Thượng Đẳng Phúc Thần.

C

Thế kỷ XIII đến thế kỷ XV (Nhà Trần - Hậu Lê)

32

Trần Thái Tông

Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua đầu tiên của nhà Trần. Ông trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất thắng lợi; nhường ngôi cho con để tập trung nghiên cứu giáo lý nhà Phật và soạn tập Khóa hư lục.

33

Lê Văn Hưu

Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ - Lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh - Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Năm 1272 ông soạn xong bộ Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Đó là bộ sử ký quy mô đầu tiên của nước ta, đã được Trần Thánh Tông ban chiếu khen. Nhưng đáng tiếc hiện nay bộ sách đã thất lạc, chỉ còn một ít lời bình được Ngô Sĩ Liên ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một sử gia có lòng yêu nước, có cách nhìn tiến bộ đối với nhiều sự kiện lịch sử đương thời, bộ sử của ông đã đóng góp rất nhiều cho Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và đã để lại cho chúng ta nhiều nhận định quý báu về các sự kiện lịch sử cũng như những đoạn bình luận giàu tính chất văn học.

34

Trần Thánh Tông

Trần Thánh Tông (1240-1290), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị vì từ ngày 30 tháng 3 năm 1258 đến ngày 8 tháng 11 năm 1278. Sau đó ông làm Thái thượng hoàng từ cuối năm 1278 cho đến khi qua đời năm 1290. Ông thường được sử sách mô tả là một Hoàng đế tài giỏi, nhân từ, có nhiều chính sách tích cực, giữ vững được cơ nghiệp của triều đại và nền độc lập của quốc gia, và là một nhà thơ lớn, trị vì 20 năm (1258-1278), sau nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.

35

Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (1258-1308), vị vua thứ ba triều Trần, con cả Trần Thánh Tông, lãnh đạo quân và dân Đại Việt hai lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông (1285-1288), sau nhường ngôi cho con, đi tu ở núi Yên Tử, trở thành vị Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc Lâm.

36

Nguyễn Khoái

Nguyễn Khoái (chưa rõ năm sinh, năm mất): thế kỷ XIII, sinh trưởng ở đất Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên, có sức khoẻ phi thường, được vua Trần giao trọng trách chỉ huy quân túc vệ, tham gia các trận đánh giặc Mông - Nguyên ở Tây Kết, Hàm Tử, Bạch Đằng... có tài thiện chiến trên bộ, dưới nước; lập chiến công lớn, giải phóng kinh đô Thăng Long. Ông được vua Trần thưởng công và phong làm “Liệt hầu” - Là tước thời Trần chỉ để dùng để ban cho người trong hoàng tộc.

37

Nguyễn Hiền

Nguyễn Hiền (1235-1256) quê ở xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa thi của nước ta, ông có nhiều kế sách hay phò vua, giúp nước, đối phó với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La. Ông mộ dân đi khai hoang phục hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, tạo mùa màng thắng lợi, Nhân dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng rèn vũ khí, các võ đường rèn luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược.

38

Trần Nhật Duật

Trần Nhật Duật (1255 - 1330), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông và là một danh tướng của vương triều nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, đặc biệt là trận Hàm Tử. Ông được triều đình giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan, vì vậy rất am hiểu về phong tục tập quán và tiếng dân tộc.

39

Trương Hán Siêu

Trương Hán Siêu (?-1354), tên tự là Thăng Phủ, hiệu Đôn Tẩu, là một danh sĩ nổi tiếng đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng Giang Phú rất được lưu truyền...Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).

Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Ông tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Năm 1308, ông được vua Trần Anh Tông bổ Hàn lâm học sĩ. Đời Trần Minh Tông giữ chức Hành khiển. Sang đời Trần Hiến Tông năm 1339 làm môn hạ hữu ty lang trung, đến đời Trần Dụ Tông, năm 1342 đổi sang tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính sự.

Năm Quý Tỵ 1353, ông lãnh quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này yên ổn. Tháng 11 năm sau, ông cáo bệnh xin về nghỉ, nhưng về chưa đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua cho truy tặng hàm thái bảo, năm 1363 truy tặng thái phó và được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372), ngang với các bậc hiền triết đời xưa.

40

Nguyễn Trung Ngạn

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Trung Ngạn sinh năm Kỷ Sửu (1289), mất năm Canh Tuất (1370), lúc nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, được đương thời tôn vinh là “thần đồng”. Năm 12 tuổi, ông đỗ Thái học sinh, năm 16 tuổi, đỗ Hoàng giáp (học vị Tiến sỹ nho học), là vị Hoàng giáp đầu tiên của nước ta và cũng là ông tổ khai khoa của làng Thổ Hoàng, vị Kinh sư đại doãn (chức danh người đứng đầu kinh thành Thăng Long thời Trần), làm quan tới bậc Tể tướng - đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều. Ông làm quan trải qua 5 triều vua Trần, xuất sắc trên mọi phương diện chính trị, quân sự, ngoại giao, luật pháp, sử học... Ông được vua Trần bổ nhiệm giữ nhiều chức vụ quan trọng. Trong đó năm 1355, ông được thăng Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Nhập nội Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm viện Khu mật, Đại học sĩ hầu ở tòa Kinh diên, Trụ quốc, Khai Huyện bá. Về sau, ông làm quan đến chức Nhập nội Đại Hành khiển (tức Tể tướng), tước Thân Quốc công, đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều đình. Để tri ân và tôn vinh danh nhân Nguyễn Trung Ngạn, ngày 22.6.2018, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng công trình Đền thờ danh nhân Nguyễn Trung Ngạn tại thôn Hoàng Cả, thị trấn Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

41

Tuệ Tĩnh

Tuệ Tĩnh (1341-1385), tên thật là Nguyễn Bá Thành, quê phủ Hồng Châu (nay thuộc huyện Cẩm Giàng), tỉnh Hải Dương; có tài chữa bệnh, được cử sang Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng hậu, bị lưu lại và mất ở bên đó; là tác giả các bộ sách về thuốc Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa Giác tự y thư.

42

Hồ Nguyên Trừng

Hồ Nguyên Trừng (1347-1446), quê ở Thanh Hóa còn có tên là Lê Trừng, hiệu Nam Ông. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân Tự, Tư Đồ. Sau đó, được cử làm Tả tướng quốc nhà Hồ, làm quan ở bộ Công khi nhà Minh xâm lược. Ông là nhà kỹ thuật quân sự, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Ông cũng chỉ huy xây dựng nhiều công trình đồ sộ thời nhà Hồ. Ngoài ra ông còn là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 15, là người mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.

43

Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 - 1442), quê quán: huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi đất nước bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di Tam tộc trong vụ án Lệ chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hoá của Việt Nam và thế giới.

44

Nguyễn Chích

Nguyễn Chích (1382-1448), ông là người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là trọng thần giữ phần đất phía Nam của triều Lê sơ, được cho theo họ vua, nên cũng gọi là Lê Chích. Cuối đời Trần, quân Minh xâm chiếm nước ta, ông chiêu tập nghĩa quân hơn 1000 người, đắp lũy trong vùng động Hoàng Nghêu làm căn cứ kháng chiến. Sau ông giúp Lê Lợi, làm Nội thiếu úy, công trận rất nhiều, từng hiến nhiều kế sách rất hay, thu đạt thắng lợi. Cuối năm 1427, ông cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đánh tan quân Mộc Thạnh ở Lê Hoa.. Cho đến đời nhà Nguyễn, các triều vua vẫn tưởng niệm, liệt ông vào công thần khai quốc nhà Hậu Lê.

45

- Lê Thái Tổ

- Lê Lợi

Lê Thái Tổ (1385-1433) tên húy là Lê Lợi, là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở thành vị vua đầu tiên của vương triều nhà Hậu Lê, triều đại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Năm 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú… tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa. Đồng thời ông tự xưng là Bình Định Vương và kêu gọi Nhân dân đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh.

46

Lưu Nhân Chú

Lưu Nhân Chú (? - 1433), hay còn gọi là Lê Nhân Chú, người xã An Thuận Thượng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Ông là một trong các công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Lưu Nhân Chú tham gia “Hội thề Lũng Nhai” (1416), tham dự khởi nghĩa Lam Sơn từ buổi ban đầu. Ông tham gia các trận đánh ở ải Khả Lưu, trận thành Tây Đô, chiến dịch Chi Lăng- Xương Giang, lập nhiều công lao. Sau khi chiến thắng quân Minh, ông được vua Lê Thái Tổ phong chức Tể tướng, đứng đầu hàng võ, kiêm coi chính sự nhà nước.

47

Nguyễn Xí

Nguyễn Xí (1396-1465), là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Những năm 1421 và 1422, Nguyễn Xí là một trong những tướng có công đánh tan cuộc tấn công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo vệ an toàn Bộ chỉ huy Lam Sơn và lãnh tụ của Lam Sơn là Bình Định Vương Lê Lợi. Năm 1427, ông đã phối hợp với tướng Lê Sát hạ thành, bắt sống các tướng Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc, góp phần to lớn vào việc đánh chặn viện binh giặc, tạo điều kiện cho đại quân hạ thành Đông Quan, giải phóng đất nước vào năm 1427. Tháng 6.1460, ông cùng đại thần Đinh Liệt, Lê Niệm phế truất Nghi Dân đưa Gia vương (Lê Thánh Tông) lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Xí được coi là một tướng tài từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ cho đến Lê Thánh Tông, đem lại nhiều thắng lợi trên hai mặt trận quân sự và chính trị.

48

Đinh Liệt

Đinh Liệt (1400 - 1471), còn gọi là Lê Liệt. Người thôn Phúc Long, xã Minh Tiến, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Khi còn trẻ Đinh Liệt thường đi theo cận vệ cho Lê Lợi. Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi Chí Linh. Năm 1427, quân Lam Sơn vây Đông Quan (Hà Nội), anh ông là tướng Đinh Lễ bị tử trận. Lê Lợi bèn phong ông làm Nhập nội thiếu uý Á hầu. Cuối năm 1427, Liễu Thăng mang viện binh sang, ông được lệnh cùng Lê Sát mang quân lên Chi Lăng, góp sức diệt địch, chém được Liễu Thăng, đánh tan đạo viện binh. Đầu năm 1428, ông được phong chức thủ quân thiết đột. Tháng 2 năm 1428, vua Lê Thái Tổ định các mức khen thưởng cho những hỏa thủ và quân nhân của quân Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai gồm 121 người. Đinh Liệt công hạng nhất, được ban quốc tính, phong Suy trung tán trị hiệp mưu bảo chính công thần, Vinh lộc đại phu, tả Kim ngô vệ đại tướng quân, tước Thượng trí tự. Ông là một trong số các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt: địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

49

Trần Nguyên Hãn

Trần Nguyên Hãn (1420-1429): người làng Sơn Động, huyện Lập Thạch (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), dòng dõi nhà Trần. Ông vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, làm tướng lập nhiều công lớn, thu phục vùng Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan tham gia đánh thắng trận Xương Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ. Bình công được phong Tả tướng quốc (1428). Sau bị vua Lê nghi ngờ, ông nhảy xuống sông tự vẫn, 26 năm sau mới được Lê Nhân Tông minh oan.

50

Lê Lai

Lê Lai (?-1418) quê ở xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Ông tính cương trực, dung mạo khác thường, có chí khí. Ông hy sinh khi giả làm Lê Lợi để phá vòng vây cho chủ tướng và nghĩa quân Lam Sơn rút khỏi núi Chí Linh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được truy tặng là Sùng Trung đồng Đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần. Năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.

51

Lê Sát

Lê Sát (? - 1437) là nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, và là một trong những công thần khai quốc của thời Lê sơ. Lê Sát được Đại Việt thông sử mô tả là trí dũng hơn người. Thời kỳ nước Việt bị nhà Minh đô hộ, năm 1418 Bình Định vương Lê Lợi nổi quân ở Lam Sơn. Lê Sát theo Lê Lợi trải bao gian hiểm, nhiều lần thắng quân Minh trên các chiến trường Thanh Hóa, Nghệ An và Đông Đô điển hình như trận Quan Du (1420), trận Khả Lưu (1424), trận vây hãm Tây Đô (1425), trận vây hãm Đông Quan (1427) và trận công phá thành Xương Giang. Cuối năm 1427, Lê Lợi phong ông làm Tư mã.

52

Lê Văn Linh

Lê Văn Linh (? - 1448), ông sinh ra cuối thời nhà Trần, nổi tiếng về văn học từ nhỏ. Năm 1418, Lê Lợi phát động khởi binh chống nhà Minh tại Lam Sơn, Lê Văn Linh là văn thần phò giúp. Ông là quan văn cùng với Lê Thận, Lê Văn An là những tướng võ luôn đi sát bảo vệ Lê Lợi. Ông là một trong số các tướng lĩnh có nhiều công lao trong chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang. Ông là một trong số các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

53

Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh (1441-1496) quê ở xã Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định, ngay từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng “thần đồng làng Hương”. Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc văn từ bang giao với nước ngoài. Lương thế Vinh là một nhà giáo dục giỏi. Ông đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử , đưa việc học xuống tận nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Đặc biệt, Lương thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng trong công sở và trong Nhân dân. Dân quý mến gọi ông là Trạng Lường, tức là ông Trạng giỏi tính toán, đo lường. Lương Thế Vinh còn có những công trình về âm nhạc nhờ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội.

54

Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông (1442-1497), là vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông là người xây dựng bộ Luật Hồng Đức. Đây là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước phát triển mới rất quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ông được truy tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.

55

Ngô Sỹ Liên

Sống ở thế kỷ XV, người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1442 thi đậu tiến sĩ, làm ở Hàn lâm viện, rồi giữ chức Đô ngự sử. Năm 1480, dời Hồng Đức, theo lệnh của Lê Thánh Tông, ông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Thực lục, trở thành nhà sử học nổi tiếng ở nước ta.

56

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, làm quan đến Tả Thị lan Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau tám năm làm quan ông đã lui về ở ẩn, lập am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông mở trường dạy học bên cạnh sông Hàn, sông ấy còn có tên Tuyết Giang, vì thế học trò tôn xưng là Tuyết Giang Phu Tử. Học trò của ông rất đông và rất nhiều người trở thành nhân tài của nước như Trạng nguyên Giáp Hải, Phùng Khắc Khoan… Ông được phong tước Trình Quốc Công, hàm thượng thư bộ lại hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài). Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát luật đời bằng những phạm trù triết học.

D

Thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII

57

Phùng Khắc Khoan

Phùng Khắc Khoan (1528-1613): người làng Bùng (Phùng Xá), huyện Thạch Thất, nay thuộc Hà Nội; nổi tiếng thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, quen gọi là Trạng Bùng. Năm 1550 vào Thanh phù Lê, diệt Mạc. Đỗ hoàng giáp (1580), làm quan thượng thư Bộ Hội, Bộ Công triều Lê; đi sứ sang nhà Minh (1597), lý lẽ cứng cỏi. Ông còn là nhà thơ, tác giả tập thơ Nôm Lâm tuyền văn, miêu tả các loài cây cỏ. Ông đem nghề dệt dạy cho dân vùng quê ông.

58

Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572-1634), quê huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, con một gia đình nghệ sĩ tuồng vào Đàng Trong chống họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông giúp chúa Nguyễn đắp lũy Thầy (gồm 2 lũy Trường Dực, Nhật Lệ) ở Quảng Bình, được coi là Khai quốc công thần. Tác giả Hồ trướng khu cơ (sách binh pháp), tuồng Sơn Hậu, khúc ngâm Ngọc Long Cương Văn…

59

Nguyễn Đăng Đạo

Nguyễn Đăng Đạo (1651- 1719) quê xã Liên Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ông được mệnh danh là lưỡng quốc trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử Việt Nam được cả Việt Nam và Trung Quốc công nhận, ông có tài đối ứng và có nhiều công lao trong việc xây dựng đất nước và giữ gìn ổn định trên biên giới với các nước láng giềng.

60

Đoàn Thị Điểm

Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu “Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã hay chữ, từng lên Thăng Long dạy cung nữ trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn Kiều, tiến sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Bà là tác giả Truyền kỳ tân phả và dịch giả Chinh phụ ngâm.

61

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương được người đời mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sinh sống ở phường Khán Xuân, thành Thăng Long vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Bà quê gốc ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; giỏi thơ Nôm và có tài trào lộng, châm biếm, mang phong cách riêng biệt khác người, nhiều bài thơ Nôm được truyền tục rộng rãi trong dân gian.

62

Lê Hữu Trác

Hải Thượng Lãn Ông là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, từng chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự.

63

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn (1726-1784), quê ở thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con tiến sĩ Lê Phú Thứ, nổi tiếng thần đồng, ông có trí nhớ lạ lùng, tài ứng đối mau lẹ, 14 tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học, sau đó đỗ đầu các kỳ thi Hội và thi Đình. Khi mất ông được truy phong là thượng thư Bộ công. Về chính trị, Lê Qúy Đôn thi hành những cải cách, thiết định lại pháp chế, chăm lo đời sống kinh tế, làm cho dân giàu - nước mạnh, xã hội đạt đến mức thái bình - thịnh trị. Về văn hoá và văn học, Lê Qúy Đôn đọc sách và chuyên tâm viết sách. Tài năng, đức độ, trí tuệ, phong cách của Lê Quý Đôn xứng danh là nhà Bác học lớn của Việt Nam. Lê Quý Đôn đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ, bao quát hầu hết các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá, địa lý, nông học... Ở lĩnh vực nào, Lê Quý Đôn cũng nêu cao tinh thần độc lập, sáng tạo và ý thức tự tôn - tự cường dân tộc.

64

Nguyễn Gia Thiều

Nguyễn Gia Thiều (1741-1798): người làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, từ bé học trong phủ chúa Trịnh, thông minh, hiểu nhiều ngành nghệ thuật: nhạc họa, kiến trúc… 18 tuổi làm Hiệu úy rồi thăng Tổng binh, trấn thủ Hưng Hóa, được phong tước hầu. Tây Sơn thống nhất đất nước, ông về làng ẩn dật rồi mất. Tác giả Cung oán ngâm khúc nổi tiếng.

65

- Quang Trung

- Nguyễn Huệ

Nguyễn Huệ (1752-1792), quê ở Tây Sơn, Bình Định, năm 1771, ông cùng hai anh là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ phất cờ khởi nghĩa. Năm 1777, nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn làm căn cứ địa tiến công giải phóng Đàng Trong. Sau bốn lần giải phóng Gia Định, Nguyễn Huệ đã tiêu diệt hai vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện tại Rạch Gầm, Xoài Mút ngày 18-01-1785 đập tan chính quyền phong kiến ở Đàng Trong. Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Bắc Hà và mau chóng lật đổ tập đoàn phong kiến họ Trịnh thống trị đã ba trăm năm, lập lại nhà Lê. Mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789, với cuộc hành quân thần tốc, ông đập tan và quét sạch hai mươi vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, giải phóng Miền Bắc ra khỏi ách xâm lược. Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc, không những ông là một thiên tài quân sự mà còn xuất sắc về chính trị, ngoại giao, kinh tế...

66

Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm (1746-1803), nhà văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra Bắc Hà, trọng dụng cử ông trấn giữ Thăng Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh xâm lược, ông hiến kế lui quân về Tam Điệp bảo toàn lực lượng, đợi đại quân Tây Sơn ra, cùng tiến đánh giải phóng kinh thành - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Triều Tây Sơn mất, ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại; Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về văn, sử, triết, ngoại giao.

67

Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765-1820), xuất thân trong một gia đình quý tộc tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhiều đời làm quan dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện. Trong đó nổi tiếng nhất là kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3.254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.

68

Trịnh Hoài Đức

Trịnh Hoài Đức (1765-1825), còn có tên là Hoài An, tự là Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, quê tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Đồng Nai), đỗ khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn, làm quan tới chức Thượng thư Bộ hộ, Hiệp Tống trấn thành Gia Định, từng đi sứ sang triều Thanh; là nhà văn, nhà địa lí, tác giả của Gia Định thành thông chí. Về sáng tác, Trịnh Hoài Đức là một đại biểu xuất sắc trong nhóm “Gia Định Tam gia thi” hay “Bình Dương thi xã” (cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh), có tác dụng kích thích phát triển cho một vùng văn hóa. Ông còn để lại hai tập thơ chữ Hán là Cấn Trai thi tập (1783- 1819) và tập thơ đi sứ Trung Quốc Bắc sứ thi tập.

69

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858), hiệu Ngộ Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ giải nguyên (1819), làm tri huyện rồi đến Tổng đốc, Thượng thư nhưng đầy chìm nổi, có lúc bị cách làm lính. Ông có tài thao lược, có công khai hoang lấn biển vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; lập ra các huyện mới: Tiền Hải, Kim Sơn… Ông còn là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều bài ca trù nổi tiếng.

70

Phan Huy Chú

Phan Huy Chú (1782-1840), quê gốc Hà Tĩnh, chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có thực tài, hay chữ, mở trường dạy học và soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ nhà Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam rồi bị cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền sang Nam Dương quần đảo. Tác giả nhiều sách giá trị: Lịch triều hiến chương loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục.

71

Nguyễn Văn Siêu

Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên, rồi về dạy học, lập trường Phương Đình. Ông giỏi văn chương, học rộng, được người đời gọi là Thần Siêu, cùng với Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi tiếng thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị và có công tạo đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều những câu đối và đại tự do ông viết.

E

Thế kỷ XIX - Thế kỷ XX

72

Nguyễn Tri Phương

Nguyễn Tri Phương (1800-1873), quê ở Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; hồi trẻ, ông làm thơ lại ở huyện Phong Điền, tiến đến làm thơ lại ở Bộ hộ, sau được người tiến cử và vua Minh Mạng đã thu dụng ông. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Ông xây dựng đồn Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25-10- 1861, Pháp công phá đồn, ông bị thương, em trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều đình cách chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày 19-11-1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Giặc Pháp chiếm thành Hà Nội, chúng bắt được ông trong lúc bị thương nặng, lính Pháp biết về ông nên cố cứu chữa, nhưng ông đã từ chối. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng và mất vào 20-12-1873. Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước.

73

Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, Hà Đông, Hà Nội. Bà nổi tiếng về tài làm thơ. Thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho công chúa và các cung nhân. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Tác phẩm bà đã để lại gồm 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Quốc, qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh Hương sơn.

74

Cao Bá Quát

Cao Bá Quát (1808-1855), tự Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân, làm Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương (nay là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn 1300 bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người đời tôn ông là “Thánh Quát”.

75

Trương Định

Trương Định (1820-1864) quê ở Gò Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đánh thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây Mai, Thị Nghè... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.

76

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế; tục gọi là Đồ Chiểu, xuất thân trong gia đình nhà nho. Ông là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19. Ông làm nghề dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa. Ông là người thầy mẫu mực, là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…

77

Nguyễn Trường Tộ

Nguyễn Trường Tộ (1830 -1871), quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là trí thức, nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19, có tài năng xuất chúng. Ông có lòng yêu nước thiết tha, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ có thể canh tân đất nước theo mô hình Nhật Bản. Ông nhiều lần gửi các bản điều trần cho triều đình nhà Nguyễn, cử sứ bộ đi các nước tranh thủ sự ủng hộ, đánh úp Pháp ở sáu tỉnh Nam Bộ... Tên ông được đặt cho nhiều tên đường phố ở Việt Nam.

78

Hoàng Diệu

Hoàng Diệu (1832-1882), quê ở Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình). Pháp đánh thành Hà Nội (25/4/1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc chiến đấu tới cùng. Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết. Tượng đồng của ông và Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành phố Hà Nội để ghi nhớ hai ông đã hy sinh chống thực dân Pháp.

79

Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến (1835-1909): hiệu Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tam trường nên gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Làm quan triều Nguyễn ở nhiều nơi, sau tới chức Học sĩ sung Quốc sử quán Toản tu. Triều Nguyễn đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê. Nhà thơ hiện thực và trào lộng nổi tiếng, để lại nhiều thơ hay.

80

Hoàng Hoa Thám

Hoàng Hoa Thám (1836 -1913), quê ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; năm 16 tuổi, ông tham gia khởi nghĩa của Đại Trận (1870-1875). Khi Pháp chiếm Bắc Ninh (3/1884) Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh, rồi nghĩa quân của Hoàng Đình Kinh (1882-1888), sau đó ông đứng dưới cờ nghĩa Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài. Tháng 4/1892, Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại và Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế. Trong ba năm (1893-1895) giặc Pháp đã tập trung lực lượng để đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Hoàng Hoa Thám bằng chiến thuật du kích tài tình đã đã gây cho giặc những tổn thất nặng nề. Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27/6/1908 của binh lính yêu nước ở Hà Nội (gọi là vụ Hà thành đầu độc), sự kiện làm chấn động khắp cả nước. Cuối tháng 12/1912, Lương Tam Kỳ, một tên trùm thổ phỉ đã đầu hàng Pháp, cùng với bọn chỉ điểm sát hại Hoàng Hoa Thám ngày 10/02/1913.

81

Tống Duy Tân

Tống Duy Tân (1837- 1892), quê quán: xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà yêu nước kháng Pháp. Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh Hoá, sau làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hoá, có lúc ông từ quan về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất thủ, ông hưởng ứng phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập căn cứ và trở thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân của ông bị Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra Bắc, lúc chạy vào Hồng Lĩnh; một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách ghi là Lễ) làm phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành quyết ông vào ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất ông có câu đối: "Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn truyền".

82

Nguyễn Trung Trực

Nguyễn Trung Trực (1838-1868), người phủ Tân An, tỉnh Đình Tường (nay thuộc Long An); còn có tên Nguyễn Văn Lịch - một nông dân kiêm ngư nghiệp; hăng hái chống Pháp khi chúng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ; từng đánh đắm chiếm hạm Hy Vọng (Espérence) trên sông Vàm Cỏ (1861); được giao trấn thủ Hà Tiên. Pháp chiếm xong Nam Kỳ, ông lập căn cứ ở Hòn Chuông tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị Pháp bắt và đem hành hình ở Rạch Giá. Ông để lại câu nói nổi tiếng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.

83

Tôn Thất Thuyết

Tôn Thất Thuyết (1839-1913), quê ở Thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế, là danh tướng, nhà yêu nước. Năm 1869, ông làm án sát Hải Dương, Tán tương Quân thứ Thái nguyên, Tán lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên. Ông được phong làm Hữu Tham tri Bộ binh, tước Nam. Ông ráo riết chuẩn bị chống Pháp. Ông có công rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh mở đầu phong trào Cần Vương kháng Pháp.

84

Phan Đình Phùng

Phan Đình Phùng (1847-1895), người làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ năm 1877, làm quan Ngự sử triều Nguyễn. Năm 1883 bị cách chức vì không ủng hộ Tôn Thất Thuyết phế vua Dục Đức lập Hiệp Hòa. Ông về quê theo Hàm Nghi mộ quân Cần Vương, lãnh chức Hiệp thống quân vụ. Nghĩa quân của ông hoạt động khắp vùng núi Hương Sơn, Hương Khê, duy trì cuộc kháng chiến gần 10 năm, đánh Pháp, Ông mất tại căn cứ Núi Quạt, trong dãy Trường Sơn.

85

Lương Văn Can

Lương Văn Can (1854-1927), người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, đỗ cử nhân không ra làm quan, là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động được chín tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ kết án ông 10 năm biệt xứ sang Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.

86

Cao Thắng

Cao Thắng (1864-1893), quê ở làng Yên Đức, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tham gia khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng chỉ huy năm 1885, ông hy sinh trong một trận đánh đồn Pháp ở Thanh Chương (Nghệ An). Ông được cụ Phan Đình Phùng tin cẩn giao trách nhiệm chỉ huy quân sự. Nhờ có Cao Thắng, nghĩa quân trưởng thành nhanh chóng, mở rộng địa bàn, thanh thế vang dội ở 4 tỉnh miền Trung. Đặc biệt, Cao Thắng đã tìm mọi cách chế tạo được súng trường để trang bị cho nghĩa quân. Súng của Cao Thắng chế tạo làm cho các sĩ quan Pháp và kỹ sư Âu châu phải kinh ngạc.

87

Phan Bội Châu

Phan Bội Châu (1867 -1940), quê xã Xuân Hòa, Nam Đàn, Nghệ An Năm 1900, ông đỗ thủ khoa giải Nguyên trường Nghệ. Năm 1904, ông thành lập hội Duy Tân chủ trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp. Năm 1905, ông tổ chức cho 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập. Năm 1911, ông đã thành lập “Việt Nam quang phục hội”, mà tôn chỉ duy nhất là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam”. Hội cử người về nước hoạt động đã gây nên một số vụ bạo động vũ trang nhằm lay tỉnh hồn nước. Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc đem về nước, bị đưa ra tòa án đề binh Hà Nội xét xử. Nhân dân cả nước đã bùng nổ phong trào “bãi khóa, bãi công, bãi thị”. Thực dân Pháp buộc phải tha bổng, song chúng đem ông về Huế an trí, sống trong cảnh “cá chậu, chim lồng”, ông vẫn vươn lên, hy vọng tiếp tục hoạt động yêu nước. Ngày 29/10/1940, ông mất tại nhà tranh ở dốc Bến Ngự - Huế.

88

Trần Tế Xương

Trần Tế Xương (1870-1907) tên thật Trần Duy Uyên, quê huyện Mỹ Lộc, Nam Định; có tài văn thơ nhưng đi thi 8 lần mà chỉ đỗ Tú tài nên thường gọi là Tú Xương; nổi tiếng với thơ trào phúng, là tác giả Vị Xuyên thi văn tập.

89

Hàm Nghi

Hàm Nghi (1871-1943), là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong Lịch sử Việt Nam. Cùng với các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.

90

Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh (1872-1926), quê ở Quảng Nam. Năm 28 tuổi Phan Châu Trinh đỗ Cử nhân (1900), 29 tuổi đỗ Phó bảng (1901. Năm 1902, Phan Châu Trinh được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Thừa Biện (một chức quan nhỏ) Bộ Lễ và đến năm 1904 ông xin từ quan. Năm 1905, Phan Châu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu cuộc vận động duy tân ở Quảng Nam với 3 mục tiêu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước, Nhân dân Sài Gòn nhất là học sinh nồng nhiệt chào đón cụ. Khi Phan Bội Châu bị Hội đồng đề hình Pháp xử mức án “khổ sai chung thân”, Phan Châu Trinh gửi điện cho Toàn quyền Đông Dương đề nghị ân xá cho Phan Bội Châu. Tháng 11-1925, Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn về “Đạo đức luân lý Đông - Tây”; “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.

91

Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947): nhà chí sĩ, nhà văn, quê huyện Thăng Bình (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam, Đỗ hoàng giáp, không ra làm quan, đứng đầu phong trào Duy Tân ở Trung kỳ đầu thế kỷ XX. Phong trào chống sưu thuế nổ ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 13 năm, trở về là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, làm báo Tiếng dân. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Bộ trưởng Nội vụ, quyền Chủ tịch nước khi Bác Hồ sang Pháp, sáng lập và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Tác giả các sách Thi tu tùng thoại, Thi tù thảo, Trung Kỳ cựu u ký.

92

Đội Cấn

Trịnh Văn Cấn (1881-1918), quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) làm đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị giam ở đó) giác ngộ, phát động khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30/8/1917; bị Pháp đàn áp rút quân vào rừng Vĩnh Yên, thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.

93

Tôn Đức Thắng

Tôn Đức Thắng (1888-1980), quê ở xã Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, bị thực dân Pháp bắt và đầy ra Côn Đảo. Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1946 - 1980, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương, Trưởng ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam. Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1958), Huân chương Xu khe bato - huân chương cao quý nhất của Mông Cổ (năm 1978). Ông cũng là người đầu tiên được nhận giải thưởng Hoà bình Quốc tế Lênin.

94

Bùi Bằng Đoàn

Bùi Bằng Đoàn có tên gọi là Mộ Trần (1889-1955), quê quán tại Làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Năm 1945, ông tham gia Ban Cố vấn Chủ Tịch nước, thành viên Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết đất nước; Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ (1946). Từ năm 1946-1948, ông làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội, ở và làm việc tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

95

Võ Văn Tần

Đồng chí Võ Văn Tần (1891 - 1941), quê ở làng Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An). Từ năm 1930 - 1931, đồng chí trực tiếp tham gia và phụ trách các cuộc biểu tình ở Chợ Lớn, tỉnh Gia Định đòi tăng lương, giảm giờ làm. Đồng chí đã đảm nhiệm chức vụ như: Bí thư Tỉnh ủy Gia Đình; Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Ngày 28/8/1941, đồng chí bị thực dân Pháp xử bắn công khai tại khu giếng nước (nay là bệnh viện) Hóc Môn.

96

Hồ Chí Minh

Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Tất Thành

Tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, còn có tên là Nguyễn Tất Thành, con trai thứ hai của cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan; quê làng Kim Liên, nay là xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đổi tên là Nguyễn Ái Quốc (cùng nhiều bí danh khác) để hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Cuối cùng lấy tên là Hồ Chí Minh. Lúc nhỏ học chữ Hán, được gần gũi các nhà chí sĩ Duy Tân, sau vào học Trường Quốc học Huế, dạy học Trường Dục Thanh ở Phan Thiết, vào Sài Gòn rồi ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05/6/1911 trên tàu La Touch Treville. Người hoạt động cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhưng lâu nhất là ở các nước Pháp, Nga, Trung Quốc. Từ sau Đại chiến II, Người bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921) và chủ bút báo Người cùng khổ (Le Paria). Năm 1923, sang Liên Xô, về Trung Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (1924). Năm 1927, trở sang Liên Xô rồi về Thái Lan (1928), Hương Cảng (1930), hợp nhất 03 Đảng Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau là Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, về nước thành lập Mặt trận Việt Minh. Đến ngày 19/8/1945, lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), được bầu là Chủ tịch nước cho đến khi mất (02/9/1969). Hồ Chí Minh là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Ở trong nước, Người đã chỉ đạo tài tình công cuộc giải phóng dân tộc và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Người là hiện thân cho sự đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là hiện thân của sự đoàn kết các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Người là nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc, là nhà văn hóa lớn, được UNESCO tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất - danh nhân văn hóa thế giới”. Hồ Chí Minh đã đi vào tình cảm của Nhân dân trong nước và trên thế giới như một nhân vật huyền thoại. Người cũng là một nhà thơ lớn với tác phẩm bất hủ Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký) viết bằng chữ Hán, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

97

Ngô Tất Tố

Ngô Tất Tố (1894-1954), nhà báo, nhà văn hiện đại, người làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông đỗ đầu xứ nhưng bỏ nho học, đi làm báo, viết văn dịch thuật. Những tác phẩm nổi tiếng trước Cách mạng như Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng… cùng với bài báo bình luận xuất sắc ký nhiều bút danh; những sách nghiên cứu phê bình như Nho giáo, Lão tử, Mặc Tử; dịch thơ văn Hán - Nôm và truyện Trung Quốc, đã đưa ông thành cây bút hiện thực lớn. Ông tham gia Văn hóa cứu quốc, đi kháng chiến chống Pháp, làm báo cách mạng và mất tháng 4-1954 tại Yên Thế, Bắc Giang.

98

Hồ Tùng Mậu

Hồ Tùng Mậu (1896-1951), quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự, tham gia cách mạng từ sớm, hoạt động ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Viết báo Thanh niên. Năm 1926 vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu, bị bắt ba lần, tham gia hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản. Năm 1931 bị bắt giải về nước giam ở Tây Nguyên. Ông vượt trại về hoạt động ở miền Trung. Ông đã giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu IV, Tổng Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Ông hy sinh trên đường đi công tác ở Thanh Hóa.

99

Dương Quảng Hàm

Dương Quảng Hàm (1898-1946), quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông dạy học 25 năm ở trường Trung học Bảo hộ (Bưởi). Sau Cách mạng tháng Tám làm Tổng thanh tra Trung học vụ, Hiệu trưởng trường Chu Văn An. Giáo sư đi tiên phong trong xây dựng nền văn học sử nước nhà. Tác giả bộ sách quý Việt Nam văn học sử yếu (1942). Ông hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội (12/1946) và được truy tặng là liệt sĩ.

100

Hồ Đắc Di

Hồ Đắc Di (1900-1984), là bác sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm hiệu trưởng trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Kháng chiến, ông theo Chính phủ Cụ Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường Đại học Y của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc nhiều cán bộ y tế giỏi. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa. Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

101

Phùng Chí Kiên

Phùng Chí Kiên (1901-1941), tên thật là Nguyễn Vĩ, quê xã Mỹ Quang Thượng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, được giác ngộ cách mạng rất sớm. Năm 1926 ông sang Quảng Châu dự huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi theo học trường Võ bị Hoàng Phố, gia nhập quân cách mạng Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu (12/1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1931 học Đại học Phương Đông (Liên Xô). Năm 1934 tham gia chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Năm 1935 được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936 vận động thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh hội ở Trung Quốc.Năm 1941 cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh về Pắc Bó, chỉ đạo căn cứ Bắc Sơn (Cao Bằng), chỉ huy trung đội cứu quốc quân số 1. Ông bị Pháp bắt và giết hại ở Ngân Sơn tháng 8/1941, sau được truy phong quân hàm cấp tướng.

102

Hà Huy Tập

Hà Huy Tập (1902-1941) quê ở Hà Tĩnh, tham gia cách mạng, học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva, tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ nhất ở Ma Cao được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng rồi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông về Sài Gòn lãnh đạo phong trào cách mạng, năm 1938, ông bị Pháp bắt giam. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (11-1940) ông bị Pháp bắt lần thứ hai, chúng xử bắn ông và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần…Hà Huy Tập tích cực đấu tranh tuyên truyền cho Đảng Cộng sản. Ông đã viết Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản Đông Dương bằng tiếng Pháp, ký tên là Hồng Thế Công (1932). Năm 1937, ông viết cuốn Tơ-rốt-xki và phản cách mạng, ký tên Thanh Hương. Ông cộng tác với báo La lutte (1937).

103

Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học (1902-1930), quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc năm 1927 tại Nam Đồng Thư xã (Hà Nội), ông đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên. Tức là phấn đấu: Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc. Đường lối chiến lược của Đảng là: Trước làm cách mạng Quốc gia, sau làm cách mạng Thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam Quốc dân Đảng đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp các tỉnh ở Bắc kỳ, do tổ chức thiếu chặt chẽ nên cuộc vận động quần chúng của Việt Nam Quốc dân Đảng gặp nhiều trở ngại. Trước tình hình đó Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của mình chủ trương bạo động cách mạng với phương châm: “Không thành công thì thành nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Thái Học, phong trào bạo động chống Pháp ở các tỉnh đã nổ ra mà đỉnh cao là khởi nghĩa Yên Bái vào đêm 9, rạng ngày 10/2/1930. Việt Nam Quốc dân Đảng và khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong bể máu. Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bị giặc Pháp bắt và hành hình. Phong trào bị dập tắt. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã được Chính phủ truy tặng Liệt sỹ và bằng Tổ quốc ghi công.

104

Phan Đăng Lưu

Phan Đăng Lưu (1902-1941), quê ở Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông được bầu làm Uỷ viên thường vụ tổng bộ phụ trách tuyên huấn Tân Việt Cách mạng Đảng, có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì, đồng thời viết nhiều sách lí luận chính trị, văn học. Năm 1939, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương.

105

Lê Hồng Phong

Lê Hồng Phong (1902-1942), tên thật là Lê Huy Doãn, quê xã Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu học trường Hoàng Phố - Trung Quốc, tốt nghiệp Sĩ quan lục quân, sang Liên Xô học trường Không quân Lêningrat, Đại học Phương Đông, phụ trách Ban Hải ngoại của Đảng, đại biểu dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương, ông được cử là người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương. Về Sài Gòn lãnh đạo phong trào, bị địch bắt, ông bị đày ra Côn Đảo và hy sinh.

106

Đặng Thai Mai

Đặng Thai Mai (1902-1984) quê Lương Điền (nay là xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, Nghệ An). Năm 1928, Đặng Thai Mai bắt đầu dạy ở trường Quốc học (Huế), sau ra Hà Nội mở trường Thăng Long, lập Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo công khai của Đảng. Sau cách mạng, ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc hội khóa I, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông còn là một nhà giáo có uy tín với thế hệ trí thức mới nửa sau thế kỷ XX. Ông là nhà nghiên cứu văn hóa, sử học, triết học… có nhiều tác phẩm giá trị. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

107

Nguyễn Phong Sắc

Đồng chí Nguyễn Phong Sắc (1902 - 1931), quê ở làng Bạch Mai, ngoại thành Hà Nội (nay là số nhà 152 phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội). Tháng 6/1929, đồng chí tham gia sáng lập Đông Dương Cộng sản Đảng, được phân công phụ trách khu vực Trung Kỳ. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, đồng chí là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Tháng 10/1930, đồng chí là Ủy viên Trung ương và Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục phục trách Trung Kỳ. Ngày 03/05/1931, đồng chí Nguyễn Phong Sắc bị bắt và hy sinh ngày 25/5/1931.

108

Võ Văn Ngân

Đồng chí Võ Văn Ngân (1902 -1938), quê ở làng Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Năm 1930, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí đã từng giữ các chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ.

109

Lương Khánh Thiện

Đồng chí Lương Khánh Thiện (1903 - 1941 ), quê ở làng Mễ Tràng, xã Liêm Chính, huyện Thanh Liêm (nay thuộc phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Tháng 6/1929, đồng chí bị địch bắt, sau đó được thả tự do và tiếp tục tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Đồng chí đã đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư lâm thời Xứ ủy Bắc Kỳ; Bí thư Thành ủy Hà Hội, Hải Phòng, Bí thư Liên khu B. Tháng 01/1941, đồng chí bị mật thám Pháp bắt và xử bắn tại trường bắn Kiến An, Thành phố Hải Phòng.

110

Trần Phú

Trần Phú (1904-1931), quê huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh; đỗ đầu Cao đẳng Tiểu học (1922), dạy ở trường Tiểu học Cao Xuân Dục, tham gia hội Phục Việt (sau đổi là Tân Việt), được cử sang Quảng Châu (1926) rồi sang học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Tháng 4/1930, về nước được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (hội nghị ở Hương Cảng tháng 10/1930), soạn thảo bản Luận cương Chính trị đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tháng 4/1931, bị địch bắt, tra tấn dã man và mất tại nhà thương Chợ Quán khi mới 27 tuổi (06/9/1931).

111

Đào Duy Anh

Đào Duy Anh (1904-1988), quê quán Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm 1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau Cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ, Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào Bộ từ điển Larousse với tư cách là một Nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.

112

Nguyễn Lương Bằng

Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), quê quán thôn Đông, xã Đoàn Lâm (nay là xã Thanh Tùng) huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, ông còn có bí danh Anh Cả hoặc Sao Đỏ. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, theo học lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hướng dẫn và được kết nạp vào An Nam cộng sản Đảng. Năm 1943, ông được chỉ định làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác tài chính và công tác binh vận, đồng thời giữ chức Chủ nhiệm của Tổng bộ Việt Minh.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông công tác tại nhiều địa điểm của tỉnh Tuyên Quang, giữ các chức vụ: Trưởng ban Kinh tế - Tài chính Trung ương; Tổng Giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam, Phó Chủ tịch nước, Tổng thanh tra Chính phủ…

113

Hoàng Quốc Việt

Hoàng Quốc Việt (1905-1992), quê ở Đáp Cầu, tỉnh Bắc Ninh tên thật là Hạ Bá Cang. Ông tham gia cách mạng từ năm 1925. Năm 1930, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Trung, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu quốc hội từ khoá V, VI, VII, VIII. Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.

114

Tô Ngọc Vân

Tô Ngọc Vân (1906-1954), quê ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên; sinh ở Hà Nội, học khóa II trường Mỹ thuật Đông Dương (1925-1931), sau trở thành giáo sư hội họa của trường. Ông tham gia hoạt động bán công khai trong Mật trận Việt Minh, sau Cách mạng tháng Tám là một trong những họa sĩ đầu tiên được vào vẽ Bác Hồ. Ông mất trong kháng chiến chống pháp, sau 28 năm cống hiến cho hội họa Việt Nam hiện đại; để lại nhiều tác phẩm sơn dầu giá trị, được lưu giữ trong các bảo tàng quốc gia và thế giới. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

115

Phạm Văn Đồng

Phạm Văn Đồng (1906-2000), quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, năm 1926-1929, ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau đó, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù ở Côn Đảo. Ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng: Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1955 - 1976), Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976-1987). Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác của Liên Xô, Lào, Campuchia, Cuba…

116

Trường Chinh

Đồng chí Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu (1907-1988), quê quán tại thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Tại Tuyên Quang, năm 1947, ông làm việc tại Bản Chương, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1948, ông ở, làm việc tại Đồng Man - Lũng Tẩu xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Từ năm 1950 đến năm 1951, ông ở, làm việc tại thôn khuôn Miềng, xã Kiên Đài, huyện Chiêm Hóa. Tháng 2/1951, ông dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa và được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Từ tháng 4/1951 đến cuối năm 1953, ông ở, làm việc tại Đồng Man, làng Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Từ đầu năm 1954 đến tháng 8/1954, ông ở, làm việc tại thôn Khuôn Điển, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn. Tại đây, Tổng Bí thư Trường Chinh thay mặt Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị "Ra sức phá tan âm mưu đẩy mạnh chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp"; chỉ đạo thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.

117

Lê Duẩn

Lê Duẩn (1907-1986), quê ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt, bị giam tại các nhà tù: Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo. Từ 1946 - 1957, ông từng giữ các chức vụ: Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ và được phân công lãnh đạo cách mạng miền Nam. Năm 1982, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.

118

Phó Đức Chính

Phó Đức Chính (1908-1930), quê ở làng Đa Ngưu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên; một trong những người cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc khởi nghĩa tháng 2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Thông (Sơn Tây), nhưng không thành. Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết án tử hình. Ông bị xử chém cùng với thủ lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại Yên Bái ngày 17/6/1930.

119

Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), quê ở Thái Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngày 28/7/1929, thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 03/02/1930 là đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối 1930 được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt xử chém. Nguyễn Đức Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống hiến đối với sự ra đời của tổ chức công đoàn và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

120

Hà Huy Giáp

Hà Huy Giáp (1908 - 1995): Ông quê xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1927, ông được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, năm 1928 - 1929 vào Nam Kì dạy học tại Sa Đéc học đường và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia chủ trương "vô sản hóa" ở Đồng Tháp Mười, Cần Thơ. Năm 1930, ông được bầu vào Xứ ủy Nam kỳ, rồi ủy viên Thường vụ Xứ ủy phụ trách tuyên huấn. Năm 1931, bị địch bắt tại Sài Gòn và bị xử án chung thân đày ra Côn Đảo. Năm 1936 được trả tự do, trở về hoạt động ở nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh), lãnh đạo công nhân đấu tranh, đình công đòi quyền lợi kinh tế... Ông bị Pháp bắt lại và xử 3 năm tù ngồi và 3 năm quản thúc. Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ hai, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách tuyên huấn của Trung ương cục miền Nam. Từ năm 1956 đến năm 1987, ông đã giữ các chức vụ: Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Ủy viên Trung ương Đảng khóa III, Bí thư Đảng đoàn Bộ Văn hóa và Hội Văn nghệ, Phó trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Năm 1982, ông được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh

121

Nguyễn Sơn

Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là "Lưỡng quốc tướng quân". Năm 1925, ông gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của Nhân dân Quảng Châu và học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 11 năm 1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam, Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1948, ông được Nhà nước phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Ông mất năm 1956 và sau đó được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

122

Nguyễn Văn Huyên

Nguyễn Văn Huyên (1908-1975): hiệu Huy Vân, sinh tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội); tiến sĩ văn khoa, cử nhân luật, giáo sư sử học, từng làm Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ (1945), Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1946-1975); Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; sáng lập Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; để lại nhiều tác phẩm nghiên cứu văn, sử. Ông là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ khoa văn trường đại học Xoóbon (Pháp).

123

Ngô Gia Tự

Ngô Gia Tự (1908-1935), quê ở Bắc Ninh, ông được Đảng kỳ bộ Bắc Kỳ chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh. Cuối năm 1928, ông vào Sài Gòn hoạt động. Ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại Sài Gòn, đến tháng 5/1933 thì chúng đày ông ra Côn Đảo.

124

Phạm Ngọc Thạch

Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; tốt nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp (1934), năm 1936, ông là hội viên duy nhất ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở bệnh viện tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm 1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng sản và tham gia phong trào cách mạng, phong trào Mặt trận Bình dân, khởi nghĩa tháng Tám được cử vào Ủy ban Nhân dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954 ra Bắc, làm Bộ trưởng Y tế (1958), Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tác giả của vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực tế phục vụ chiến trường, năm 1968 ông trở về Nam và mất trong vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ vì bệnh sốt rét ác tính ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có nhiều công trình nghiên cứu chuyên môn có giá trị về bệnh lao. Các luận văn viết bằng tiếng nước ngoài của ông đã được đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest (1961), New Delhi (1957), Moscow (1958) và Paris (1968).

125

Chu Văn Tấn

Thượng tướng Chu Văn Tấn (1909-1984) sinh tại xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng là Chỉ huy phó Đội Cứu quốc quân 1, nguyên là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là một trong 9 Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam được phong năm 1948 và cũng là một trong 2 Thượng tướng đầu tiên.

Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng: là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I, II và III (1945 - 1976), Phó chủ tịch Quốc hội…

126

Trần Đăng Ninh

Trần Đăng Ninh (1910-1955): Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn ngày 27 tháng 9 năm 1940 đã giành được thắng lợi có ý nghĩa lớn là đập tan được chính quyền địch ở Châu lỵ Bắc Sơn. Nhưng do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc đó, các đồng chí lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên mạnh mẽ. Trước tình hình đó, ngày 14 tháng 10 năm 1940 xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh đến Bắc Sơn để phổ biến chỉ thị của Xứ ủy Bắc Kỳ và thực hiện Nghị quyết của cuộc họp tại Sai Khao (xã Vũ Lăng) là tổ chức mít tinh tại làng Đon (xã Vũ Lăng), đồng chí Trần Đăng Ninh thay mặt xứ ủy Bắc Kỳ tuyên bố thành lập Đội du kích Bắc Sơn và kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ Đội, tiếp tục đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa. Ngày 28 tháng 10 năm 1940 nhân dân các xã Hữu Vĩnh, Ngư Viễn, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Gia Hòa, Trấn Yên…tổ chức tuần hành từ Nam Nhi đến trường Vũ Lăng họp mít tinh. Đồng chí Trần Đăng Ninh đã diễn thuyết, vạch trần tội ác của bọn đế quốc Pháp, phát xít Nhật và động viên nhân dân tích cực ủng hộ cách mạng. Đồng chí Trần Đăng Ninh đã có nhiều công lao trong công cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền và đã trở thành một cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam.

127

Trần Văn Cẩn

Trần Văn Cẩn (1910-1994), quê Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham gia tích cực các hoạt động hội họa phục vụ kháng chiến và giảng dạy; một trong những họa sĩ tiêu biểu trong nền mĩ thuật hiện đại Việt Nam, từng là Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ thuật Đức; để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em Thúy, Gội đầu, Xuống đồng… Với những đóng góp to lớn, Trần Văn Cẩn đã được trao nhiều huân chương cao quý, trong đó có Huân chương Lao động hạng nhất. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).

128

Đặng Văn Ngữ

Đặng Văn Ngữ (1910-1967), giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà khoa học xuất sắc để lại nhiều công trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành ký sinh trùng. Ông là giáo sư chủ nhiệm bộ môn Sinh học, Đại học Y khoa, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực nghiệm chống sốt rét cho quân Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

129

Nguyễn Thị Minh Khai

Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941) còn có tên là Vịnh, quê gốc ở làng Mọc Quan Nhân (nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân), sinh tại thành phố Vinh. Năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách vận động vùng Trường Thi - Bến Thủy rồi sang công tác ở văn phòng Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản tại Hương Cảng, bị chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc bắt giam (1931-1934). Năm 1935, là đại biểu Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Matxcơva, làm bạn đời với Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, 1936 về nước, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, chỉ đạo khởi nghĩa Nam Kỳ và bị bắt, Pháp xử bắn bà tại Hóc Môn.

130

Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987), Nhà văn Việt Nam, người làng Mọc Thượng Đình, sinh tại phố Hàng Bạc, nhưng sống với gia đình thời trẻ ở miền Trung. Làm báo, viết văn, đóng phim từ năm 1930. Nổi tiếng với thể loại tùy bút mang phong cách riêng độc đáo trước Cách mạng, trong kháng chiến và sau hòa bình. Tham gia chống Pháp, đi Nam tiến; thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; đi với bộ đội dự các chiến dịch sông Thao, đường số 4. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị: Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tóc chi Hoài, Sông Đà; Hà nội ta đánh Mỹ giỏi….

131

Võ Nguyên Giáp

Võ Nguyên Giáp (1911- 2013), quê ở Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Bí thư Quân uỷ Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khoá I - khoá VII; Đại tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam. Với tài năng quân sự kiệt xuất và những đóng góp vĩ đại cho quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được báo chí thế giới ca ngợi là “vị tướng huyền thoại”, sánh cùng các vĩ nhân trong suốt 2.000 năm qua.

132

Trần Văn Giàu

Trần Văn Giàu (1911-2010), quê ở An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An ông là nhà hoạt động cách mạng, khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Ông được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Tổng giám đốc Nha thông tin Bộ nội vụ, là người sáng lập ra giải thưởng Trần Văn Giàu năm 2002. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).

133

Lê Đức Thọ

Lê Đức Thọ (1911-1990), tên thật là Phan Đình Khải, quê làng Dịch Lễ, nay thuộc xã Nam Vân, Nam Định. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, bị Pháp bắt tù đày ở Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, Hòa Bình… ra tù, ông tham gia phát động cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa. Kháng chiến toàn quốc, ông công tác ở miền Nam, giữ cương vị chủ chốt trong Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam. Năm 1955 ông được bổ sung vào Bộ Chính trị, phụ trách công tác tổ chức của Trung ương Đảng, Giám đốc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tham gia Quân ủy Trung ương, sau trở lại miền Nam công tác. Ông là cố vấn đặc biệt của phái đoàn Chính phủ ta tại hội nghị Paris, ký hiệp định với Mỹ giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Năm 1975, ông vào Nam chỉ đạo cuộc tổng tiến công mùa xuân và chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước.

134

Võ Chí Công

Võ Chí Công (1912-2000), quê ở xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam. Từ 1945 - 1976 ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Ban tổ chức cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu 5, Phó bí thư Trung ương cục, Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 - 1991, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1992, ông được Nhà nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.

135

Phạm Hùng

Phạm Hùng (1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, quê ở xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945, ông được bầu làm Bí thư Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ. Từ 1956 - 1975, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam. Từ 1976 - 1987, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

136

Lê Văn Lương

Lê Văn Lương (1912-1995), quê ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 1945, ông là Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam bộ, tham gia chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà xuất bản Sự thật. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông ở, làm việc tại nhiều địa điểm của tỉnh Tuyên Quang và giữ các chức vụ: Bí thư Văn phòng Trung ương Đảng; Trưởng Ban Tổ chức Trung ương (khi đó gọi Bộ Tổ chức) kiêm phụ trách Văn phòng Trung ương Đảng.

137

Xuân Thủy

Xuân Thủy (1912-1985), tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; từng giữ các chức vụ Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị Paris, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội; ông là nhà thơ, để lại các tác phẩm Đường xuân, Thơ Xuân Thủy …

138

Tôn Thất Tùng

Tôn Thất Tùng (1912-1982) là một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên Xô. Ông là giáo sư, đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ tài năng tại trường Đại học Y khoa Hà Nội.

139

Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị; năm 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thị xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn. Ông sử dụng nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ Thanh rồi cuối cùng là Hàn Mặc Tử. Tác phẩm gồm có: Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu duyên (gồm 02 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội)…Hàn Mặc Tử học tiểu học ở Quy Nhơn, trung học ở Huế, có thời gian làm ở Sở Đạc điền (Quy Nhơn). Năm 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau trở ra Quy Nhơn. Năm 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Hòa và qua đời ở đó.

140

Tô Hiệu

Tô Hiệu (1912-1944), quê làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên; tham gia các phong trào yêu nước từ năm 1925. Năm 1930, bị bắt và bị đày ra Côn Đảo; tại đây, ông trở thành đảng viên Cộng sản. Năm 1934 ra tù, hoạt động Mặt trận Dân chủ ở Hà Nội, rồi ra vùng mỏ Cẩm Phả chỉ đạo phong trào công nhân; được cử làm Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 12/1939, ông lại bị Pháp bắt, giam lại nhà tù Sơn La. Do bị tra tấn, tù đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng, qua đời ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La, nêu cao khí tiết của người Cộng sản.

141

Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng (1912-1939): quê gốc ở huyện Mĩ Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất chúng, với các tác phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc sảo như: Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố, Làm đĩ …

142

Trần Đại Nghĩa

Trần Đại Nghĩa (1913-1997), quê ở xã Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Ông là một kỹ sư quân sự, một nhà khoa học lớn, là người đặt nền móng cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Ông từng du học Pháp nhiều năm, lặng lẽ tự học và nghiên cứu các kỹ thuật quân sự, bản thiết kế và cách chế tạo vũ khí. Sau này được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho trọng trách Cục trưởng Cục Quân giới Bộ Quốc phòng, ông là người chế tạo thành công các vũ khí mới như: súng bazooka, súng không giật SKZ, đạn bay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954. Để ghi nhận công lao và đóng góp của Trần Đại Nghĩa, ông được phong hàm Thiếu tướng và được Nhà nước ta phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

143

Chu Huy Mân

Đồng chí Chu Huy Mân (1913 - 2006), quê ở xã Yên Lưu, tổng Yên Trường, Phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An). Năm 1930, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí đã đảm nhiệm các chức vụ: Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Phó Bí thư Quân Ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban Quân ủy chính 4 tỉnh Trung bộ; Chủ tịch Ủy ban quân chính khu C (gồm Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình); Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu 4; Bí thư Đảng ủy Quân khu Tây Bắc, Bí thư Khu ủy Liên khu 5.

144

Lê Trọng Tấn

Lê Trọng Tấn (1914-1986). Là Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13 tháng 3 năm 1954) trận mở đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ và sau 56 ngày đêm quân đội ta đã cắm là cờ chiến thắng trên nóc Hầm Đờ Cát Tơ Ri vào ngày 07/5/1954.

145

Nguyễn Chí Thanh

Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), quê ở Thừa Thiên Huế là một tướng lĩnh kiệt xuất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là người đề xuất chiến thuật đánh áp sát của Quân giải phóng miền Nam với phương châm “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Bộ chính trị và Ban bí thư. Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Ông mất năm 1967.

146

Nam Cao

Nam Cao (1914-1951), tên thật là Trần Hữu Tri, người làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; nhà văn hiện thực Việt Nam. Làm văn, viết báo từ năm 1936, tham gia Văn hóa cứu quốc và gia nhập Việt Minh từ năm 1941; đi Nam tiến 1946 rồi lên chiến khu Việt Bắc làm báo. Hy sinh trên đường vào công tác ở vùng địch hậu khu III. Tác giả nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt, Chuyện biên giới.

147

Đinh Núp

Đinh Núp (1914 - 1999), là người dân tộc Ba Na; ông nguyên Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VI (1976 - 1981). Đinh Núp được phong anh hùng và thường được gọi là Anh hùng Núp. Ông đã lãnh đạo các dân tộc Ba Na và Ê Đê đứng lên chống lại thực dân Pháp.

148

Hoàng Văn Thái

Hoàng Văn Thái (1915-1986), tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Ông tham gia phong trào nông dân Tiền Hải từ năm 1936, được kết nạp vào Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Tiền Hải. Sau Cách mạng tháng Tám, được giao phụ trách Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 5, Phó Bí thư Trung ương Cục, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

149

Nguyễn Văn Linh

Nguyễn Văn Linh (1915-1998), tên thật là Nguyễn Văn Cúc, quê quán: Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm 1929, ông tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo. Năm 1930, ông bị bắt và kết án tù chung thân, bị đày ra Côn Đảo. Năm 1939, ông hoạt động ở Sài Gòn và tham gia Ban chấp hành Đảng bộ TP. Sài Gòn. Từ 1945 - 1986, ông hoạt động chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ, Sài Gòn với nhiều chức vụ: Bí thư Thành uỷ, Uỷ viên Xứ uỷ Nam Bộ, Thường vụ Xứ uỷ Nam Bộ, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Năm 1986, ông được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác.

150

Lý Tự Trọng

Lý Tự Trọng (1915-1932) , quê ở Xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh có nhiều tích cực trong việc liên lạc giữa Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội với Đảng bộ, các cán bộ cách mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ chức chuyển thư từ tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng chí đang diễn thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết mật thám Pháp và bị bắt. Anh bị chính quyền Pháp tại Sài Gòn kết án tử hình, anh bị xử bắn khi mới 17 tuổi. Câu nói nổi tiếng của anh được các thế hệ thanh niên lấy làm lẽ sống cho mình ”Con đường thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng không có con đường nào khác”.

151

Xuân Diệu

Tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu (1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; tham gia phong trào Việt Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian; năm 1983 được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học xuất sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê bình văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt về các nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật và nhiều giải thưởng cao quý khác.

152

Văn Tiến Dũng

Văn Tiến Dũng (1917-2002), quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ 1942 - 1943, ông đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Uỷ viên Thường vụ Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ; Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định; Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1978 - 1986). Ông được phong hàm Đại tướng năm 1974, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), Huân chương Hồ Chí Minh.

153

Lương Định Của

Lương Định Của (1918-1975), quê ở Sóc Trăng, tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở thành tiến sĩ thứ 96 của Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện Nghiên cứu canh nông, rồi ra chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm Viện trưởng Viện cây lương thực và thực phẩm, được phong Anh hùng lao động.

154

Huy Cận

Huy Cận (1919-2005), quê ở Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III. Năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông còn là thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và Huân chương Sao Vàng (2005)

155

Nguyễn Thị Định

Nguyễn Thị Định (1920-1992), quê ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam (1965- 1975). Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

156

Tố Hữu

Tố Hữu (1920-2002), quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ông là một tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Ông đảm trách nhiều chức vụ: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha tuyên truyền và văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng…Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật (1996), Huân chương Sao Vàng (1994), Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan (1996).

157

Bùi Xuân Phái

Bùi Xuân Phái (1920-1988): Quê ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, Hà Đông, thành phố Hà Nội. Ông theo học tại Trường Mĩ thuật Đông Dương khoá XV (1941 - 1946); hội viên ngành hội hoạ Hội Mĩ thuật Việt Nam từ 1957. Trong quá trình sáng tác ông đã được tặng Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp Mĩ thuật Việt Nam. Xem tranh của ông, người ta phát hiện ra một đời sống tinh thần riêng đầy quyến rũ của những khu phố cổ Hà Nội, một phong cách riêng, thường được gọi là “Phố Phái”. Hiện nay, tranh của ông được lưu giữ ở Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam và trong nhiều bộ sưu tập cá nhân trong và ngoài nước. Riêng ngôi nhà của ông, số nhà 87 phố Thuốc Bắc, Hà Nội được coi như một bảo tàng nhỏ, trưng bày những tác phẩm của ông và con ông

158

Chế Lan Viên

Chế Lan Viên (1920-1989), chính tên là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Nghệ Tĩnh, sinh ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, học ở Qui Nhơn, đỗ trung học rồi dạy tư. Nổi tiếng từ khi còn ít tuổi, với tập thơ Điêu tàn (1938), tiếp đó là tập văn xuôi Vàng sao (1942). Từ Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV rồi chuyển ra hoạt động ở Việt Bắc, tham gia nhiều khóa Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách bao gồm thơ, bút ký, lý luận - phê bình, với bút pháp sắc sảo, thông minh và giàu chất trí tuệ. Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

159

Nguyễn Cơ Thạch

Nguyễn Cơ Thạch (1921-1998), quê quán xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị giam tại nhà lao Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1940-1945). Năm 1943 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng, Bí thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên khu (1949-1954) và nhiều chức danh cấp cao khác. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ), nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Ông được nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…

160

Đỗ Nhuận

Đỗ Nhuận (1922-1991), quê quán xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng, là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Opera. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm 1943, ông tham gia hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các nhà lao: Hải Dương, Hoả Lò, Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát “Chiến thắng Điện Biên”… Ông được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.

161

Phan Đình Giót

Phan Đình Giót (1922-1954) sinh ở làng Vĩnh Yên (nay là thôn 8), xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Sau Cách mạng tháng Tám, Phan Đình Giót tham gia tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950, Phan Đình Giót xung phong đi bộ đội chủ lực. Ông đã tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ mặc dù bị thương ông đã lấy thân lấp lỗ châu mai khiến quân địch không bắn ra được, quân ta chớp cơ hội xung phong tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam vào ngày 13/3/1954, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ

Ông là một trong 16 anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân được tuyên dương vì thành tích trong chiến dịch Điện Biên Phủ

162

Võ Văn Kiệt

Võ Văn Kiệt (1922-2008), quê ở xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu. Từ 1976 - 1982, ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.HCM, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Từ 1982 - 1988: Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh… Năm 1997, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.

163

Văn Cao

Văn Cao (1923-1995), quê gốc ở huyện Vụ Bản, Nam Định nhưng sống ở Hải Phòng, là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ nổi tiếng, tác giả Quốc ca Việt Nam. Ông sáng tác nhiều ca khúc cách mạng nổi tiếng như Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội, Mùa xuân đầu tiên …

164

Tô Vĩnh Diện

Tô Vĩnh Diện (1924- 1954) sinh ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1946 tham gia dân quân ở địa phương, đến năm 1949 xung phong đi bộ đội. Tháng 5/1953, Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, anh đã dũng cảm lấy thân mình chèn vào bánh pháo, anh dũng hy sinh. Anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 7/5/1955, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

165

Trần Hoàn

Trần Hoàn (1928-2003), tên thật là Nguyễn Tăng Hích, còn có bút danh Hồ Thuận An. Ông nguyên là Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương. Ông tham gia hoạt động âm nhạc trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp sáng tác, ông để lại những tác phẩm nổi tiếng như: Một mùa xuân nho nhỏ, Chào mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Ghi nhận những đóng góp to lớn của ông, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật và nhiều Huân, Huy chương, giải thưởng cao quý.

166

Kim Đồng

Anh hùng Nông Văn Dền (tức Kim Đồng, 1929 - 1943) quê ở Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là người dân tộc Nùng. Sinh trưởng trong chiếc nôi cách mạng, khi còn nhỏ Kim Đồng đã sớm giác ngộ và vận động các bạn cùng lứa tuổi trong bản làm nhiệm vụ liên lạc, chuyển công văn, tài liệu, đưa đón cán bộ, trinh sát nắm tình hình địch để cung cấp cho cán bộ. Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim Đồng được giao nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng. Địch phát hiện và cho một lực lượng lớn bao vây hòng bắt sống các đồng chí lãnh đạo của Đảng. Trước tình thế nguy hiểm, Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc hướng, lừa địch tập trung lực lượng và hỏa lực về phía mình, đồng thời phát tín hiệu báo cho các đồng chí cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi ở tuổi 14 và trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi theo. Tháng 5/1941, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội thiếu niên cứu quốc Kim Đồng là một trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội thiếu niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện trí thông minh, lòng dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

167

Cù Chính Lan

Cù Chính Lan (1930-1952), quê xã Quỳnh Lôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; trong chiến dịch Quang Trung (1950) được nêu gương “Anh hùng tay không diệt giặc”. Chiến dịch Hòa Bình (1951), anh dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường số 6 năm 1952, anh tham gia đánh đồn Gô Tô, bị cụt hai tay và một chân vẫn anh dũng chỉ huy đến hơi thở cuối cùng. Được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

168

La Văn Cầu

Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1931, ở huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), người dân tộc Tày. Với khát khao được cầm súng giết giặc giải phóng đất nước, dù mới 16 tuổi, La Văn Cầu đã khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Ông là một trong bảy người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần I. Với các thành tích trong chiến đấu, ngày 19 tháng 5 năm 1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, khi đó ông đang là tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm 1952, La Văn Cầu được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107- SL ngày 10 tháng 8 năm 1952. Ông được phong hàm Đại tá từ năm 1985, và được tặng Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất.

169

Nguyễn Viết Xuân

Nguyễn Viết Xuân sinh ngày 20/1/1933 tại thôn Thượng xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 05/11/1952, Ông nhập ngũ và trở thành chiến sỹ của C3 Đoàn 99. Sau đó Ông trở thành chiến sỹ trinh sát của C832 D396. Ngày 18/11/1964, tại trận địa phòng không miền Tây tỉnh Quảng Bình. Máy bay phản lực Mỹ nhằm vào trận địa ném bom. Anh em trong đơn vị chưa quen bắn pháo nên có phần lúng túng, Ông đã kịp thời động viên: “các đồng chí hãy vững vàng, dũng cảm nhìn thẳng máy bay mà bắn.

Ngày 19/11/1964, Nguyễn Viết Xuân hi sinh nhưng lời hô bất hủ của Ông “Nhằm thẳng quân thù, bắn !” còn vang vọng. Cảm phục trước tấm gương hy sinh anh dũng, toàn quân đã noi gương Ông. Tổ quốc ghi nhớ công lao của Ông. Ngày 01/01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho liệt Sĩ Nguyễn Viết Xuân.

170

Vừ A Dính

Vừ A Dính (1934 - 1949) là con trong một gia đình người Mông có truyền thống yêu nước nồng nàn - cơ sở cách mạng của quân Việt Minh tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu. Cha mẹ Vừ A Dính là ông Vừ Chống Lầu (sinh năm 1899) và bà Sùng Thị Plây (sinh năm 1901), họ cùng những người khác trong nhà đã hi sinh bởi nòng súng của quân Pháp. Mẹ Sùng Thị Plây được trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trong đợt đầu tiên (1994).

Từ nhỏ Vừ A Dính đã thông minh, gan dạ, luôn xung phong lên đường liên lạc giúp cho bộ đội. Trong một lần thực hiện nhiệm vụ, vô tình rơi vào cạm bẫy của giặc, Vừ A Dính kiên quyết nói: “Không biết” dù bị tra tấn dã man. Cuối cùng, quân Pháp không lấy được thông tin gì nên đã bắn chết và treo lên cây Vừ A Dính lúc này chỉ mới tròn 15 tuổi.

171

Nhất Chi Mai

Nhất Chi Mai (1934-1967) Tên thật là Phan Thị Mai, sinh tại làng Thái Hiệp Thành - Tây Ninh. Bút hiệu Nhất Chi Mai tự Nhất Chi, pháp danh Thích nữ Diệu Huỳnh. Chị là phật tử thuộc dòng tu Tiếp Hiện, theo học hai Trường Đại học Văn Khoa và Vạn Hạnh. Khi còn là sinh viên, Nhất Chi Mai hoạt động từ thiện rất tích cực, sôi nổi. Vận động lòng hảo tâm của những người giàu để giúp những người lao động cùng khổ, những sinh viên nghèo hiếu học. Sáng ngày 11/6/1963, thầy Thích Quảng Đức tự thiêu để chống chánh quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo và phản đối chiến và sự kiện chấn động nước Mỹ ngày 2/11/1965, khi anh Morrisson bế con mình là Emyly (Emily) từ nhà đến Lầu Năm Góc, đặt con xuống đất, hôn lên má con lần cuối cùng rồi châm lửa tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Mỹ gây ra tại Việt Nam ảnh hưởng dữ dội đến tâm trí chị. Ngày 16/5/1967, lúc 7 giờ 20 phút chị đã đến chùa Từ Nghiêm (đường Bà Hạt, quận 10, Sài Gòn), tự tưới 10 lít xăng lên người rồi châm lửa, tự biến thân mình thành đuốc, sau khi để lại 10 bức thư cho cha mẹ, thầy, bạn và chính quyền các bên có liên quan.

172

Võ Thị Sáu

Võ Thị Sáu (1935-1952), tên thật: Nguyễn Thị Sáu, quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là anh hùng Lực lượng vũ trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội viên Công an Xung phong quận Đất Đỏ. Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức căm thù thực dân Pháp, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5/1948, tham gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14/7/1949, cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 5/1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển đến Khám Chí Hoà, Sài Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết người công an cách mạng. Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn động dư luận xã hội lúc đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng. Võ Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23/1/1952 và được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.

173

Nguyễn Văn Trỗi

Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964), quê quán xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam; Ông làm thợ điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử Tây Nam Sài Gòn. Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ Rừng Thơm, Đức Hòa (Long An). Ngày 2/5/1964, ông nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9/5/1964. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi anh với một con tin là trung tá không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa được trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn. Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn tại sân sau nhà lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15 tháng 10 năm 1964, trước sự chứng kiến của nhiều phóng viên nước ngoài.

174

Lê Anh Xuân

Lê Anh Xuân (1940 - 1968), là nhà văn, liệt sĩ. Anh từng học Đại học tổng hợp Hà Nội sau đó, được cử đi học ở nước ngoài, nhưng đã xin được về quê hương chiến đấu. Anh hy sinh ngày 25/5/1968 trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 ở vùng phụ cận Sài Gòn, ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Lê Anh Xuân có 3 tập thơ đã xuất bản "Tiếng gà gáy", "Hoa dừa", "Trường ca Nguyễn Văn Trỗi", trong đó có bài thơ nổi tiếng "Dáng đứng Việt Nam". Năm 2001, Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và được truy tặng anh hùng lực lượng vũ trang năm 2011.

175

Đặng Thùy Trâm

Đặng Thùy Trâm (1942-1970), tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, sau đó xung phong vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của người thầy thuốc trong thời gian chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm công tác tại bệnh viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn đã bị địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất trẻ. Trong hành trang để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã được một cựu chiến binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại chiến trường huyện Đức Phổ tìm thấy và cất giữ. Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” sau đó đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; liệt sĩ Đặng Thùy Trâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân năm 2006.

176

Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê quán xã Thiệu Cơ, Hạ Hòa, Phú Thọ, ông là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà văn hiện đại của Việt Nam. Năm 1978 ông làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói. Các tác phẩm của ông giàu tính hiện thực và nhân văn, được dàn dựng thành công như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”… Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.

177

Nguyễn Bá Ngọc

Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Bá Ngọc (1952-1965) quê ở xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương. Năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh, trong đó địa bàn giáp ranh giữa xã Quảng Trung với xã Hải Châu, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa là một trong những trọng điểm bị đánh phá ác liệt.

Ngày 4/4/1965, máy bay Mỹ kéo đến bắn phá dữ dội vào địa bàn xã Quảng Trung. Lúc này, bố mẹ đi vắng, Nguyễn Bá Ngọc đã một mình đưa các em xuống hầm tránh bom. Ngồi dưới hầm, nghe tiếng khóc bên nhà hàng xóm Ngọc đã lao ra khỏi hầm chạy sang và thấy người bạn tên là Khương bị thương, 2 em của Khương đang gào khóc trong hoảng loạn. Bất chấp hiểm nguy, Ngọc đã lấy thân mình che chở, dìu các em của Khương xuống hầm trú ẩn. Hai em nhỏ được cứu sống, nhưng Ngọc trúng bom, bị thương rất nặng và hi sinh vào rạng sáng ngày 5/4/1965 khi mới 13 tuổi và đang là học sinh lớp 4.

Ghi nhận sự hi sinh của người thiếu niên anh dũng, ngay sau đó Nhà nước đã công nhận Nguyễn Bá Ngọc là liệt sĩ và truy tặng Huân chương Chiến công hạng Ba cho anh. Đến năm 2015, Nhà nước đã truy tặng danh hiệu anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sỹ Nguyễn Bá Ngọc.

V.2

Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu của tỉnh, danh nhân gắn liền với lịch sử, văn hóa của tỉnh (58 tên)

1

Thân Thừa Quý

Thân Thừa Quý (966-1029) là tù trưởng người Tày ở động Giáp vào thế kỷ XI được vua Lý gả con gái cho phong làm Châu Mục Lạng Châu và đổi từ họ Giáp sang họ Thân. Thân Thừa Quý có thể coi là Thủy tổ của dòng họ Thân ở Việt Nam. Thân Thừa Quý tên thật là Giáp Thừa Quý là tù trưởng người Tày cai quản động Giáp rộng lớn là phần đất thuộc vùng phía Bắc của tỉnh Bắc Giang và vùng phía Nam của tỉnh Lạng Sơn.

Năm 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi vua, vì muốn tăng tình đoàn kết bảo vệ biên giới với các tù trưởng dân tộc thiểu số, nhận thấy Lạng Châu là vùng đất trọng yếu đã tăng mối thân tình bằng cách gả con gái cho và phong làm phò mã. Giáp Thừa Quý được vua chọn làm con rể và được đổi từ họ Giáp sang họ Thân bằng việc ban thêm cho một nét chữ vào chữ Giáp tên họ, để trở thành chữ Thân. Gọi là họ Thân để nói lên ý nghĩa tình thân ái đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam và để phân biệt hoàng thân quốc thích với tầng lớp bình dân.Từ đó ông chuyển sang tên họ là Thân Thừa Quý làm Châu Mục Lạng Châu cai quản và bảo vệ vùng đất Đông Bắc của Tổ quốc.

2

Thân Thiệu Thái

Sinh năm 996 mất năm 1066, xuất thân từ một gia đình tù trưởng người Tày họ Giáp ở Động Giáp,vùng đất phía Bắc của tỉnh Bắc Giang và phía Nam của tỉnh Lạng Sơn,ba đời liên tiếp làm tù trưởng Lạng Châu, sau này được vua Lý Thái Tông gả con gái và phong làm châu mục Lạng Châu (nay là tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn) khi làm quan, ông đã dốc lòng hết sức xây dựng bảo vệ biên cương đất nước lập nhiều chiến công được ghi vào chính sử nước nhà.

3

Thân Cảnh Phúc

Thân Cảnh Phúc (1030 - 1077), còn có tên là Cảnh Nguyên, Đạo Nguyên hay Cảnh Long, biệt danh Phò mã Áo chàm, tương truyền có thể là Thân Vũ Thành (theo thần tích các đền thờ về nhân vật này dọc bờ sông Lục Ngạn), là tù trưởng động Giáp châu Lạng, tức châu Quang Lang (hay châu Ôn, Lạng Sơn), ngày nay thuộc tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam. Ông sinh ra trong gia đình nhiều đời làm thổ mục ở Động Giáp (là phần phía nam tỉnh Lạng Sơn và một phần phía bắc của tỉnh Bắc Giang), tức vùng giáp khẩu Kép, Lạng Giang (Bắc Giang), là người dân tộc Tày, vốn gốc họ Giáp, sau lấy công chúa của nhà Lý nên được vua nhà Lý đổi sang họ Thân và phong chức Tri châu. Thân Cảnh Phúc là người đã lãnh đạo một đội quân người dân tộc Tày dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở, dùng chiến thuật du kích chống Tống, chiến đấu sau lưng đạo quân nhà Tống đến khi hi sinh, góp phần không nhỏ vào cho chiến thắng của nhà Lý trước nhà Tống năm 1077 ở phòng tuyến sông Như Nguyệt.

4

Nguyễn Thế Lộc

Nguyễn Thế Lộc là một hào trưởng người dân tộc Tày ở Lạng Sơn (không rõ sinh và mất năm nào). Khi quân Nguyên-Mông xâm lược Đại Việt lần 2 (năm 1285), Nguyễn Thế Lộc là thổ hào vùng đất thuộc châu Ma Lục (Lạng Sơn), cùng với Nguyễn Lĩnh chỉ huy một cánh quân ở vùng này. Mùa hè năm 1285, quân Trần phản công quân Nguyên để chiếm lại Thăng Long. Khi đó Trần Kiện (cháu ruột của vua Trần Thánh Tông, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang), đem gia quyến và bọn thuộc hạ chạy sang đầu hàng quân Nguyên. Tướng giặc là Toa Đô mừng lắm, vội cho quân hộ tống Trần Kiện về Yên Kinh. Nhưng Trần Kiện vừa đến vùng Lạng Sơn (ngày nay) thì lập tức bị Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh cho dân binh bao vây và tập kích dữ dội. Trần Kiện bị bắn chết, thuộc hạ của y là Lê Tắc cướp được xác chủ, cột lên ngựa, nhân đêm tối lẻn đem xác Trần Kiện chạy về Khâu Ôn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ 2, Nguyễn Thế Lộc đã thể hiện rõ tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ 2 của dân tộc.

5

Thiều Thốn

Thiều Thốn (1326 - 1380) người xã Thọ Sơn, tổng Thanh Khê nay là làng Nhuận Thạch, xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, làm quan nhà Trần. Thiều Thốn là người không những góp công sức to lớn trong việc giữ yên cơ nghiệp nhà Trần (làm quan trải qua các đời Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông; Năm 1363, Thiều Thốn được cử giữ chức Phòng ngự sứ Lạng Giang thống lĩnh quân của triều đình và Sơn Lão quân (quân của các dân tộc miền núi Lạng Sơn và Bắc Giang ngày nay)… mà còn có công rất lớn trong việc phòng thủ đất nước, giữ yên bờ cõi, giúp nhân dân an cơ lập nghiệp, tạo đà phát triển tránh sự nhòm ngó của ngoại bang, được vua Trần Dụ Tông phong “Khai quốc công thần, Phụ quốc Thượng tướng công, kiêm Kim Ngô vệ Phò mã Đô úy Thượng trụ quốc”.

6

Lê Lộng

Lê Lộng sinh năm 1396 tại làng Khả Lam, huyện Lương Giang, phủ Thành Đô (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá).

Lê Lộng tham gia vào khởi nghĩa Lam Sơn từ những buổi đầu. Ông là võ tướng mưu trí, gan dạ, biết quyền biến trong chiến trận. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, vương triều Lê Sơ được thành lập. Lê Lộng được vua ban tước Khang Vũ Hầu, Kiệt tiết tuyên lực công thần, Ngân thanh Vinh lộc đại phu, giữ chức Tả xa kỵ vệ Đại tướng quân.

Dưới thời vua Lê Thái Tông (1433-1442), Lê Lộng là một cận thần được trao nhiều trọng trách của triều đình, giữ chức Tuyên úy xứ Lạng Sơn. Năm 1437, Lê Lộng lại giữ chức Tuyên uý đại sứ. Ông là tấm gương sáng về lòng trung trinh, cần lao, tận tâm, tận lực vì đất nước. Ngày nay, đền thờ ông vẫn còn ở xã Thọ Vực, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đền thờ ông đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh năm 2011.

7

Vi Phúc Hân

Ông là con trai Vi Đình Mật làm quan đời nhà Mạc. Khi nhà Hồ mất, người trong họ Hồ chốn lên Lạng Sơn lập căn cứ chống Minh. Khởi nghĩa Lam Sơn thành công nhưng người họ Hồ này vẫn không chịu theo về với Lê Lợi. Hai cha con Vi Đình Mật, Vi Phúc Hân đã dẹp yên nhóm họ Hồ này và cùng Nguyễn Cẩm Miên coi sóc xứ Lạng.

8

Nguyễn Khắc Trị

Ông là nhân thần sống ở thế kỷ XV, XVI, là người đã có công dạy Nhân dân cách làm ăn. Hiện nay, Nhân dân đang thờ ông tại ngôi đình Phai Cam, thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia.

9

Trịnh Khả

Trịnh Khả là một trong những Khai Quốc Công Thần triều Lê Sơ. Ông người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1416, Trịnh Khả là một trong số 19 người tham dự Hội thề Lũng Nhai. Trịnh Khả là một trong những thành viên đầu tiên của Bộ Chỉ huy Lam Sơn. Trải hơn mười năm, Trịnh Khả luôn trực tiếp cầm quân, chiến đấu một cách dũng cảm và mưu lược, lập được nhiều công lao xuất sắc.

Sang năm 1433, Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông mới chỉ 10 tuổi lên thay, quyền hành nằm trong tay Lê Sát, mà Lê Sát vốn rất ghét Trịnh Khả, vì thế mà đến năm 1434 ông quyết định xin từ quan về dù mới 31 tuổi. Triều đình không đồng ý, Lê Sát cho Trịnh Khả rời đến Lạng Sơn làm quan Tuyên úy (Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư)

Năm 1437, vua Lê Thái Tông 14 tuổi đã bắt đầu hiểu chuyện triều chính, nhận thấy Lê Sát ngày càng chuyên quyền không thể nói được, liền tìm cách đưa Trịnh Khả trở về nắm giữ đội Cấm quân (tức quân tinh nhuệ Thiết Đột) trong Kinh thành. Sau đó Trịnh Khả được phong thêm chức thiếu bảo, tham tri chính sự.

10

Bùi Cầm Hổ

Sử sách ghi lại, Đô đài Bùi Cầm Hổ quê ở xã Đậu Liêu, huyện Thiên Lộc, nay phường xã Đậu Liêu, TX Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh). Ông sinh năm 1390, mất năm 1483, làm quan Ngự sử dưới ba triều vua Lê (Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông). Ông là người nổi tiếng ngay thẳng, đức độ và đã 2 lần đi sứ nhà Minh làm rạng danh nước Việt. Dưới thời Vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433), Lê Sát là một đại thần có công lớn từ khi giúp Lê Lợi dấy nghiệp, nhưng do là võ quan ít học nên tỏ ra lộng quyền, xử trí oan sai nhiều vị quan. Sang thời Lê Thái Tông (1434 - 1442), những năm đầu, khi vua còn nhỏ, Lê Sát lợi dụng uy quyền của một công thần, làm nhiều điều ngang trái, thao túng triều đình, giết hại nhiều vị quan tài giỏi. Vì lên tiếng chỉ trích gay gắt sự chuyên quyền của Lê Sát, Bùi Cầm Hổ bị điều đi làm An phủ sứ Lạng Sơn.

Bùi Cầm Hổ có nhiều công lao trong hoạt động ngoại giao qua 2 lần sang sứ nhà Minh và những năm trấn thủ ở Lạng Sơn. Bùi Cầm Hổ mất lúc 93 tuổi, Nhân dân đã lập đền thờ ông ở dưới chân núi Bạch Tỵ, gọi là đền quan Đô đài. Triều đình phong ông là Thượng đẳng phúc thần.

11

Đại Huề

Đại Huề là tướng người Nùng của địa phương, từ nhỏ ông đã người có dũng khí phi thường, căm phẫn trước sự tàn độc của nhà Minh, ông giỏi võ nghệ. Ông đã có công lãnh đạo dân binh cùng với nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Đĩnh, Lê Sát... đã mai phục hai bên hẻm núi tiêu diệt quân viện binh nhà Minh, góp phần làm nên chiến thắng Chi Lăng năm 1427.

12

Đại Liệu

Ông là em trai và đồng thời Phó tướng của Đại Huề, ông đã chiến đấu rất anh dũng trong trận tiêu diệt Liễu Thăng và một vạn quân Minh ở cánh đồng Chi Lăng, ông cũng hi sinh oanh liệt ở đó. Về sau dân làng nhớ công lao của ông nên đã lập đền thờ ông trên một gò đất cao giữa cánh đồng cạnh núi Mã Yên - nơi ông đã chiến đấu và hi sinh.

13

Trần Lựu

Trần Lựu (? - ?), còn được chép là Lê Lựu; chính sử không ghi chép rõ thân thế cũng như năm sinh và năm mất của Trần Lựu. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ông là con của nghĩa sĩ Trần Lượng, đời Hậu Trần, quê ở làng Lỗ Tự, huyện Thượng Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Trần Lựu là một khai quốc công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong số các tướng lĩnh của nghĩa quân Lam Sơn, nổi tiếng trong chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang và đã góp công lớn trong việc chém đầu Liễu Thăng ở ải Chi Lăng năm 1427. Ông là một trong số các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

14

Nguyễn Đình Đa

Vào đời Lê Thần Tông (Duy Kỳ 1649 - 1662), giặc Bắc nhiều lần tràn xuống cướp phá các tổng Hữu Thu, An Hoa, châu Thoát Loãng (huyện Văn Lãng ngày nay). Sẵn có lòng yêu quê hương lại mang dòng máu thượng võ của ông cha, Nguyễn Đình Đa (con cả phiên thần Nguyễn Phước Thanh) đã lãnh đạo quân dân Thoát Lãng ngoan cường chống lại. Tương truyền ngày 9 tháng 4 (không rõ năm) ông hy sinh trong một trận giao tranh. Từ đó được Nhân dân nơi đây lập đền thờ. Hằng năm, Nhân dân tổ chức thi võ, đấu cờ, tế lễ để tưởng niệm người anh hùng đã hy sinh bảo vệ quê hương.

15

Vi Đức Thắng

Quận công Vi Đức Thắng (thế kỷ XVII), người xã Khuất Xá, Châu Lộc Bình phủ Trường Khánh xứ Lạng (nay là xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) là đời thứ 6 dòng họ Vi của huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn; ông là một người có tài, có công gìn giữ quan ải yên ổn, giữ quốc mạch trường tồn, Nhân dân ấm no, hạnh phúc; được Vua Lê Hy Tông (1676-1705) phong làm: Đô tổng sứ ty, Đô tổng binh sứ, thiên sự Vũ Quận công Vi Đức Thắng. Ông còn là người có công khởi dựng Chùa Trung Thiên, thôn Rinh Chùa, xã Tú Đoạn (ngôi Chùa được công nhận di tích cấp tỉnh năm 2002). Do có công với dân, với nước nên Ông được Nhân dân tôn làm thánh để thờ tại gian Hậu cung của Chùa Trung Thiên.

16

Hoàng Đình Kinh

Hoàng Đình Kinh sinh ra và lớn lên ở xóm Thượng, tổng Thuốc Sơn, huyện Hữu Lũng. Ông tập hợp nhiều thanh niên trong vùng tập luyện võ để tổ chức đánh phỉ bảo vệ nhân dân nên ông được cử làm cai tổng. Khi thực dân Pháp tiến đánh Lạng Sơn qua Hữu Lũng, nghĩa quân Hoàng Đình Kinh đã chặn đánh quyết liệt làm cho chúng phải rút quân về Bắc Ninh. Khi quân Pháp mở đợt tiến đánh Lạng Sơn lần thứ 2, nghĩa quân Hoàng Đình Kinh đã phục đánh ở cầu Quan Âm - Sông Hoá và giành thắng lợi lớn.

17

Hoàng Văn Côn

Hoàng Văn Côn, sinh ra ở xóm Đồng Thuốc, xã Thuốc Sơn, tổng Thuốc Sơn, huyện Hữu Lũng. Thủa thiếu thời, cậu bé Hoàng Văn Côn đã nổi tiếng mạnh khỏe, thông minh, tháo vát. Trong những trận chiến đấu quyết liệt với quân giặc, Hoàng Văn Côn luôn là người chỉ huy tài ba, là trợ thủ đắc lực và trung thành của thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh.

18

Hoàng Quế Thọ

Ông Hoàng Quế Thọ, tên thường gọi là Cai Thọ sinh ra ở thôn Tòng Chu, tổng Cam Thủy (nay là thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn). Những năm 1870 - 1880, ông đã được bổ làm chánh tổng sau đó là trị huyện Bình Gia. Năm 1882, Hoàng Đình Kinh dựng cờ khởi nghĩa đã nổi khắp các vùng. Năm 1883, Hoàng Quế Thọ đã quy phục dưới trướng của Thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh cùng tham gia đánh phỉ và Pháp. Thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh phân công Hoàng Quế Thọ cai quản vùng Bình Gia để án ngữ giặc phỉ từ Trung Quốc, Thất Khê tràn sang. Ông Hoàng Quế Thọ đã xây dựng căn cứ địa ở Hang Thẳm Khoách, rèn quân, tích trữ lương thực. Địa bàn hoạt động của ông rất rộng bao gồm vùng Tràng Định, Bình Gia, Bắc Sơn đến cả huyện Võ Nhai của tỉnh Thái Nguyên. Trước tình hình giặc phỉ cướp bóc dã man dân lành, ông đã tập hợp Nhân dân chống giặc phỉ với nhiều trận đánh thành công.

19

Thừa Khoát

Thừa Khoát, quê ở Làng Lằm xã Đằng Yên (nay là xã Yên Sơn huyện Hữu Lũng), ông là người tham mưu cho bộ chỉ huy nghĩa quân Cai Kinh chuyển căn cứ vào Đằng Yên quê hương của ông để đánh địch lâu dài. Sự tham mưu của ông được thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh và bộ chỉ huy chấp nhận. Tại khu căn cứ, Hoàng Đình Kinh giao nhiệm vụ cho Thừa Khoát chốt giữ vùng trọng yếu của trung tâm tạo thành thế trận liên hoàn.

20

Hoàng Thái Nam

Hoàng Thái Nam là người Bắc Sơn. Ông là một trong những tướng lĩnh của nghĩa quân Cai Kinh, được Cai Kinh phân công cùng Hoàng Thái Nhân phụ trách địa bàn Bắc Sơn - Thái Nguyên. Hoàng Thái Nam vận động Nhân dân không hợp tác với Pháp và phỉ. Tổ chức canh phòng và thành lập các tổ phòng vệ. Khi phát hiện Pháp hoặc phỉ vào làng thì thông báo có toàn dân và tổ chức đánh trả. Vận dụng các hình thức thông tin, gõ mõ, rào làng, hô hào, vây bắt, chạy trốn...để chống phỉ - giặc cướp.

Hoàng Thái Nhân - Hoàng Thái Nam là những vị thủ lĩnh dưới trướng của Hoàng Đình Kinh đã sát cánh bên nhau đồng cam cộng khổ bảo vệ dân làng với nhiều chiến công góp phần cùng Nhân dân xứ Lạng đánh tan bọn phỉ và chống Pháp xâm lược.

21

Hoàng Thái Nhân

Hoàng Thái Nhân là người Bắc Sơn, ông tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa và là một vị chỉ huy của nghĩa quân Cai Kinh. Những năm 1878 - 1883, ông cùng cùng với Hoàng Thái Nam vận động Nhân dân chống phỉ ở vùng Bắc Sơn, Thái Nguyên. Năm 1882, Hoàng Đình Kinh phất cờ khởi nghĩa. Hoàng Thái Nhân đã đầu quân tham gia cuộc khởi nghĩa cai Kinh. Dưới sự phân công của Cai Kinh, Hoàng Thái Nhân phối hợp cùng với Hoàng Thái Nam chỉ huy chặn đánh Pháp ở vùng Bắc Sơn.

Ngoài việc vận động Nhân dân chống Pháp, Chống phỉ, xây dựng căn cứ địa chiến đấu, Hoàng Thái Nhân còn tham gia chỉ huy đánh nhiều trận chống Pháp. Tiêu biểu là trận ngày ngày 31/5/1886, trên con đường huyết mạch Lạng Sơn - Phủ Lạng Thương, Bắc Giang do nghĩa quân Cai Kinh làm chủ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng Thái Nhân tiến đánh đồn Than Muội ở Chi Lăng tiêu diệt một số lớn quân Pháp rồi rút lui an toàn.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Cần trong cuốn sách Khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh (1882-1888), năm 1884, ông cùng với Lưu Kỳ khởi nghĩa đánh Pháp ở vùng Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang gọi là Cuộc khởi nghĩa do Lưu Kỳ - Hoàng Thái Nhân lãnh đạo (1884 - 1894). Hoàng Thái Nhân là vị chỉ huy đánh du kích giỏi, biến hóa khôn lường, thông thạo lối tác chiến phục kích bất ngờ.

22

Hoàng Đình Hai

Hoàng Đình Hai hay còn gọi là Cai Hai, là em ruột của Cai Kinh. Ông bị giết hại khoảng cuối năm 1887. Khi Hoàng Đình Kinh nổi lên dựng cờ đánh giặc, Hoàng Đình Hai là người trợ thủ đắc lực, trung thành. Sau khi Hoàng Đinh Kinh được thăng chức từ cai tổng lên làm quan tri huyện Hữu Lũng thì chính Hoàng Đình Hai là người được thay thế anh trai giữ chức Cai tổng Thuốc Sơn. cũng từ đó người ta thường gọi ông là Cai Hai. Trong những trận chiến đấu với quân giặc, Cai Hai luôn là người dũng cảm, có tài chỉ huy lập được nhiều chiến công nên được Hoàng Đình Kinh giao giữ trọng trách tư lệnh binh quyền, vị tướng tham mưu của nghĩa quân. Ông có nhiều công lao trong việc xây dựng căn cứ cuộc khởi nghĩa và tổ chức những trận chiến đấu chống Pháp xâm lược.

23

Hoàng Văn Hán

Hoàng Văn Hán (1910 -1945), nguyên quán: Nông Lục, Hưng Vũ Bắc sơn, Lạng Sơn - Chỉ huy trưởng đội Du kích Bắc Sơn năm 1940

Vào 20h00 ngày 27/9/1940, dưới sự chỉ huy của Hoàng Văn Hán, khoảng 600 chiến sỹ cách mạng và quần chúng Nhân dân chia làm 3 mũi tấn công đồn Mỏ Nhài. Trước sức mạnh của cách mạng, sau 15 phút, địch phải rút chạy. Ngay sau khởi nghĩa thành công, đồng chí Hoàng Văn Hán thay mặt quân khởi nghĩa cách mạng tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân và tiêu hủy tài liệu, sổ sách, bằng, triện thu được của địch. Bắc Sơn hoàn toàn giải phóng sau 60 năm nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

24

Nông Bản Xuân

Nông Bản Xuân là người dân tộc Nùng quê ở Làng Ngũa xã Chi Lăng ngày nay, bạn thân với Hoàng Đinh Kinh từ thuở nhỏ. Khi Hoàng Đinh Kinh dựng cờ đánh giặc, Nông Bản Xuân đầu quân dưới cờ nghĩa và nhanh chóng trở thành người cầm quân có tài, được Hoàng Đình Kinh rất quý trọng và tin cẩn.

25

Cai Hào

Cai Hào là người thuộc huyện Chi Lăng ngày nay. Cai Hào là một vị tướng tài của nghĩa quân Cai Kinh. Ông được thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh rất tin tưởng nên giao hậu cứ trực tiếp phía sau cho Cai Hào đóng ở Hữu Liên bao quát toàn vùng từ Y Tịch, Vạn Linh, Bằng Mạc, Bằng Hữu, Thượng Cường (Chi Lăng) và Tri Lễ, Hữu Lễ (Văn Quan). Đồng thời là đầu mối liên hệ và thị sát tình hình với Hoàng Quế Thọ ở Bình Gia, Hoàng Thái Nhân, Hoàng Thái Nam ở Bắc Sơn.

Cai Hào có công lớn trong việc chuẩn bị hậu cần, chuẩn bị lực lượng và thị sát tình hình địch để tham mưu cho thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh tiến công đánh địch. Tiêu biểu là các trận đánh đồn Than Muội xã Quang Lang, đồn Làng Chiếng xã Mai Sao và nhiều trận đánh lớn, nhỏ khác dọc đường số 1 từ Lạng Giai đến Chi Lăng, Hòa Lạc... gây cho địch nhiều tổn thất lớn.

Khi Hoàng Đình Kinh bị thất thế, chính Cai Hào là người đã che chở, bảo vệ Hoàng Đình Kinh rời đại bản doanh để đi tìm đường hướng mới và gây dựng lại sự nghiệp. Chẳng may, một lần nữa hoàng Đình Kinh lại bị làm phản và bị bắt và bị sát hại tại vùng Mai Pha - Lạng Sơn ngày 6 tháng 7 năm 1888.

26

Nguyễn Đình Liêm

Năm 1853 Nguyễn Thành Tứ đem quân cướp phá vùng Trấn Nam Quan (châu Văn Uyên) Kỳ Lừa (châu Thoát Lãng) đã bị quân của tù trưởng Vi Văn Lý đánh bại. Năm 1862 quân Thanh do Trịnh Chí Hải và Triệu Quang Tô chỉ huy vào cướp phá vùng Thanh Long, Tân Mỹ, Bảo Lâm cũng bị quân của Vi Văn Lý chặn đánh phải chạy về bên kia biên giới. Năm 1867 Ngô Côn tự xưng là Thái Bình thiên vương đem ba vạn quân đánh vào Cao Bằng, Thất Khê. Nhân dân Văn Lãng dưới sự chỉ huy của Nguyễn Đình Liêm và Hà Văn Tinh đã chặn đánh chúng suốt trên đường từ Thất Khê qua Na Sầm về Lạng Sơn.

27

Vi Văn Định

Tổng đốc Vi Văn Định (1880 - 1975), dân tộc Tày, sinh tại Bản Chu, làng Khuất Xá, châu Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn (nay là xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn).

Ông được cử làm Tri châu Lộc Bình (1901). Năm 1909, ông được thăng tri phủ Tràng Khanh. Năm 1913, Thương tá tỉnh Lạng Sơn, rồi năm 1913-1918 làm Án sát tỉnh Cao Bằng. Từ năm 1921 - 1922, ông làm Tuần phủ tỉnh Cao Bằng cho đến khi chuyển về giữ chức Tuần phủ tỉnh Phúc Yên (1923- 1927), Hưng Yên (1927-1929). Năm 1929, ông được thăng Tổng đốc tỉnh Thái Bình (1929-1937), đến năm 1937, ông chuyển về làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông (1937-1941) tháng 8-1941, ông được phong tước An Phước Nam (Nam tước), hàm Thái tử Thiếu Bảo. Ông tham gia Hội Khai trí Tiến đức với chức danh trưởng ban vận động hội viên tán trợ.

28

Lộc Văn Lùng

Bí danh Văn Tiên, dân tộc Tày (1903- 1969), quê quán Nà Chuông, Cao Lộc (nay là xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn). Ông là 1 trong 34 chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đầu tiên, gồm 3 tiểu đội, với 34 chiến sĩ được chọn lọc từ những chiến sĩ du kích Cao - Bắc - Lạng, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đồng chí Lùng được giao bảo đảm kịp thời cơm nước, thuốc men cho toàn đội. Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét về người quản lý của đội: "Coi trọng từng đồng xu, từng hạt gạo của công quỹ, chỉ có một nguyện vọng là được trao lại nhiệm vụ quản lý cho một đồng chí khác để trực tiếp cầm súng chiến đấu". Với những đóng góp khi tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và sau này công tác, đồng chí Lộc Văn Lùng được xem như là nhân viên tài chính đầu tiên của quân đội ta. Ông về hưu ngày 1/11/1965 với quân hàm đại úy, chức vụ cao nhất trước khi nghỉ hưu là tiểu đoàn phó, thuộc cơ quan đối ngoại Bộ Quốc phòng.

29

Hoàng Đình Giong

Hoàng Đình Giong (1904-1947) quê ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Giữa năm 1927, ông sang Long Châu (Trung Quốc) gặp Hoàng Văn Thụ và được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng và phân công hoạt động tại Chi bộ Cộng sản hải ngoại tại Long Châu. Đây là Chi bộ Cao Lạng do Hoàng Đình Giong làm Bí thư. Tại Đại hội Đảng lần thứ nhất (họp tại Ma Cao, Trung Quốc) năm 1935, Hoàng Đình Giong được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách phong trào Bắc Kỳ.

30

Hoàng Văn Thụ

Đồng chí Hoàng Văn Thụ người dân tộc Tày sinh ngày 04 tháng 11 năm 1909, ở xã Nhân Lý, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn. Thuở nhỏ học ở trường làng. Từ năm 1923 học ở trường tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn. Năm 1927, giác ngộ cách mạng đến cuối năm 1928 được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, hoạt động ở vùng biên giới Việt Trung.

Tháng 12 năm 1929 đồng chí được kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng, được phân công nhiệm vụ xây dựng phong trào cách mạng ở Lạng Sơn. Từ năm 1934 đến năm 1938 đồng chí là Bí thư Chi bộ Đảng trực thuộc Ban lãnh đạo Trung ương chỉ đạo phong trào cách mạng Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên. Đồng chí đã trực tiếp tổ chức thành lập các cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Lạng Sơn như: Bắc Sơn 1936 và Phi Mỹ (nay là xã Tri Phương, huyện Tràng Định) năm 1938.

Từ tháng 5 năm 1938 đến giữa năm 1939 đồng chí là Ủy Viên trong ban lãnh đạo Xứ ủy Bắc kỳ, phụ trách công tác củng cố phát triển các cơ sở Đảng và quần chúng cách mạng ở Thái Nguyên, Hải Hưng, Vĩnh Yên và vùng mỏ Quảng Minh. Tháng 9 năm 1939 đến tháng 10 năm 1940 đồng chí là Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ.

Tại Hội nghị trung ương lần thứ VII tháng 11 năm 1940 đồng chí được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng, lãnh đạo việc duy trì phát triển Đội du kích Bắc Sơn và xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai. Tại hội nghị trung ương lần thứ VIII tháng 5 năm 1941 đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ trung ương, đặc trách công tác mặt trận và binh vận của Đảng.

Ngày 25 tháng 8 năm 1943, đồng chí bị giặc bắt ở khu Tám Mái (Hà Nội) và bị giết hại ngày 24 tháng 5 năm 1944, tại trường bắn Tương Mai, Hà Nội.

31

Lương Văn Tri

Đồng chí Lương Văn Tri sinh năm 1910, tại xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Điềm He (nay là xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan).

Năm 1923 đồng chí đi học tại trường tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn, cùng lớp với đồng chí Hoàng Văn Thụ. Năm 1927, Lương Văn Tri cùng với đồng chí Hoàng Văn Thụ sang Trung Quốc bắt liên lạc với tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Tháng 12 năm 1929 đồng chí được kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng cùng với đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Hoàng Tú Hưu, sau đó đồng chí vào học trường quân sự Hoàng Phố và công tác tại Trung Quốc.

Đến cuối năm 1940, Xứ ủy Bắc Kỳ cử đồng chí Ngô Thế Sơn - Xứ ủy viên đón đồng chí Lương Văn Tri về bãi Soi làng Vân (Hiệp Hòa, Bắc Giang), bổ sung vào Xứ ủy. Tại đây đồng chí Lương Văn Tri cùng đồng chí Hoàng Văn Thái mở lớp huấn luyện quân sự. Sau đó Xứ ủy cử đồng chí đi Bắc Sơn làm chỉ huy trưởng đội du kích Bắc Sơn. Sau hội nghị Trung ương lần thứ 8, ngày 19 tháng 5 năm 1941 đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên Trung ương Đảng được cử làm chỉ huy trưởng đội cứu quốc quân, đồng chí Lương Văn Tri làm phó chỉ huy. Cuối năm 1941 đồng chí bị địch bắt ở cây số 13 đường Cao Bằng đi Ngân Sơn và mất tại nhà tù Cao Bằng năm 1942.

32

Lô Quang Nam

Lô Quang Nam sinh năm 1911, quê quán Bình Long, Hoà An, Cao Bằng. Từ giữa năm 1930, người chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ về vùng biên giới Lạng Sơn hoạt động gây dựng cơ sở và hạt giống cách mạng của Đảng được gieo mầm trên mảnh đất Xứ Lạng. Đến giữa năm 1933, Chi bộ Thụy Hùng, Văn Uyên (nay là xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc) được thành lập với 05 đảng viên (đây là chi bộ cộng sản đầu tiên ở tỉnh Lạng Sơn). Tháng 8/1934, thành lập Ban Cán sự tỉnh Lạng Sơn và các chi bộ cộng sản tiếp tục ra đời trên địa bàn tỉnh.

Trước tình hình phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, Hội nghị kiện toàn củng cố Tỉnh ủy Lạng Sơn lâm thời được tiến hành giữa tháng 5 năm 1945 tại khu rừng Khau Kham, xã Hoa Thám, huyện Bình Gia. Hội nghị cử Ban Chấp hành lâm thời gồm 04 ủy viên. Đồng chí Lô Quang Nam được cử làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, đồng thời là Chủ tịch lâm thời Ủy ban hành chính tỉnh (1945-1946).

33

Lê Huyền Trang

Lê Huyền Trang (1913-1988), tên thật là Trương Văn Pảo người dân tộc Tày. sinh tại xã Hồng Phong, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Tham gia cách mạng Tháng 3 năm 1945, vào Đảng ngày 29/2/1946. Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Lạng Sơn từ năm 1946 - 1948, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Lạng Sơn từ năm 1948 - 1953; Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa I (năm 1946) thuộc Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn; nguyên Vụ trưởng Vụ Nội chính thuộc Ban Dân tộc Trung ương nay là Ủy ban Dân tộc Chính phủ.

Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ông đã cùng với tập thể lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn tổ chức, động viên cán bộ, Nhân dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, lập nên chính quyền cách mạng tỉnh Lạng Sơn; tiếp đó xây dựng các khu căn cứ vừa ổn định mọi mặt đời sống của Nhân dân, phát triển tăng gia sản xuất, vừa tham gia đóng góp sức người, sức của cho các chiến dịch như: Chiến dịch Thu - Đông (1947), Chiến dịch Biên giới (1950), Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954),… Ông đã được Chủ tịch Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất.

34

Trần Minh Tước (Xích Điểu)

Sinh năm 1913, dân tộc Kinh. Quê quán: Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), là Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Lạng Sơn năm 1947.

35

Bế Chấn Hưng

Đồng chí Bế Chấn Hưng (1919-1988) tên thật là Bế Hữu Khiên, dân tộc Nùng sinh ngày 30/10/1919 tại bản Na Hình, thuộc xã Thụy Hùng, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng và tham gia các hoạt động yêu nước. Tháng 6/1945 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương tham gia lãnh đạo Nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở địa phương. Sau ngày hòa bình lập lai, đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách: Cuối năm 1956, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn đã bầu đồng chí Bế Chấn Hưng làm Bí thư Tỉnh ủy khi đồng chí ở tuổi 37. Từ đó đến năm 1963 đồng chí là Khu ủy viên khu tự trị Việt Bắc, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lạng Sơn. Từ năm 1963 - 1976, đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn. Cuối năm 1976, sáp nhập tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, từ 1976 - 1978, đồng chí là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Cao Lạng.

Ghi nhận những công lao to lớn của đồng chí Bế Chấn Hưng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã trao tặng đồng chí nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến thắng hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Độc lập hạng Nhất. Năm 2011 Chủ tịch nước đã ký quyết định truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho đồng chí.

36

Đàm Quang Trung

Thượng tướng Đàm Quang Trung (1921 - 1995), tên gọi khác: Đàm Ngọc Lưu, dân tộc: Tày, quê quán: xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tham gia cách mạng từ năm 1937, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1939. Năm 1940 đồng chí bị Pháp bắt giam và quản thúc tại địa phương. Năm 1944 tham gia xây dựng cơ sở cách mạng và huấn luyện du kích ở vùng biên giới phía Bắc; gia nhập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12/1944). Từng giữ chức vụ Đại đội trưởng Giải phóng quân; Khu trưởng Đặc khu Hà Nội; Trung đoàn trưởng, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 31 Liên khu 5 (1945 - 1946); Chỉ huy trưởng Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng; Phó Tư lệnh, kiêm Trung đoàn trưởng chủ lực Liên khu 5; Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312; Tư lệnh Quân khu Đông Bắc, kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 322; Tư lệnh Quân khu Việt Bắc; Tư lệnh Bộ Tư lệnh tiền phương của Bộ Quốc phòng tại Mặt trận B5; Tư lệnh, kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 4 (1973 - 1975); Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 1; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, kiêm Chủ tịch Hội đồng Dân tộc; UV Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV - VI; Bí thư Trung ương Đảng khóa VI; Đại biểu Quốc hội khóa IV - VIII. Đồng chí đã được tặng thưởng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Quân công (02 hạng Nhất, 01 hạng Nhì); Huân chương Chiến thắng hạng Nhất...

37

Nông Minh Lý

Nông Minh Lý sinh năm 1921, dân tộc Tày. Quê quán: Đa Nông, Thông Nông, Cao Bằng.

Từ tháng 1/1964 - 4/1968, ông là Tỉnh ủy viên, Chính trị viên Tỉnh đội, Bí thư Ban cán sự Tỉnh đội Cao Bằng.

Ông giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh ủy Cao Bằng khóa VII (1969 - 1974); Phó Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng khóa VIII (1974 - 1976)

Khi thực hiện chủ trương sáp nhập tỉnh Cao Lạng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Lạng đã tổ chức kỳ họp đầu tiên từ ngày 10 đến 12/02/1976 tại thị xã Lạng Sơn. Tại kỳ họp đã tiến hành phân công các đồng chí trong ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Cao Lạng, ông đã được phân công giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh Cao Lạng (1976 - 1977).

38

Hoàng Trường Minh

Đồng chí Hoàng Trường Minh tên thật là Hoàng Khải Lủn, sinh năm 1922, dân tộc Tày; quê quán xã Phương Thông, huyện Bạch Thông (Bắc Thái cũ). Nay là xã Phương Linh, huyện Bạch Thông (Bắc Cạn).

Từ tháng 3-1945 đến tháng 3-1946, đồng chí Hoàng Trường Minh tham gia Thanh niên cứu quốc. Tháng 7-1945, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước phân công giữ nhiều cương vị quan trọng: Thời gian 1954 - 1976 là Bí thư Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lào Cai; tháng 8-1976 là Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn; từ năm 1976 - 1978 là Bí thư Tỉnh ủy Cao Lạng; từ năm 1978 đến năm 1981 là Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn. Đồng chí nguyên là Ủy viên BCH Trung ương Đảng các Khóa IV, V và VI; nguyên Đại biểu QH các Khóa: II, III, IV, V, VI, VII và VIII; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH (Khóa VII); Phó Chủ tịch QH Khóa VIII; Ủy viên Đoàn Chủ tịch MTTQ Việt Nam Khóa II và Khóa III; Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Lào. Từ năm 1982 đến 1989 đồng chí là Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân tộc Trung ương.

39

Hà Tân Cương

Đồng chí Hà Tân Cương, tên thường gọi là Hà Văn Thức sinh ra ở thôn Nà Pàn, xã Hoa Thám, huyện Bình Gia.

Sau khi Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa” (7/1944) Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã đề ra chủ trương xúc tiến công việc chuẩn bị khởi nghĩa khắp 3 tỉnh, nhanh chóng tổ chức phong trào cách mạng ở địa phương chưa thực sự phát triển. Thực hiện chủ trương đó, cuối tháng 7 năm 1944, đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí Hà Khai Lạc đã được Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc-Lạng phái về tổ chức phát triển phong trào cách mạng ở Bình Gia. 20/3/1945 Trung đội vũ trang đầu tiên của Bình Gia đã được thành lập tại Nà Nặm, thôn Bản Cù (xã Hoa Thám) với 36 chiến sĩ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí Hà Khai Lạc. Cuối tháng 3 năm 1945, Trung đội vũ trang tuyên truyền đã tiến công tước vũ khí của bọn lính Dõng ở xã Hoa Thám do tên Xã Đoàn cầm đầu, tiêu diệt một số tên tay sai ác ôn ở địa bàn xã, ở địa bàn xã Hưng Đạo. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Chỉ huy Trung đội vũ trang tuyên truyền đã phát động quần chúng, tổ chức một cuộc mít tinh tại trung tâm xã Hưng Đạo, Tuyên truyền, phổ biến cho quần chúng cách mạng về chính sách Mặt trận Việt Minh, kêu gọi quần chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Đêm 18 tháng 4 năm 1945 1 đội vũ trang giải phóng do đồng chí Dương Quốc Vinh chỉ huy đã tiến về châu lỵ Bình Gia, cùng thời gian trên đội vũ trang giải phóng Bình Gia do đồng chí Hà Khai Lạc và đồng chí Hà Tân Cương chỉ huy từ Văn Mịch đã hành quân về châu lỵ, kịp thời phối hợp với đội vũ trang giải phóng châu Bắc Sơn, phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở Bình Gia.

40

Hà Khai Lạc

Đồng chí Hà Khai Lạc (tức Hoàng Doãn Tạo) là một trong bốn đảng viên đầu tiên của Chi bộ đảng ở Bắc Sơn.

Sau khi Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa” (7/1944) Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã đề ra chủ trương xúc tiến công việc chuẩn bị khởi nghĩa khắp 3 tỉnh, nhanh chóng tổ chức phong trào cách mạng ở địa phương chưa thực sự phát triển. Thực hiện chủ trương đó, cuối tháng 7 năm 1944, đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí Hà Khai Lạc đã được Ban Việt Minh liên tỉnh Cao- Bắc-Lạng phái về tổ chức phát triển phong trào cách mạng ở Bình Gia. 20/3/1945 Trung đội vũ trang đầu tiên của Bình Gia đã được thành lập tại Nà Nặm, thôn Bản Cù (xã Hoa Thám) với 36 chiến sĩ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí Hà Khai Lạc. Cuối tháng 3 năm 1945, Trung đội vũ trang tuyên truyền đã tiến công tước vũ khí của bọn lính dõng ở xã Hoa Thám do tên Xã Đoàn cầm đầu, tiêu diệt một số tên tay sai ác ôn ở địa bàn xã, ở địa bàn xã Hưng Đạo. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Chỉ huy Trung đội vũ trang tuyên truyền đã phát động quần chúng, tổ chức một cuộc mít tinh tại trung tâm xã Hưng Đạo, Tuyên truyền, phổ biến cho quần chúng cách mạng về chính sách Mặt trận Việt Minh, kêu gọi quần chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Đêm 18 tháng 4 năm 1945, một đội vũ trang giải phóng do đồng chí Dương Quốc Vinh chỉ huy đã tiến về châu lỵ Bình Gia, cùng thời gian trên đội vũ trang giải phóng Bình Gia do đồng chí Hà Khai Lạc và đồng chí Hà Tân Cương chỉ huy từ Văn Mịch đã hành quân về châu lỵ, kịp thời phối hợp với đội vũ trang giải phóng châu Bắc Sơn, phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở Bình Gia.

Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng có công với nước, Huân chương độc lập hạng nhì.

41

Hoàng Minh Thảo

Hoàng Minh Thảo sinh năm (1921-2008), năm 1930 ông theo cha lên Thất Khê (Tràng Định - Lạng Sơn) kiếm kế sinh nhai bằng nghề thợ may, ông đã học hết tiểu học hệ 6 năm tại Thất Khê. Năm 1941 ông tham gia Việt Minh và là một trong năm người được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử đi học Quân sự ở Liễu Châu, Trung Quốc. Cuối năm 1944 ông tham gia gây dựng cơ sở chính trị và xây dựng lực lượng du kích ở biên giới Lạng Sơn. Tháng 01 năm 1945 ông tham gia Ban phụ trách công tác biên giới của Tổng bộ Việt Minh, ông đã chỉ huy đội du kích tiêu diệt đồn Pò Mã. Ngày 03/3/1945 ông gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương và tham gia giành Chính quyền ở huyện Tràng Định - Lạng Sơn.

42

Hoàng Văn Kiểu

Hoàng Văn Kiểu (1921-2006), sinh tại xã Hội Hoan, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Ông người dân tộc Tày, cán bộ lão thành cách mạng, vào Đảng cộng sản Việt Nam ngày 20/6/1942. Trải qua các chức vụ Ủy viên trung ương đảng các khóa III và IV, Trưởng ban cán sự Đảng khu Lao - Hà - Yên, phó bí thư khu ủy khu tự trị Việt Bắc, Bí thư khu ủy khu tự trị Tây Bắc, chính ủy quân khu Tây Bắc, Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp, Trưởng ban Dân tộc trung ương Đảng kiêm Chủ nhiệm ủy ban dân tộc của Chính phủ, Phó chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Lạng Sơn.

43

La Thăng

La Thăng (1923-2014), tức La Văn Học là nhà hoạt động cách mạng, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn. Quê quán: xã Đại Đồng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Ông tham gia cách mạng từ tháng 3/1945; nguyên cán bộ huyện Đông Bắc, phụ trách các xã Hùng Sơn, Quốc Khánh, Trung Thành, Đào Viên, Quốc Việt; cán bộ tuyên truyền vận động quần chúng ở huyện Tiên Yên, tỉnh Hải Ninh cũ (nay là tỉnh Quảng Ninh);

Sau đó ông trải qua các chức vụ trong công tác Đảng và chính quyền tại tỉnh Lạng Sơn: Bí thư Huyện ủy Đông Bắc, tỉnh Lạng Sơn; Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Tràng Định, Trưởng Chi nhánh Ngân hàng tỉnh, Phó Ban Kinh tế tỉnh, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Lạng Sơn; Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lạng Sơn; Ủy viên Kiểm tra Khu ủy Việt Bắc, Phó Ban thanh tra chính quyền Khu tự trị Việt Bắc, Khu ủy viên, Giám đốc Sở Thủy lợi Khu tự trị Việt Bắc; Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Ủy viên Trung ương Đảng các khóa V, VI, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn (1983 - 1991). Ông đã được tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Nhì; Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

44

Bế Chu Lang

Sinh năm 1925, dân tộc Tày, quê quán tại xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, Nguyên Phó Chính ủy Trung đoàn 176, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 1980 - 1985.

45

Lương Ích Lập

Sinh năm 1927, dân tộc Tày, quê quán huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Là đại biểu Quốc hội khóa IV, V. Khi thực hiện sáp nhập tỉnh Cao Lạng, ông đã được phân công giữ chức vụ Chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh Cao Lạng (1977 - 1978).

46

Hồ Quang Thành

Để có chỉ đạo trực tiếp của Đảng sát với tình hình địa phương, ngày 03/11/1946 Hội nghị thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản huyện Hữu Lũng được tổ chức tại gác 2 nhà ông Ký Chất (Chợ Mẹt hiện nay), đồng chí Hồ Quang Thành được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Hữu Lũng, tất cả các đồng chí đảng viên dự Hội nghị đã tuyên thệ dưới cờ vinh quang của Đảng, nguyện hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng, vì tương lai hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập, tự do của dân tộc

47

Dương Quốc Vinh

Thực hiện chủ trương của Cứu quốc quân về đẩy mạnh việc tuyên truyền giác ngộ, tập hợp quần chúng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, cuối tháng 2 năm 1945, đồng chí Dương Quốc Vinh cán bộ Cứu quốc quân được phân công đến Bình Gia để gây dựng phong trào, giúp đỡ quần chúng, đồng chí Dương Quốc Vinh đã nhanh chóng giác ngộ, tập hợp được 1 số quần chúng trung kiên làm nòng cốt cho phát triển phong trào quần chúng cách mạng trên địa bàn các xã gần trung tâm huyện lỵ.

Đêm 18 tháng 4 năm 1945, 1 đội vũ trang giải phóng do đồng chí Dương Quốc Vinh chỉ huy đã tiến về châu lỵ Bình Gia, cùng thời gian trên đội vũ trang giải phóng Bình Gia do đồng chí Hà Khai Lạc và đồng chí Hà Tân Cương chỉ huy từ Văn Mịch đã hành quân về châu lỵ, kịp thời phối hợp với đội vũ trang giải phóng châu Bắc Sơn, phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở Bình Gia. Sáng ngày 19 tháng 4 năm 1945, sau khi tiến công Đồn Bình Gia, giành thắng lợi hoàn toàn, hàng nghìn quần chúng cách mạng đã tham gia mít tinh mừng thắng lợi của cách mạng tại Trung tâm Thị trấn Bình Gia, trước đông đảo quần chúng cách mạng, đồng chí Dương Quốc Vinh thay mặt Ban chỉ huy Khởi nghĩa đã tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, biểu dương tinh thần cách mạng của nhân dân…kêu gọi nhân dân đứng lên tiếp tục bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.

48

Lê Đình Chinh

Lê Đình Chinh (1960-1978) là chiến sĩ Công an Nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) đầu tiên hy sinh trong chiến tranh biên giới Việt - Trung 1978-1979, tại mặt trận huyện Cao Lộc trong khi thi hành nhiệm vụ ngăn cản quân Trung Quốc tràn qua biên giới Việt Nam.

Lê Đình Chinh quê ở xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa. Ngày 30 tháng 8 năm 1978, Lê Đình Chinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Tên anh được nhiều địa phương trên đất nước Việt Nam đặt tên đường, trường học, trung học, nông trường. Một số sáng tác viết về Lê Đình Chinh có thể kể đến như bài hát Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh (Nhạc sĩ Phạm Tuyên), Bài ca tuổi trẻ Lê Đình Chinh (Nhạc sĩ Bảo Chung).

49

Đặng Văn Việt

Đặng Văn Việt (1920 - 2021) là một trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174 - một trong 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng được người Pháp mệnh danh là "Hùm xám đường 4" do thành tích chỉ huy Trung đoàn 174 giành được nhiều chiến tích trong Chiến dịch Biên giới thu đông 1950. Tên ông gắn liền với các địa danh trên trục đường số 4 địa phận huyện Văn Lãng như Bó Củng - Lũng Vài.

50

Đường Văn Thông

Đường Văn Thông (Bí danh Đường Kỳ Tân) sinh (1915-1985), nguyên quán thôn Khéo Mèo, xã Xuân Tiễu, huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, tham gia cách mạng năm 1936, vào Đảng cộng sản Việt Nam 25/9/1936, là Bí thư chi bộ đảng đầu tiên tại Bắc Sơn, người đặt nền móng về việc phát triển các tổ chức đảng tại Bắc Sơn tiến tới thành lập châu ủy Bắc Sơn để lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa vũ trang. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huân chương chiến thắng hạng ba, Bảng gia đình vẻ vang.

51

Đường Văn Tư

Đường Văn Tư (Bí danh Đường Quảng Long) sinh ngày 24/01/1902 mất ngày 25/8/1976, nguyên quán thôn Khéo Mèo, xã Xuân Tiễu, huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Tham gia cách mạng năm 1934, vào Đảng cộng sản Việt Nam ngày 25/9/1936, Là thành viên của chi bộ Đảng đầu tiên trực tiếp hoạt động và phát triển phong trào cách mạng tại các xã phía Nam của huyện Bắc Sơn, tiến tới thành lập châu ủy Bắc Sơn để lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh vũ trang. Trực tiếp tham gia cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn 27/9/1940, tham gia đội du kích Bắc Sơn, tham gia đội Cứu quốc quân 1. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng có công với nước, Huân chương độc lập hạng nhì.

52

Nguyễn Văn Phòng

Nguyễn Văn Phòng (bí danh Mai Huyền) sinh ngày 15/10/1914 mất ngày 01/10/1985, Nguyên quán thôn Tràng Sơn, xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Tham gia cách mạng năm 1934, vào Đảng cộng sản Việt Nam ngày 25/9/1936, là thành viên của chi bộ Đảng đầu tiên trực tiếp hoạt động và phát triển phong trào cách mạng tại địa bàn xã Vũ Lăng tới thành lập châu ủy Bắc Sơn để lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa vũ trang. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng có công với nước, Huận chương độc lập hạng nhì.

53

Nhạc Sơn

Đồng chí Nhạc Sơn tên khai sinh là Phương Dính Slừ, không rõ năm sinh và năm mất, dân tộc Nùng, sinh sống tại xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện. Tại hội nghị thành lập chi bộ đầu tiên ở rừng hồi Pò Deng, xã Tân Đoàn (tháng 5/1946), đồng chí được cử giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Đồng chí đã lãnh đạo chi bộ, phân công đảng viên đi đến các địa phương trong huyện để tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần chúng trung kiên trong các Hội cứu quốc và Mặt trận Việt Minh vào Đảng.

54

Nông Trọng Bình

Đồng chí Nông Trọng Bình tên khai sinh là Nông Đình Vạn, sinh năm 1924, không rõ năm mất, dân tộc Nùng, sinh sống tại thôn Khòn Cải, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện Văn Quan. Đồng chí giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ huyện Điềm He năm 1946; đã tham gia trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng; lãnh đạo xây dựng, phát triển tổ chức đảng, lãnh đạo, động viên Nhân dân các dân tộc trong huyện đẩy mạnh công cuộc “chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm”.

55

Phương Nháy

Đồng chí Phương Nháy, bí danh là Hoan Oánh (1922 -1998), dân tộc Nùng, sinh sống tại thị trấn Văn Quan, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện Điềm He (nay là huyện Văn Quan); đồng chí đã có những đóng góp trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng.

56

Nguyễn Đức

Thượng tướng Nguyễn Văn Đức (1923-2002). Đồng chí Nguyễn Văn Đức, quê quán: xã Minh Đức, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; năm tham gia cách mạng: 1939; năm vào Đảng: 1945. Quá trình giữ các chức vụ: Phó Bí thư Huyện ủy Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc (1946); Bí thư Huyện ủy Trấn Yên và Than Uyên, tỉnh Yên Bái (1948); Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chính trị viên Tỉnh đội Yên Bái (1951); Quyền Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái (1954); Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn (1963-1975); Chánh Văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1977); Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên (1979); Thứ trưởng Bộ Nội vụ (1986 - 1991), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V, VI. Trong thời gian giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác chỉ đạo phong trào thủy lợi và phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh.

Những phần thưởng cao quý đồng chí đã được nhận: Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất và nhiều phần thưởng khác.

57

Trung Thành

Đồng chí Trung Thành tên khai sinh là Nông Văn Chính (1925 - 2021), dân tộc Tày, sinh sống tại xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện Điềm He (nay là huyện Văn Quan); đồng chí đã có những đóng góp trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng.

58

Thành Công

Đồng chí Thành Công tên khai sinh là Lê Kỳ Khoay (1922 - 1991), dân tộc Nùng, sinh sống tại thôn Ba Xã, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện Điềm He (nay là huyện Văn Quan); đồng chí đã có những đóng góp trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng.

V.3

Danh nhân nước ngoài, có cống hiến và có thời gian làm việc, chiến đấu tại tỉnh Lạng Sơn (02 tên)

1

Nguyễn Văn Lập

Kostas Saratidis Nguyễn Văn Lập (1927-2021) người gốc Hy Lạp, bị bắt tham gia quân đội viễn chinh Pháp sang Việt Nam với danh nghĩa đồng minh giải giáp quân đội phát xít Nhật (2/1946).

Nhận thức rõ bộ mặt thật và tội ác của thực dân Pháp đối với Nhân dân Việt Nam, tháng 6/1946, tại Bình Thuận ông tìm cách móc nối và gia nhập Mặt trận Việt Minh. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1949. Sau Hiệp nghị Giơnevơ 1954, ông tập kết ra miền Bắc, tích cực tham gia xây dựng CNXH ở miền Bắc, công tác tại mỏ than Na Dương (Lạng Sơn), mỏ thiếc Cao Bằng, Nhà máy in Tiến Bộ (Hà Nội), luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 1958, ông kết hôn với một người phụ nữ Hà Nội và sinh được 04 người con. Năm 1965, ông và gia đình chuyển về Hy Lạp sinh sống, song vẫn luôn hướng về Việt Nam với nhiều hoạt động thiết thực: Thành lập Hội Việt kiều yêu nước ở Hy Lạp, vận động quy góp quỹ ủng hộ đồng báo bị lũ lụt, Quỹ nạn nhân chất độc màu da cam, Quỹ trái tim cho em… góp phần xây dựng tình hữu nghị Việt Nam - Hy Lạp. Ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất (1955), Huân chương Hữu nghị (2010), công nhận quốc tịch Việt Nam (2010), phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (2013).

2

Takano Isao

Takano Isao (1943-1979): còn có tên khác là Takano Isayo, là một nhà báo người Nhật Bản. Ông là một trong những nhà báo quốc tế có mặt tường thuật tại chỗ trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 và bị trúng đạn tử thương khi đang tác nghiệp tại khu vực đường Quang Trung, phường Chi Lăng, thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn). Phần mộ của ông hiện vẫn còn ở Nghĩa trang liệt sĩ Hoàng Đồng, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi hy sinh, Takano Isao được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký quyết định truy tặng Huân chương Hữu nghị. Nhạc sĩ Phó Đức Phương cũng đã sáng tác nhạc phẩm “Takano - nhân chứng quả cảm” để tưởng nhớ ông. Ông còn là một dịch giả và từng chuyển thể các tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam như Áo trắng của nhà văn Nguyễn Văn Bổng và Mẹ vắng nhà của nhà văn Nguyễn Thi sang tiếng Nhật.

Tổng cộng: 440 tên.

Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Quyết định 1121/QĐ-UBND ngày 21/07/2023 phê duyệt Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


768

DMCA.com Protection Status
IP: 3.12.148.180
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!