|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
1121/QĐ-UBND
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Lạng Sơn
|
|
Người ký:
|
Dương Xuân Huyên
|
Ngày ban hành:
|
21/07/2023
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1121/QĐ-UBND
|
Lạng Sơn, ngày 21
tháng 7 năm 2023
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH
CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
Căn cứ Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;
Căn cứ Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi
tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số
36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn
thực hiện một số điều của quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình
công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính
phủ;
Theo đề nghị của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch - Cơ quan Thường trực Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên, đường
phố và công trình công cộng tỉnh Lạng Sơn tại Tờ trình số 87/TTr-SVHTTDL, ngày
11/7/2023.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt Ngân hàng tên đường, phố và công trình công
cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn gồm 02 Phụ lục:
1. Phụ lục 1. Danh mục đường,
phố và công trình công cộng đã được đặt tên trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (gồm các
Biểu 1.A, Biểu 1.B, Biểu 1.C)
2. Phụ lục 2. Dữ liệu Ngân hàng
tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn gồm 440 tên
đường, phố và công trình công cộng (viết tắt là tên), trong đó:
- Tên một số địa danh tiêu biểu,
nổi tiếng của đất nước, của tỉnh: 40 tên;
- Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu:
10 tên;
- Các di tích lịch sử, danh thắng
tiêu biểu được xếp hạng trên địa bàn tỉnh: 98 tên;
- Các phong trào cách mạng, sự
kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược tiêu biểu trong lịch sử: 55 tên;
- Các danh nhân tiêu biểu của đất
nước, của tỉnh: 237 tên.
Điều 2.
Tổ chức thực hiện.
1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức tuyên truyền, phổ biến về nội
dung, giá trị và ý nghĩa của việc ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công
trình công cộng trên địa bàn tỉnh;
Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, lựa
chọn tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng.
2. Các Sở, ban, ngành tỉnh; các
tổ chức, đơn vị và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố được giao nhiệm vụ quản
lý các tuyến đường, phố, công trình công cộng có trách nhiệm nghiên cứu, lựa chọn
dữ liệu trong Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng đã được Ủy ban
nhân dân tỉnh phê duyệt để tiến hành đặt tên, đổi tên theo trình tự, thủ tục
quy định.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban
hành.
Điều 4.
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh; Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các huyện, thành phố; các Thành viên Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi
tên đường phố và công trình công cộng trên địa tỉnh; các cơ quan, đơn vị có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Bộ VHTTDL; (B/c)
- Thường trực Tỉnh ủy; (B/c)
- Thường trực HĐND tỉnh; (B/c)
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh;
- Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh;
- Các Phó CVP UBND tỉnh; các phòng: TH, KGVX, KT, Trung tâm TT;
- Lưu VT, KGVX (NNK).
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Dương Xuân Huyên
|
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT
TÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 1121/QĐ-UBND ngày 20/7/2023 của
UBND tỉnh Lạng Sơn)
BIỂU 1.A. DANH MỤC ĐƯỜNG, PHỐ ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TẠI THÀNH PHỐ LẠNG
SƠN
STT
|
Tên đường, phố
|
I
|
Phường Vĩnh Trại
|
1
|
Đường Ngô Quyền
|
2
|
Đường Lê Lợi
|
3
|
Đường Lê Đại Hành
|
4
|
Đường Phai Vệ
|
5
|
Đường Lương Thế Vinh
|
6
|
Đường Hoàng Đình Kinh
|
7
|
Đường Kéo Tào
|
8
|
Đường Mỹ Sơn
|
9
|
Phố Mỹ Sơn 1
|
10
|
Phố Mỹ Sơn 2
|
11
|
Phố Mỹ Sơn 3
|
12
|
Phố Mỹ Sơn 4
|
13
|
Phố Mỹ Sơn 5
|
14
|
Phố Mỹ Sơn 6
|
15
|
Phố Tinh Dầu 1
|
16
|
Phố Tinh Dầu 2
|
17
|
Phố Tinh Dầu 3
|
18
|
Phố Tinh Dầu 4
|
19
|
Phố Nguyễn Tri Phương
|
20
|
Phố Đặng Dung
|
21
|
Phố Kim Đồng
|
22
|
Phố Lương Định Của
|
23
|
Phố Linh Lang
|
24
|
Phố Đặng Văn Ngữ
|
25
|
Phố Đinh Công Tráng
|
26
|
Phố Đinh Lễ
|
27
|
Phố Lê Hữu Trác
|
28
|
Phố Trần Đại Nghĩa
|
29
|
Phố 17 - 10
|
30
|
Phố Đinh Liệt
|
31
|
Phố Thân Thừa Quý
|
32
|
Phố Cao Bá Quát
|
33
|
Phố Ông Ích Khiêm
|
34
|
Phố Trương Định
|
35
|
Phố Đoàn Thị Điểm
|
36
|
Phố Trần Xuân Soạn
|
37
|
Phố Phùng Hưng
|
38
|
Phố Đoàn Kết
|
39
|
Phố Đào Duy Từ
|
40
|
Phố Tôn Thất Tùng
|
41
|
Phố Bùi Thị Xuân 4
|
42
|
Phố Bùi Thị Xuân 5
|
II
|
Phường Tam Thanh
|
43
|
Đường Trần Đăng Ninh
|
44
|
Đường Lê Hồng Phong
|
45
|
Đường Nhị Thanh
|
46
|
Đường Tam Thanh
|
47
|
Đường Bến Bắc
|
48
|
Đường Ngô Thì Sỹ
|
49
|
Đường Ngô Thì Nhậm
|
50
|
Đường Tô Thị
|
51
|
Đường Lê Quý Đôn
|
52
|
Đường Ba Sơn
|
53
|
Đường Nguyễn Nghiễm
|
54
|
Đường Ngô Thì Vị
|
55
|
Đường Nguyễn Phi Khanh
|
56
|
Phố Phan Huy Ích
|
57
|
Phố Nguyễn Văn Ninh
|
58
|
Phố Muối
|
59
|
Phố Yết Kiêu
|
60
|
Phố Hoà Bình
|
61
|
Phố Mai Toàn Xuân
|
62
|
Đường Nà Trang A
|
63
|
Đường Nà Trang B
|
64
|
Phố Nguyễn Hữu Cảnh
|
65
|
Phố Nguyễn Khuyến
|
66
|
Phố Nhị Thanh 1
|
67
|
Phố Nhị Thanh 2
|
68
|
Phố Nhị Thanh 3
|
III
|
Phường Chi Lăng
|
69
|
Đường Trần Hưng Đạo
|
70
|
Đường Trần Quang Khải
|
71
|
Đường Hùng Vương
|
72
|
Đường Hoàng Văn Thụ
|
73
|
Đường Mai Thế Chuẩn
|
74
|
Đường Hoàng Diệu
|
75
|
Đường Tổ Sơn
|
76
|
Đường Chùa Tiên
|
77
|
Đường Đèo Giang
|
78
|
Đường Quang Trung
|
79
|
Đường Thác Trà
|
80
|
Đường Văn Vỉ
|
81
|
Đường Văn Cao
|
82
|
Đường Đại Huề
|
83
|
Đường Vạn Lý
|
84
|
Đường Phai Luông
|
85
|
Phố Phai Luông 1
|
86
|
Phố Phai Luông 2
|
87
|
Phố Phai Luông 3
|
88
|
Phố Phai Luông 4
|
89
|
Phố Phai Luông 5
|
90
|
Phố Phai Luông 6
|
91
|
Phố Phai Luông 7
|
92
|
Phố Phai Luông 8
|
93
|
Phố Phai Luông 9
|
94
|
Phố Đinh Tiên Hoàng
|
95
|
Phố Xứ Nhu
|
96
|
Phố Nguyễn Thái Học
|
97
|
Phố Trưng Trắc
|
98
|
Phố Trưng Nhị
|
99
|
Phố Phạm Ngũ Lão
|
100
|
Phố Trần Nhật Duật
|
101
|
Phố Lý Tự Trọng
|
102
|
Phố Đường Thành
|
103
|
Phố Cửa Nam
|
104
|
Phố Văn Miếu
|
105
|
Phố Dã Tượng
|
106
|
Phố Phan Huy Chú
|
107
|
Phố Phan Bội Châu
|
108
|
Phố Tuệ Tĩnh
|
109
|
Phố Hoàng Hoa Thám
|
110
|
Phố Ngô Sỹ Liên
|
IV
|
Phường Hoàng Văn Thụ
|
111
|
Đường Bà Triệu
|
112
|
Đường Bắc Sơn
|
113
|
Đường Trần Phú
|
114
|
Đường Bông Lau
|
115
|
Đường Tô Hiến Thành
|
116
|
Đường Mạc Đĩnh Chi
|
117
|
Đường Tông Đản
|
118
|
Đường Vi Đức Thắng
|
119
|
Đường Tản Đà
|
120
|
Đường Nguyễn Thế Lộc
|
121
|
Đường Lý Thường Kiệt
|
122
|
Đường Hoàng Quốc Việt
|
123
|
Đường Bùi Thị Xuân
|
124
|
Phố Lê Lai
|
125
|
Phố Minh Khai
|
126
|
Phố Kỳ Lừa
|
127
|
Phố Lương Văn Tri
|
128
|
Phố Phan Đình Phùng
|
129
|
Phố Trần Quốc Toản
|
130
|
Phố Phan Châu Trinh
|
131
|
Phố Thân Công Tài
|
132
|
Phố Ngô Văn Sở
|
133
|
Phố Thân Cảnh Phúc
|
134
|
Phố Trần Khánh Dư
|
135
|
Phố Tây Sơn
|
136
|
Phố Cao Thắng
|
137
|
Phố Hoàng Đình Giong
|
138
|
Phố Nguyễn Thượng Hiền
|
139
|
Phố Nguyễn Khắc Cần
|
140
|
Phố Tô Hiệu
|
141
|
Phố Mai Hắc Đế
|
142
|
Phố Lương Văn Can
|
143
|
Phố Phùng Chí Kiên
|
144
|
Phố Bùi Thị Xuân 1
|
145
|
Phố Bùi Thị Xuân 2
|
146
|
Phố Bùi Thị Xuân 3
|
147
|
Phố Hoàng Quốc Việt 1
|
148
|
Phố Bông Lau 1
|
149
|
Phố Bông Lau 2
|
150
|
Phố Bông Lau 3
|
151
|
Phố Bông Lau 4
|
152
|
Phố Bông Lau 5
|
153
|
Phố Bông Lau 6
|
154
|
Phố Bông Lau 7
|
155
|
Phố Tô Hiệu 1
|
156
|
Phố Nguyễn Khắc Cần 1
|
V
|
Phường Đông Kinh
|
157
|
Đường Nguyễn Du
|
158
|
Đường Nguyễn Đình Chiểu
|
159
|
Đường Chu Văn An
|
160
|
Đường Lý Thái Tổ
|
161
|
Phố Ngô Gia Tự
|
162
|
Phố Thác Mạ 1
|
163
|
Phố Thác Mạ 2
|
164
|
Phố Thác Mạ 3
|
165
|
Phố Thác Mạ 4
|
166
|
Phố Thác Mạ 5
|
167
|
Phố Thác Mạ 6
|
168
|
Phố Thác Mạ 7
|
169
|
Phố Thác Mạ 8
|
170
|
Đường Võ Thị Sáu
|
171
|
Phố Hồ Tùng Mậu
|
172
|
Phố Nguyễn Trường Tộ
|
VI
|
Xã Mai Pha
|
173
|
Phố Mai Pha 1
|
174
|
Phố Mai Pha 2
|
175
|
Phố Mai Pha 3
|
176
|
Phố Mai Pha 4
|
177
|
Phố Mai Pha 5
|
178
|
Phố Mai Pha 6
|
179
|
Phố Mai Pha 7
|
180
|
Phố Mai Pha 8
|
181
|
Phố Nam Cao
|
182
|
Phố Mạc Thị Bưởi
|
183
|
Phố Phạm Hồng Thái
|
184
|
Phố Nguyễn Phong Sắc
|
185
|
Phố Trần Quang Diệu
|
186
|
Phố Hồ Xuân Hương
|
187
|
Phố Nguyễn Chí Thanh
|
188
|
Phố Hồ Xuân Hương 1
|
189
|
Phố Hồ Xuân Hương 2
|
190
|
Phố Trần Văn Cẩn
|
191
|
Phố Trần Văn Cẩn 1
|
192
|
Phố Nguyễn Đức Cảnh
|
193
|
Phố Hà Huy Giáp
|
194
|
Phố La Văn Cầu
|
195
|
Phố Nam Cao 1
|
196
|
Phố Nam Cao 2
|
197
|
Phố Hồ Đắc Di
|
198
|
Phố Phạm Ngọc Thạch
|
199
|
Phố Đào Duy Anh
|
200
|
Phố Nguyễn Bá Ngọc
|
201
|
Phố Tô Vĩnh Diện
|
VII
|
Xã Hoàng Đồng
|
202
|
Phố Đội Cấn
|
203
|
Phố Lê Trọng Tấn
|
204
|
Phố Lê Đức Thọ
|
205
|
Đường Văn Tiến Dũng
|
206
|
Phố Hoàng Văn Thái
|
207
|
Phố Võ Chí Công
|
208
|
Phố Dương Quảng Hàm
|
209
|
Phố Chu Văn Tấn
|
210
|
Phố Nguyễn Cơ Thạch
|
211
|
Phố Lê Anh Xuân
|
212
|
Phố Cù Chính Lan
|
213
|
Phố Hoàng Đạo Thuý
|
214
|
Phố Đặng Thuỳ Trâm
|
215
|
Phố Nam Hoàng Đồng 1
|
216
|
Phố Nam Hoàng Đồng 2
|
217
|
Phố Nam Hoàng Đồng 3
|
218
|
Phố Nam Hoàng Đồng 4
|
219
|
Phố Nam Hoàng Đồng 5
|
220
|
Phố Nam Hoàng Đồng 6
|
221
|
Phố Nam Hoàng Đồng 7
|
222
|
Phố Nam Hoàng Đồng 8
|
223
|
Phố Nam Hoàng Đồng 9
|
224
|
Phố Nam Hoàng Đồng 10
|
225
|
Phố Nam Hoàng Đồng 11
|
226
|
Phố Nam Hoàng Đồng 12
|
227
|
Phố Nam Hoàng Đồng 13
|
228
|
Phố Nam Hoàng Đồng 14
|
229
|
Phố Nam Hoàng Đồng 15
|
230
|
Phố Nam Hoàng Đồng 16
|
231
|
Phố Nam Hoàng Đồng 17
|
232
|
Phố Nam Hoàng Đồng 18
|
233
|
Phố Nam Hoàng Đồng 19
|
234
|
Phố Nam Hoàng Đồng 20
|
235
|
Phố Nam Hoàng Đồng 21
|
236
|
Phố Nam Hoàng Đồng 22
|
BIỂU 1B. DANH MỤC ĐƯỜNG, PHỐ ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TẠI 10 HUYỆN THUỘC
TỈNH
STT
|
Tên đường, phố
|
I
|
Huyện Tràng Định (Thị trấn
Thất Khê)
|
1
|
Đường Hoàng Văn Thụ
|
2
|
Phố Phai Dài
|
3
|
Đường Nà Nghiều
|
4
|
Đường 21/8
|
5
|
Đường Nà Cạn
|
6
|
Đường Nà Slảng
|
7
|
Đường Nà Chào
|
8
|
Đường Pác Giàng
|
9
|
Đường 10/10
|
10
|
Phố Xá Cái
|
11
|
Phố Cốc Lùng
|
12
|
Phố Hòa Bình
|
13
|
Phố Bắc Khê
|
14
|
Đường Thanh Niên
|
15
|
Phố Cẩu Pung
|
16
|
Phố Bông Lau
|
17
|
Phố Vàng Cai
|
18
|
Phố Ngô Thì Sỹ
|
II
|
Huyện Văn Quan (Thị trấn
Văn Quan)
|
1
|
Đường Lương Văn Tri
|
2
|
Đường Hoà Bình
|
3
|
Đường Tân Xuân
|
4
|
Đường Lùng Cà
|
5
|
Đường Tân An
|
6
|
Đường Lê Quý Đôn
|
7
|
Đường Ngô Gia Tự
|
8
|
Đường Phùng Chí Kiên
|
9
|
Đường Trần Phú
|
III
|
Huyện Đình Lập (Thị trấn
Đình Lập)
|
1
|
Đường Yên Lập
|
2
|
Đường Hoà Bình
|
3
|
Đường Nà Thuộc
|
4
|
Đường Phai Lì
|
5
|
Đường Vườn Cam
|
6
|
Phố Cũ
|
7
|
Đường 31 tháng 10 (31/10)
|
IV
|
Huyện Hữu Lũng (Thị trấn Hữu
Lũng)
|
1
|
Đường Xương Giang
|
2
|
Đường Chi Lăng
|
3
|
Đường Bắc Sơn
|
4
|
Đường 19 tháng 8 (19/8)
|
5
|
Đường Hoàng Đình Kinh
|
6
|
Đường Ba Đình
|
7
|
Đường Kim Đồng
|
8
|
Đường Tôn Thất Tùng
|
9
|
Đường Hoàng Hoa Thám
|
10
|
Đường Chu Văn An
|
11
|
Đường Thụy Hùng
|
12
|
Đường Bế Văn Đàn
|
V
|
Huyện Bình Gia (Thị trấn
Bình Gia)
|
1
|
Đường 19 tháng 4 (19/4)
|
2
|
Đường Hoàng Văn Thụ
|
3
|
Đường Trần Hưng Đạo
|
4
|
Đường Ngô Thì Sỹ
|
5
|
Đường Phai Danh
|
6
|
Phố Hoà Bình
|
VI
|
Huyện Bắc Sơn (Thị trấn Bắc
Sơn)
|
1
|
Đường Khởi nghĩa Bắc Sơn
|
2
|
Đường Văn Cao
|
3
|
Đường Phùng Chí Kiên
|
4
|
Đường Điện Biên
|
5
|
Đường Yên Lãng
|
6
|
Đường 27 tháng 9 (27/9)
|
7
|
Đường Hoàng Văn Thái
|
8
|
Đường Tuệ Tĩnh
|
9
|
Đường Lương Văn Tri
|
10
|
Đường Trường Chinh
|
11
|
Đường Hoàng Quốc Việt
|
12
|
Đường Cách mạng tháng 8
|
13
|
Đường Vĩnh Thuận
|
VII
|
Huyện Cao Lộc (Thị trấn Đồng
Đăng và Thị trấn Cao Lộc)
|
1
|
Đường Hữu Nghị
|
2
|
Đường Nguyễn Đình Lộc
|
3
|
Đường Thanh Niên
|
4
|
Đường Hoàng Văn Thụ
|
5
|
Đường Trần Quốc Toản
|
6
|
Đường Trần Hưng Đạo
|
7
|
Đường Phùng Chí Kiên
|
8
|
Đường Lương Văn Tri
|
9
|
Đường Chi Lăng
|
10
|
Đường Bắc Sơn
|
11
|
Phố Nguyễn Trãi
|
12
|
Phố Nam Quan
|
13
|
Phố Kim Đồng
|
14
|
Đường Mỹ Sơn
|
15
|
Đường 3 tháng 2 (3/2)
|
16
|
Đường Na Làng
|
17
|
Đường Khòn Cuổng
|
18
|
Đường Lục Giàng
|
19
|
Phố Tạ Quang Bửu
|
20
|
Phố Phan Đăng Lưu
|
21
|
Phố Lê Văn Lương
|
22
|
Phố Thủy Môn Đình
|
23
|
Phố Xuân Diệu
|
24
|
Phố Tố Hữu
|
25
|
Phố Nguyễn Tuân
|
26
|
Phố Đặng Thai Mai
|
27
|
Phố Huy Cận
|
28
|
Phố Nguyễn Huy Tưởng
|
29
|
Phố Vương Thừa Vũ
|
30
|
Phố Nguyễn An Ninh
|
31
|
Phố Bắc Nga
|
32
|
Phố Lê Văn Lương 1
|
VIII
|
Huyện Chi Lăng (Thị trấn Đồng
Mỏ)
|
1
|
Đường Lê Lợi
|
2
|
Đường Đại Huề
|
3
|
Đường Cai Kinh
|
4
|
Đường Khu Ga
|
5
|
Đường Bà Triệu
|
6
|
Đường Chu Văn An
|
7
|
Phố Tô Hiệu
|
8
|
Phố Trần Lựu
|
9
|
Phố Hoàng Hoa Thám
|
10
|
Phố Thân Công Tài
|
11
|
Phố Thân Cảnh Phúc
|
IX
|
Huyện Lộc Bình (Thị trấn Lộc
Bình và Thị trấn Na Dương)
|
1
|
Đường Cách mạng Tháng 8
|
2
|
Đường Thống Nhất
|
3
|
Đường Hoàng Văn Thụ
|
4
|
Đường Pò Mục
|
5
|
Đường Vi Đức Thắng
|
6
|
Đường 19 tháng 10 (19/10)
|
7
|
Đường Lương Văn Tri
|
8
|
Đường Kim Đồng
|
9
|
Đường Trần Phú
|
10
|
Đường 12 tháng 1 (12/01)
|
11
|
Đường Nhiệt Điện
|
X
|
Huyện Văn Lãng (Thị trấn
Na Sầm)
|
1
|
Đường Hoàng Văn Thụ
|
2
|
Đường 13 tháng 10 (13/10)
|
3
|
Đường Lương Văn Tri
|
4
|
Đường Bản Tích
|
5
|
Đường Khu Ga
|
6
|
Đường Hàng Dã
|
BIỂU 1C. NHỮNG CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH
STT
|
Tên công trình công cộng
|
I
|
Thành phố Lạng Sơn
|
1
|
Công viên Chi Lăng
|
2
|
Cầu 17-10
|
3
|
Cầu Lao Ly 1
|
4
|
Cầu Lao Ly 2
|
5
|
Cầu Phố Muối
|
6
|
Công viên 15-6
|
7
|
Cầu Kỳ Cùng
|
8
|
Công viên Hồ Phai Loạn
|
9
|
Khuôn viên lưu niệm Chủ tịch
Hồ Chí Minh
|
10
|
Khuôn viên tượng đài đồng chí
Hoàng Văn Thụ
|
11
|
Vườn hoa 17-10
|
II
|
Huyện Đình Lập
|
1
|
Cầu Đình Lập
|
2
|
Cầu Hạ Lý
|
3
|
Cầu Khuổi Siến
|
4
|
Cầu Nà Quan
|
5
|
Cầu Phố Cũ
|
PHỤ LỤC 2
DỮ LIỆU NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 1121/QĐ-UBND ngày 21/7/2023 của UBND
tỉnh Lạng Sơn)
STT
|
Tên đưa vào ngân hàng dữ liệu
|
Tóm tắt ý nghĩa tên gọi
|
I
|
MỘT SỐ ĐỊA DANH TIÊU BIỂU CỦA ĐẤT NƯỚC, ĐỊA PHƯƠNG (40
tên)
|
A
|
Một số địa danh tiêu biểu
của đất nước (12 tên)
|
1
|
Âu Lạc
|
Âu Lạc là tên Quốc hiệu Việt Nam
thời An Dương Vương. Năm 208 trước công nguyên, sau cuộc kháng chiến chống Tần
thắng lợi, Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán lên làm vua, hiệu
là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa (nay là xã Cổ Loa,
huyện Đông Anh, Hà Nội). Nước Âu Lạc tồn tại đến năm 179 trước công nguyên
(TCN) thì bị Triệu Đà thôn tính. Cuối thời đại các vua Hùng, An Dương Vương
Thục Phán đã thống nhất các bộ lạc người Lạc Việt và Âu Việt để thành lập nhà
nước Âu Lạc năm 257 TCN, đóng đô ở Cổ Loa, xây thành Cổ Loa. Năm 179 TCN nước
Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà thôn tính, chia nước ta thành hai quận:
Giao Chỉ và Cửu Chân.
|
2
|
Ba Đình
|
Ba Đình là tên địa danh căn cứ
của nghĩa quân Phạm Bành, Đinh Công Tráng chống Pháp trong những năm
1885-1887 được xây dựng trên đất ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ và Mỹ Khê thuộc
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một ngôi đình, từ
làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Sử gọi là cuộc khởi nghĩa Ba
Đình nổi tiếng.
Tên gọi Ba Đình còn gắn liền
với địa danh Quảng trường Ba Đình, thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Nơi
đây vốn là vườn hoa Ba Đình, vào ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường
Ba Đình trở thành nơi tổ chức nhiều sự kiện trọng đại của đất nước.
|
3
|
Đại Cồ Việt
|
Đại Cồ Việt là tên Quốc hiệu
nước ta dưới thời Đinh Tiên Hoàng. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12
sứ quân, thống nhất đất nước, xưng hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đặt quốc hiệu là
Đại Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình, đóng đô ở Hoa Lư (nay thuộc huyện Hoa
Lư, tỉnh Ninh Bình). Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Cồ Việt đến năm 1009.
|
4
|
Đại Nam
|
Đại Nam là tên Quốc hiệu nước
ta dưới thời Nguyễn. Đại Nam được vua Minh Mệnh đặt từ năm 1838. Quốc hiệu Đại
Nam được dùng chính thức cho đến năm 1945, tổng cộng 107 năm. Lãnh thổ Việt
Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự
trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi
tên nước ta là Đại Nam.
|
5
|
Đại Việt
|
Đại Việt là tên Quốc hiệu của
nước ta từ triều Lý, Trần, Lê Sơ và Lê Trung Hưng (Hậu Lê). Quốc hiệu Đại Việt
gắn với kinh thành Thăng Long là biểu tượng cho một giai đoạn phát triển thịnh
đạt của chế độ phong kiến nước ta. Quốc hiệu của nước ta, chính thức vào thời
Lý Thánh Tông đến thời Trần (Từ năm 1054 đến năm 1400). Năm 1400, Hồ Quý Lý
cướp ngôi nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu. Năm 1428, sau khởi nghĩa Lam Sơn
thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt lại quốc hiệu là Đại Việt. Quốc hiệu
Đại Việt trải qua các triều đại Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn và đầu
Nguyễn, tổng cộng 722 năm. Quốc hiệu Đại Việt tồn tại đến năm 1804 khi Nguyễn
Gia Long đổi tên nước là Việt Nam.
|
6
|
Điện Biên Phủ
|
Điện Biên là tên một thung
lũng thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay là thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh
Điện Biên), nơi diễn ra chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, tiêu diệt
hoàn toàn tập đoàn cứ điểm phòng ngự của quân đội viễn chinh Pháp, chiến thắng
quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta.
|
7
|
Hoàng Sa
|
Hoàng Sa là tên một quần đảo
của Việt Nam ở Biển Đông cách thành phố Đà Nẵng 50 hải lý.
|
8
|
Trường Sa
|
Là hệ thống các đảo thuộc địa
phận tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam.
|
9
|
Trường Sơn
|
Trường Sơn là tên dãy núi nằm
giữa nước ta và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân, dài gần 1.000km, núi dốc về
phía Việt Nam, thoải về phía Lào, có nhiều đèo.. Trường Sơn là địa danh tiêu
biểu đã đi vào lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
Nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX. Đường Trường Sơn đã trở thành chứng tích lịch
sử oai hùng trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
|
10
|
Thăng Long
|
Thăng Long là kinh đô của nước
Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng (1010 - 1788). Năm 1010, tương
truyền khi vua Lý Công Uẩn dời kinh đô Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng
bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long (nghĩa là "rồng bay
lên"). Tên gọi Thăng Long đã đi vào lịch sử, được dùng nhiều trong văn
chương, nghệ thuật và là địa danh gắn liền với Thủ đô Hà Nội.
|
11
|
Vạn Xuân
|
Vạn Xuân là tên Quốc hiệu nước
ta thời Lý Nam Đế (Lý Bí). Năm 541 Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi Thứ sử Giao
Châu, chiếm thành Long Biên. Mùa xuân năm 544, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế,
đặt quốc hiệu là Vạn Xuân với mong muốn xã tắc được truyền đến muôn đời.
|
12
|
Văn Lang
|
Văn Lang là tên Quốc hiệu đầu
tiên của Việt Nam. Theo ghi chép của sử cũ, nước ta lúc đầu có tên là Văn
Lang. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Những kết quả nghiên cứu mới nhất
của giới sử học cho biết Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước
công nguyên và kết thúc vào năm 208 trước công nguyên. Kinh đô của Văn Lang
là Phong Châu (nay là huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Nước Văn Lang nằm trên
địa phận Bắc Bộ ngày nay và phần Bắc Trung Bộ đến giáp đèo Hải Vân.
|
B
|
Một số địa danh tiêu biểu
của tỉnh, các địa phương trong tỉnh; địa phương kết nghĩa (28 tên)
|
1
|
Ba Sơn
|
Đây là nơi căn cứ địa an toàn
của đội du kích Ba Sơn (Cao Lộc) thời kỳ chống Pháp (1947-1954). Trong kháng
chiến chống Pháp, quân và dân khu du kích Ba Sơn, huyện Cao Lộc đã tổ chức 72
trận đánh lớn nhỏ tiêu diệt và bắt hàng trăm tên địch, uy hiếp, khống chế,
làm tê liệt hàng chục cứ điểm tập trung của địch, chia cắt làm chủ nhiều địa
bàn xung yếu trên đường số 4, cùng quân và dân trong tỉnh giam chân địch tại
Lạng Sơn, hỗ trợ và phối hợp kịp thời với bộ đội chủ lực, góp phần đánh tan
hoàn toàn quân Pháp tại Chiến dịch biên giới năm 1950.
|
2
|
Bản Ca
|
Địa danh thôn Bản Ca, xã Chí Minh,
huyện Tràng Định. Nơi đây, dân quân du kích và lực lượng vũ trang địa phương
đã phối hợp với các đơn vị bộ đội chủ lực tổ chức trận đánh địch lớn, tiêu diệt
và tóm gọn 02 binh đoàn tinh nhuệ nhất của Pháp. Từ ngày 05/10/1950 đến ngày
07/10/1950, quân ta tiêu diệt 677 tên, bắt sống 1.386 tên, trong đó có tên chỉ
huy Trung tá Sác - Tông, ngày 09/10/1950, quân ta tóm gọn tên chỉ huy Trung
tá Lơ-pa-giơ và nhiều sĩ quan, binh lính.
|
3
|
Bản Cù
|
Nơi thành lập Trung đội vũ trang
đầu tiên của huyện Bình Gia vào ngày 20/3/1947; là điểm giao liên quan trọng
cho sự hoạt động đi lại của các đồng chí cán bộ Trung ương cũng như cán bộ Việt
Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng.
|
4
|
Cạm Bao
|
Đèo Cạm Bao tại xã Hưng Đạo,
huyện Bình Gia. Trong giai đoạn 1946-1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và
dân các dân tộc huyện Bình Gia đã có nhiều cuộc đấu tranh trên các mặt như
kinh tế, chính trị, quân sự, góp phần to lớn vào sự thành công của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt là trận phục kích đánh chặn quân
Pháp tại đèo Cạm Bao xã Hưng Đạo ngày 25/9/1947. Ta đã tiêu diệt 42 tên địch,
thu nhiều vũ khí, làm cho quân địch phải rút lui, không vào được địa bàn Bình
Gia.
|
5
|
Cổ Lũng
|
Cuối thời nhà Trần và đầu thời
nhà Hồ, Hữu Lũng có tên gọi Cổ Lũng nằm trong lộ Lạng Giang. Thế kỷ XIV khi
nhà Minh xâm lược nước ta, Cổ Lũng nằm trong phủ Lạng Giang, lộ Bắc Giang. Thời
nhà Lê, vua Lê Thánh Tông, thời kỳ này lộ Bắc Giang được đổi thành thừa tuyên
Bắc Giang, huyện Cổ Lũng thuộc phủ Lạng Giang, thừa tuyên Bắc Giang. Năm 1469
vua Lê Thánh Tông cho vẽ lại bản đồ và đổi tên đơn vị hành chính từ thừa
tuyên Bắc Giang thành trấn Kinh Bắc, phủ Lạng Giang thuộc trấn Kinh Bắc có 6
huyện trong đó có huyện Hữu Lũng.
|
6
|
Đắk Lắk
|
Đắk Lắk là tên tỉnh kết nghĩa
của tỉnh Lạng Sơn.
Đầu năm 1960, Trung ương Đảng
và Bác Hồ khởi xướng, phát động phong trào “Kết nghĩa Bắc Nam” giữa các tỉnh,
thành phố miền Bắc với các tỉnh, thành phố miền Nam. Hoạt động kết nghĩa đã
diễn ra sôi nổi, rộng khắp, trở thành một trong những phong trào tiêu biểu vì
miền Nam ruột thịt thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Tỉnh Lạng Sơn đã kết nghĩa với
tỉnh Đắk Lắk - một trong những tỉnh ở khu vực Tây Nguyên. Có thể coi Nghị quyết
88/TĐB ngày 08/3/1960 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về mở cuộc vận động kết nghĩa
là dấu mốc khởi đầu của phong trào.
Công tác tuyên truyền và nhiều
hoạt động, phong trào thi đua thiết thực đã được triển khai thực hiện. Nhiều
công trình lao động tập thể đã lấy tên tỉnh Đắk Lắk để đặt tên: Hồ Đắk Lắk
(huyện Lộc Bình, Văn Quan), Đồi Đắk Lắk (của Ty Lâm nghiệp), Công viên Đắk Lắk
(thị xã Lạng Sơn)… Ngày 19/8/1960, nhân dịp kỷ niệm 15 năm Cách mạng Tháng
Tám, lễ kết nghĩa giữa hai tỉnh được tổ chức trọng thể tại thị xã Lạng Sơn,
thắm tình đoàn kết keo sơn gắn bó giữa hai địa phương.
|
7
|
Đồn Vang
|
Ngày 16/12/1945, 07 chiến sĩ
đội tự vệ Đồn Vang đã chiến thắng trận đầu đánh tan 50 tên phỉ đến cướp phá
làm nức lòng và động viên kịp thời các đội tự vệ du kích trong huyện. Tháng 3/1947
Pháp đẩy một trung đoàn lính Âu Phi đánh chiếm Hữu Lũng nhưng đã vấp phải sức
mạnh kháng chiến của quân dân Hữu Lũng đánh chặn quyết liệt giam chân quân địch
tại Đồn Vang Bến Lường, gây cho chúng thiệt hại nặng nề giẫm đạp lên nhau chạy
về bên kia Cầu Lường. Bảo vệ an toàn địa bàn huyện và cuộc sống của nhân dân.
Bằng trận đánh thắng lợi Đồn Vang, quân dân Hữu Lũng lại ghi tiếp chiến công
lừng lẫy, làm nức lòng khí thế kháng chiến toàn dân tự hào đã đánh thắng quân
đội nhà nghề của thực dân, làm tiêu tan mưu đồ lấn chiếm của chúng đối với
vùng đất Hữu Lũng giàu truyền thống cách mạng. Hiện nay, Đồn Vang là tên của
một thôn thuộc xã Minh Sơn huyện Hữu Lũng.
|
8
|
Đông Cai
|
Hán quận công Thân Công Tài
(1620-1683). Đương thời làm quan, Hán quận công luôn thể hiện là vị quan mẫn
tiệp, luôn giữ mình thanh liêm, tận tụy vì việc dân, nghiệp nước. Trong những
năm làm quan ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo phòng thủ Đoàn Thành, ra sức thiết
lập trật tự xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân, khôn khéo thực hiện đường lối
ngoại giao mềm dẻo, thân thiết với các tỉnh biên giới của Trung Quốc và chăm
lo giữ gìn biên ải. Hán Quận Công còn để tâm mở mang đường sá, phố, chợ, giúp
dân làm ăn sinh sống dễ chịu hơn. Nhận thấy tầm quan trọng cũng như vị trí
thuận lợi trong việc mở mang thương trường, giao lưu buôn bán giữa Lạng Sơn
và Trung Quốc, ông đã đề xướng và cho san đồi, bạt đất, khởi công xây dựng
khu đất ven bờ sông Kỳ Cùng thành 7 con đường, rồi lập thành 7 phường với các
phố: Chính Cai, Đông Cai, Tây Cai, Bắc Cai, Nam Cai, Phai Món, Pò Càng cho
cư dân hai nước Việt - Trung giao lưu buôn bán và gây dựng phố chợ Kỳ Lừa,
làm cho nơi đây trở thành trung tâm buôn bán sầm uất, phồn thịnh của Nhân dân
2 nước Việt - Trung. Vì thế mà Nhân dân hai nước Việt - Trung tôn ông là “Sư
phụ” và coi ông là “Lưỡng quốc khách nhân”. Những giá trị của tư tưởng giao
thương quốc tế và tư tưởng đô thị hóa từ rất sớm của ông vẫn còn nguyên vẹn đến
ngày nay.
|
9
|
Tây Cai
|
10
|
Nam Cai
|
11
|
Bắc Cai
|
12
|
Chính Cai
|
13
|
Phai Món
|
14
|
Đình Hải
|
Ngày 27/6/1951, nhập 02 huyện
Hải Chi và Đình Lập (thuộc tỉnh Hải Ninh trước kia) thành một huyện mới lấy
tên là Đình Hải, đến năm 1954, Huyện Đình Hải lại tách làm 2 huyện riêng biệt
(huyện Đình Lập và huyện Ba Chẽ ngày nay).
|
15
|
Hải Ninh
|
Địa danh gắn liền với sự hình
thành, phát triển huyện Đình Lập. Ngày 29/12/1978 huyện Đình Lập tách từ tỉnh
Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh) và được chuyển, sáp nhập, trực thuộc tỉnh Lạng
Sơn.
|
16
|
Kim Lỵ
|
Làng Kim Lỵ thuộc xã Đội Cấn,
huyện Tràng Định. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Làng Kim Lỵ luôn là một
địa điểm đón tiếp che chở và nuôi giấu nhiều cán bộ chủ chốt như Hoàng Văn Thụ,
Lương Văn Tri...Đặc biệt là nơi đón tiếp và bảo vệ bí mật cho đoàn cán bộ
lãnh đạo Trung ương và Xứ ủy đi dự hội nghị Trung ương VIII tại Pác Bó - Cao
Bằng năm 1941. Làng Kim Lỵ đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu
“Làng có công với nước”.
|
17
|
Kéo Coong
|
Cuối năm 1947, thực dân Pháp
đánh chiếm các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình. Trước âm mưu
đánh lớn của địch, cơ quan lãnh đạo của tỉnh Lạng Sơn rút từ Ba Xã, Điềm He về
địa bàn đèo Kéo Coong, xã Tân Văn, huyện Bình Gia.
|
18
|
Khánh Khê
|
Khánh Khê là tên của cây cầu
bắc qua sông Kỳ Cùng- đoạn chảy qua địa phận giữa hai huyện Văn Quan và Cao Lộc,
tỉnh Lạng Sơn. Cầu Khánh Khê là vị trí cực kỳ quan trọng trong trận đánh lui
quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Thời điểm đó,
Trung Quốc huy động hàng quân đoàn với hàng trăm pháo các loại đánh chiếm các
điểm cao do Sư đoàn 337 trấn giữ. Từ 28/2 đến 05/3/1979 đã diễn ra nhiều trận
đánh ác liệt. Với quân số áp đảo, địch đã mở nhiều cuộc tấn công nhằm vượt
sông nhưng đều bị ta đánh bật trở lại.
Trong suốt 12 ngày đêm với 18
trận đánh chống quân xâm lược tại tuyến phòng thủ này, ước tính đã có 2.000
tên địch bị tiêu diệt, 8 xe tăng địch bị phá. Quan trọng hơn cả, Sư đoàn 337
đã hoàn thành nhiệm vụ, đập tan ý đồ bao vây chia cắt Lạng Sơn của địch. Đảng,
chính quyền, Nhân dân Lạng Sơn đã xây dựng đài kỷ niệm chiến thắng ngay đầu cầu
Khánh Khê.
|
19
|
Khau Háy
|
Đèo Khau Háy, xã Kiên Mộc,
huyện Đình Lập nơi diễn ra các trận đánh lịch sử của quân và dân khu căn cứ
chiến đấu Nà Thuộc trong kháng chiến chống Pháp. Hiện nay, tại Đèo Khau Hay,
xã Kiên Mộc, huyện Đình Lập đã xây dựng và khánh thành nhà bia tưởng niệm di
tích lịch sử Đèo Khau Háy.
|
20
|
Lủng Nọi
|
Cuối năm 1940, đồng chí Chu
Văn Tấn, cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ đã tới thôn Lủng Nọi (Tổng Bình Gia; nay là khối
phố 6a, thị trấn Bình Gia) và thôn Pá Nim (Tổng Hữu Lương; nay là thị trấn
Bình Gia) để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng, gây dựng cơ sở
quần chúng trung kiên cho hoạt động của cứu quốc quân.
|
21
|
Pá Nim
|
Là tên một thôn thuộc thị trấn
Bình Gia, huyện Bình Ga. Cuối năm 1940, đồng chí Chu Văn Tấn, cán bộ Xứ ủy Bắc
Kỳ đã tới thôn Lủng Nọi (Tổng Bình Gia; nay là khối phố 6a, thị trấn Bình
Gia) và thôn Pá Nim (Tổng Hữu Lương; nay Thị trấn Bình Gia) để tuyên truyền
giác ngộ cách mạng cho quần chúng, gây dựng cơ sở quần chúng trung kiên cho
hoạt động của cứu quốc quân.
|
22
|
Lý Lân
|
Di tích hang Lý Lân thuộc thôn
Bến Cốn, xã Minh Tiến, huyện Hữu Lũng. Đây là di chỉ Cổ Sinh ở vào cuối thời
kỳ Pleistocene thuộc trung kỳ Cách Tân. Đây là một điểm di tích quan trọng
trong việc nghiên cứu sinh tồn và phát triển của các loài động vật cổ xưa và
người cổ thuộc thời đại đá cũ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
23
|
Nà Thuộc
|
Ngày 14/4/1947 là ngày chiến
thắng trận đầu của Khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc (huyện Đình Lập); Sau khi
họp bàn thống nhất, cắt máu ăn thề ở đình Pò Háng, quân dân ta đã anh dũng
chiến đấu, bẻ gãy đợt tấn công đầu tiên của địch vào khu căn cứ kháng chiến
Nà Thuộc gồm một tiểu đoàn lính Âu Phi và bọn tay sai phản động, làm nên chiến
thắng trận đầu, góp phần củng cố tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn huyện lúc bấy giờ.
Tin vui chiến thắng của quân và dân khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc lan tỏa
khắp chiến trường Việt Bắc. Năm 1948, Hồ Chủ tịch khen thưởng thành tích chiến
đấu và tặng cán bộ, dân quân, du kích chiến khu bức trướng thêu dòng chữ “CHIẾN
KHÁNG HỘ ỦNG” (Ủng hộ kháng chiến).
|
24
|
Na Hình
|
Di tích thuộc thôn Na Hình,
xã Thuỵ Hùng, huyện Văn Lãng. Đây là nơi hoạt động bí mật của đồng chí Bế Chấn
Biên (Bế Chấn Hưng) trong thời kỳ cách mạng 1941-1945. Trong chiến thắng Biên
giới 1947-1950, nơi đây là hậu cứ đánh mặt trận đường số 4. Di tích lịch sử
Hang Na Hình đã được phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích của UBND tỉnh
Lạng Sơn.
|
25
|
Nhà Cao Phố Cũ
|
Ngày 06/8/1946, Tại ngôi nhà 2
tầng, phố cũ Đình Lập, chi bộ đầu tiên tỉnh Hải Ninh chính thức ra đời. Đây
là tên gọi gắn với sự kiện lịch sử tại di tích Nhà Cao Phố Cũ trên địa bàn
huyện Đình Lập.
|
26
|
Sông Thương
|
Sông Thương bắt nguồn từ vùng
núi cao 600m, thuộc xã Bắc Thủy địa đầu phía Đông Bắc huyện Chi Lăng. Sông chảy
trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng qua địa bàn huyện Hữu Lũng nhập dòng với
sông Trung bắt nguồn từ Thái Nguyên tại Na Hoa, xã Sơn Hà, Hữu Lũng rồi chảy
về địa phận tỉnh Bắc Giang. Không chỉ tạo nên sự nên thơ, cung cấp nguồn nước
tưới tiêu trong sản xuất nông lâm nghiệp, bù đắp phù sa mầu mỡ cho cây trồng
mà trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, dòng Sông Thương với địa
hình đồi núi tạo ra địa thế thuận lợi cho quân và dân Lạng Sơn nói chung, huyện
Chi Lăng, và huyện Hữu Lũng nói riêng lập nên những chiến công hiển hách,
đánh tan mọi kẻ thù xâm lược, trong đó Chiến thắng Chi Lăng có một phần “công
lao góp sức” của dòng Sông Thương huyền thoại.
|
27
|
Tam Lung
|
Ga Tam Lung thuộc thôn Pò
Nghiều, xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, là di tích cấp tỉnh. Di
tích Ga Tam Lung là nhà ga nhỏ được xây dựng vào những năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (năm 1968-1972) có nhiệm vụ đưa đón khách và hàng hóa từ Lạng Sơn
lên Đồng Đăng và tiếp tục qua nước bạn Trung Quốc. Ga Tam Lung vận hành đón
khách và vũ khí vào Nam. Đến năm 1995 nhà ga không còn sử dụng nữa mà trở
thành Trạm sửa chữa, bảo dưỡng đường sắt tuyến Hà - Lạng. Ga Tam Lung gắn liền
với lịch sử ra đi tìm đường hoạt động cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Tại
đây, năm 1928 đồng chí Hoàng Văn Thụ cùng một số thanh niên yêu nước đã đi tới
Ga tàu, tìm đường qua biên giới Việt - Trung tìm cách liên lạc với các tổ chức
cách mạng để trở về nước hoạt động, gây dựng phong trào cách mạng.
|
28
|
Yên Vượng
|
Ngày 20/11/1948, tại Khu căn
cứ du kích Yên Vượng, Chi bộ huyện Đình Lập chính thức được thành lập. Là một
xã thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
|
II
|
DANH TỪ CÓ Ý NGHĨA TIÊU BIỂU
VỀ CHÍNH TRỊ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI (10 tên)
|
|
1
|
Đoàn kết
|
Kết thành một khối thống nhất,
cùng hoạt động vì một mục đích chung.
|
|
2
|
Độc lập
|
Là quyền bất khả xâm phạm của
một đất nước, một quốc gia bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có
chủ quyền tối cao.
|
|
3
|
Đồng tâm
|
Thể hiện sự đoàn kết cùng hướng
về một hướng, đồng lòng nhất trí cao.
|
|
4
|
Giải phóng
|
Là làm cho được tự do, thoát
khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc; là thoát khỏi
tình trạng bị nước ngoài nô dịch, chiếm đóng.
|
|
5
|
Hòa bình
|
Là trạng thái xã hội không có
chiến tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa
các quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội.
|
|
6
|
Thanh niên
|
Là lực lượng to lớn, là nguồn
lực dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ
tương lai của đất nước.
|
|
7
|
Thành công
|
Sự thắng lợi, thành quả đạt
được sau quá trình nỗ lực, cố gắng.
|
|
8
|
Thống nhất
|
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với đất nước và dân tộc ta, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giang sơn thống nhất, thu về một mối, cả
nước cùng đi lên xây dựng CNXH theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã
lựa chọn cho toàn dân tộc.
|
|
9
|
Tự do
|
Là trạng thái một dân tộc, một
xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động
chính trị, xã hội.
|
|
10
|
Thái bình
|
Là trạng thái một dân tộc, một
xã hội, không có loạn lạc, chiến tranh, đất nước yên ổn, Nhân dân được sống
trong hòa bình.
|
|
III
|
CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ, DANH THẮNG TIÊU BIỂU ĐƯỢC XẾP HẠNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH (98 TÊN)
|
|
1
|
- Ải Chi Lăng
- Chi Lăng
|
Là tên gọi di tích thuộc thôn
Quán Thanh, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Lũy Ải Chi Lăng được xây dựng từ thời
Lý Trần đến thời Lê - Mạc thì được tôn tạo thêm. Mục đích xây dựng lũy dùng để
mai phục đánh quân xâm lược Phương Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh, lũy ải đã góp phần đánh tan quân tiếp viện do Liễu Thăng cầm đầu. Sau
này vua các triều đại nước ta đã dùng lũy ải làm nơi đóng quân, luyện tập
nghĩa binh. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng
Di tích Quốc gia đặc biệt.
|
|
2
|
Bản Háu
|
Di tích Hang Bản Háu thuộc
thôn Bản Háu, xã Tràng Phái, huyện Văn Quan. Di tích hang Bản Háu được hai
nhà Sử học và Khảo cổ học người Pháp là H.Mansuy và M.Colani phát hiện vào những
năm 1923 - 1924. Tại hang này hai nhà Khảo cổ học đã đào thám sát nhỏ thấy vỏ
ốc Cypraea cách ngày nay khoảng 33.000 - 28.000 năm. Ngoài ra, còn tìm thấy
“Dấu Bắc Sơn” cùng nhiều mảnh đá công cụ khác như mảnh tước, rìu mài toàn
thân, vỏ ốc nước ngọt, xương răng động vật, di cốt người, đồ gốm trang trí khắc
vạch kiểu Mai Pha, và tô thổ hoàng. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu
nước 1968 - 1972, hang đã được dùng làm nơi trú ẩn, kho vũ khí đạn dược của
Huyện đội Văn Quan. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
3
|
Ba Đăng
|
Núi Ba Đăng là 01 trong 24 điểm
di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng - đã được xếp hạng Di tích cấp
Quốc gia đặc biệt. Núi Ba Đăng là một quả đồi nhỏ nằm giữa cánh đồng màu mỡ dọc
theo bờ sông Thương. Trên đỉnh núi, có tượng đá giống như ba ngọn lửa cháy
hình trái tim đặt ngược nên nhân dân địa phương quen gọi là núi Ba Đăng hoặc
Tam Đăng. Tương truyền đây là nơi nghĩa quân Lê Lợi cảnh giới đặt đài quan
sát ở trong lòng ải Chi Lăng để dễ dàng phát hiện khi giặc Minh tiến vào ải
Chi Lăng.
|
|
4
|
Bãi Đầm
|
Là điểm di tích thuộc thôn
Quán Bầu, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Là nơi diễn ra trận đánh ác liệt của
nghĩa quân trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nhà Minh năm 1427. Tại
đây, quân ta đã tiêu diệt hơn 100 tên thuộc đội quân kỵ binh của Liễu Thăng,
góp phần tạo nên chiến thắng Chi Lăng oanh liệt. Di tích nằm trong Khu di
tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.
|
|
5
|
Bàn Cờ
|
Núi Bàn Cờ là điểm di tích thuộc
thôn Phố Sặt, thị trấn Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh đã
chọn núi Bàn Cờ làm nơi luyện tập binh sĩ, là nơi chiêu mộ nghĩa quân chống
giặc... Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng cấp
Quốc gia.
|
|
6
|
Bản Trại
|
Di tích lịch sử thuộc xã
Kháng Chiến, huyện Tràng Định. Nơi đây ngày 16/31949 tiểu đoàn 29 kết hợp với
đại đội địa phương Tràng Định, đại đội du kích Bắc Sơn đã tấn công đồn địch
tiêu diệt 50 tên lính Pháp, bắt sống 60 tên, thu 2 súng Bazoka, 1 cối 60 mm,
2 địa liên, 49 tiểu liên và nhiều quân trang, quân dụng khác, chặn đứng đường
rút lui của địch từ Thất Khê về Na Sầm. Góp phần trong chiến thắng chiến dịch
biên giới 1950. Di tích lịch sử đường số 4 được xếp hạng di tích cấp Quốc
gia.
|
|
7
|
Bản Nằm
|
Di tích lịch sử thuộc xã
Kháng Chiến, huyện Tràng Định. Ngày 16 tháng 3 năm 1948, tiểu đoàn 48 cùng đại
đội độc lập Bắc Sơn đã phục kích diệt gọn 88 tên lính Âu phi, làm bị thương
54 tên, phá hủy 7 xe cơ giới, 01 đại bác 20mm, 1 trọng liên 12,7 ly, 4 đại liên
1 súng cối, 1 máy vô tuyến điện, chiến thắng đã góp phần cắt đứt đường tiếp tế
vận chuyển, cô lập các cứ điểm trên tuyến phòng thủ biên giới phía Bắc của thực
dân Pháp. Di tích lịch sử đường số 4 được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.
|
|
8
|
Bản Ranh
|
Di tích Đình Bản Ranh thuộc
xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích Đình Bản Ranh đã được xếp hạng
là di tích cấp tỉnh. Đình Bản Ranh là một ngôi đình làng được xây dựng kiểu
truyền thống với kiểu kiến trúc chữ Nhất tường trình đất, mái lợp ngói âm dương,
thấp nhỏ, tĩnh tọa trên một quả đồi thấp sau thôn Bản Ranh. Đình thờ Thành
Hoàng thôn. Di tích Đình Bản Ranh là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của
nhân dân thôn Bản Ranh (trước cách mạng tháng 8) đã cho thấy phong tục tập
quán nơi đây được gìn giữ, bề dày văn hóa và sự phát sinh, phát triển của đồng
bào dân tộc ở nơi đây. Thứ hai đây là một trong những điểm di tích lịch sử
cách mạng thuộc khu du kích Ba Sơn (hòm thư liên lạc bí mật). Thứ ba là địa
điểm mà nhân dân thôn Bản Ranh tập trung cắt máu ăn thề quyết đánh giặc, quyết
theo du kích Ba Sơn (1947-1949). Qua đó đã chứng minh cho tính cộng đồng và
lòng yêu nước căm thù giặc của nhân dân thôn Bản Ranh nói riêng và nhân dân
huyện Cao Lộc nói chung cùng đánh Pháp giải phóng Ba Sơn và huyện Cao Lộc sau
này.
|
|
9
|
Bó Nam
|
Di tích hang Bó Nam thuộc
thôn Kéo Phầy, xã Bằng Hữu, huyện Chi Lăng. Hang Bó Nam nằm trong cánh cung
đá vôi Bắc Sơn. Di tích được nhà khảo cổ học H.Mansuy thám sát, khai quật năm
1916 và viện KCH khai quật năm 1966. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
10
|
Bản Sao
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc đoạn đèo trên quốc lộ 4A, xã Tri Phương, huyện Tràng Định. Ngày
30/7/1947, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đã đập tan âm mưu của thực dân
Pháp hòng đánh chiếm Việt Bắc. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
11
|
Bản Xâm
|
Di tích Đồn Bản Xâm nằm trên
một quả đồi thuộc thôn Bản Xâm, xã Cao Lâu, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di
tích đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Đồn Bản Xâm do thực dân Pháp xây dựng
vào những năm 1946-1947 ngay tại nơi cửa ngõ của xã Cao Lâu, nhằm án ngữ,
ngăn chặn các hoạt động thông tin liên lạc của quân dân du kích Ba Sơn, đồng
thời chúng cũng xây dựng những đồn, bốt nhỏ xung quanh hòng kìm kẹp nhân dân
Ba Sơn để dễ bề cai trị và đàn áp cách mạng, hòng đập tan mọi hoạt động của
du kích nơi đây.
Cuối năm 1949, dưới sự lãnh đạo
của chi bộ đảng huyện Cao Lộc, quân du kích Ba Sơn phối hợp với bộ đội địa
phương và lực lượng cách mạng toàn khu phối hợp tấn công đồn lính Pháp, buộc
địch phải rút chạy về thị xã Lạng Sơn, nhiêu tên bị bắn và giết chết. Chiến
thắng này góp phần giải phóng khu Ba Sơn và giải phóng tỉnh Lạng Sơn sau này.
|
|
12
|
Bắc Lệ
|
Trong giai đoạn 1967-1968 Bắc
Lệ là địa danh phải hứng chịu nhiều bom đạn của giặc Mỹ nhằm phá hỏng và chia
cắt tuyến đường sắt liên vận, ga Bắc Lệ. Tại đây đã diễn ra các trận đánh
oanh liệt của quân và dân chống trả các cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ trong
chiến tranh leo thang ra miền Bắc của đế quốc Mỹ; Bắc Lệ cũng nổi tiếng với đền
Mẫu Công Đồng Bắc Lệ. Hiện nay hàng năm nơi đây đón hàng trăm nghìn lượt
khách thập phương trong nước và quốc tế đến tham quan, chiêm bái, hành lễ và
du lịch tâm linh. Đền Bắc Lệ đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.
|
|
13
|
Bắc Nga
|
Di tích Chùa Bắc Nga nằm tại
một quả đồi lớn thuộc thôn Bắc Nga, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn;
đã xếp hạng di tích cấp tỉnh.
Qua tích truyện lưu truyền
trong dân gian kể lại rằng: “Chuyện xưa lâu lắm! từ thủa người và tiên thường
gặp nhau trên trái đất, các tiên nữ trên trời thường rủ nhau bay về trần gian
vui chơi nơi có nhiều hoa thơm, cỏ lạ, có dòng sông Kỳ Cùng chảy quanh uốn lượn
theo triền núi xanh tươi. Sông kỳ cùng nơi này nước trong xanh thường có một
bầy tiên thường có một bầy tiên nữ về đây tắm mát rồi lên núi hái hoa, bắt bướm
vui đùa đến chiều tà mới rủ nhau bay về thượng giới. Trong vùng có một bà cụ
động thân thường hay lên núi hái củi. Một hôm giữa trưa nắng đẹp, bà tựa lưng
vào hốc đá hóng mát, bà cụ thiu thiu ngủ thì thấy một bầy tiên nữ múa hát trước
khoảng rừng trước mặt. Bỗng có một tiên tiến tới nói rằng: "Nơi đây đất
lành cảnh đẹp ta ở lại đây không về thượng giới nữa.." nói đoạn tiên nữ
quất dải lụa vào người bà, tỉnh dậy trong giấc mơ lành, bà cụ liền về nói lại
với dân làng, dân làng cũng cho biết thường xuyên thấy tiên nữ bay về khu rừng
ấy và cũng thường tắm ở khúc sông này. Với lòng tin ấy bà cùng mọi người góp
công, góp của vào xây dựng Miếu thờ tiên tại điểm đó. Với mong muốn tiên phù
hộ cho dân làng một cuộc sống bình an hạnh phúc và lấy ngày 15 tháng Giêng
hàng năm để làm Lễ hội chùa, mời tiên, mời Phật về phù hộ cho dân làng được
bình an hạnh phúc... sau này cũng có nhiều tiền nhân, công thần văn sĩ ngưỡng
mộ cảnh đẹp đã phát tâm, bỏ tiền dựng miếu thờ tiên, sau thành chùa thờ Tiên
rồi thờ Phật. Gọi là chùa Bắc Nga (Tiên Nga Tự)”.
|
|
14
|
Bến Tuần
|
Bến Tuần là tên gọi một điểm
di tích thuộc thôn Than Muội, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng. Bến Tuần là nơi
tuần tra của dân binh, binh sĩ trấn ải Chi Lăng, là nơi diễn ra các cuộc chiến
đấu chống kẻ thù xâm lược phương Bắc, bảo vệ đất nước và bảo vệ quê hương dân
tộc ta. Di tích Bến Tuần nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng được xếp hạng
di tích cấp Quốc gia.
|
|
15
|
Bó Tát
|
Di tích Bó Tát thuộc thôn Bó
Tát, xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn, nằm trong Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc
Sơn đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Nơi đây, ngày 25/9/1936,
dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hoàng Văn Thụ đã diễn ra sự kiện thành lập Chi
bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn, với 4 đảng viên là các đồng chí: Đường Văn Thông
(Đường Kỳ Tân) - bí thư, Hà Khai Lạc (Hoàng Doãn Tạo), Đường Văn Tư (Đường Quảng
Long), Nguyễn Mai Huyền (Nguyễn Văn Phòng).
|
|
16
|
- Cầu Trạm
- Phù Kiều
|
Cầu Trạm (còn gọi là cầu Phù
Kiều) bắc qua sông Thương. Cầu Trạm là 01 trong 24 điểm di tích, trong quần
thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt.
Theo truyền thuyết, cầu được
xây dựng hình cầu vồng, có mái ngói; làm bằng gỗ quý, cột, kèo, trụ cầu bằng
gỗ nghiến, lim được trạm trổ tinh vi. Mặt cầu, lan can cầu… bằng trầm hương
và lát hoa. Thành cầu ghép gỗ mít chạm trổ những bức tranh mang tinh thần thượng
võ hào khí của dân tộc. Cầu là nơi nơi diễn ra các hoạt động tưởng niệm những
người anh hùng, nghĩa sĩ đã hy sinh trong chiến đấu chống giặc phương Bắc,
nơi tổ chức lễ cầu hồn cho những người anh hùng và binh sĩ đã hy sinh nhân
ngày giỗ các anh hùng dân tộc có công với nước.
|
|
17
|
Cốc Lý
|
Di tích hang Cốc Lý (hang Gốc
Lý) thuộc tiểu khu Hoàng Văn Thụ, thị trấn Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn. Hang Cốc
Lý là một di tích danh thắng hang động đẹp và tự nhiên của huyện Bắc Sơn.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1930 - 1954) và đế quốc Mỹ xâm
lược (1955 - 1975), hang Cốc Lý là nơi đặt hòm thư liên lạc và nuôi giấu cán
bộ, nơi trú ẩn của bà con nhân dân thị trấn Bắc Sơn để tránh máy bay ném bom.
Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
18
|
Cốc Mười
|
Hang Cốc Mười là tên gọi một
điểm di tích thuộc thôn Na Han, xã Tri Phương, huyện Tràng Định. Đây là nơi
hoạt động bí mật của Chi bộ Phi Mỹ; nơi in ấn báo, tài liệu, truyền đơn, Nghị
quyết TW8 (5/1941) và là nơi hoạt động nghỉ ngơi của đồng chí Trường Chinh,
Hoàng Văn Thụ và một số đồng chí khác. Đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.
|
|
19
|
Cửa Dinh
|
Cửa Dinh: là 01 trong 24 điểm
di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Di tích cấp
Quốc gia đặc biệt.
Tương truyền đây là nơi giặc
Minh xây dựng thành lũy khoảng những năm 1407 - 1409 để chiếm đóng, kiểm soát
con đường độc đạo qua ải Chi Lăng và đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập
của nhân dân ta. Sau đó bị nghĩa quân Lê Lợi đánh chiếm để chuẩn bị cho trận
tiêu diệt viện binh của Liễu Thăng. Trong trận Chi Lăng, đây là nơi diễn ra
những trận quyết chiến chiến lược góp phần vào thắng lợi chung. Sau chiến thắng
Chi Lăng 1427 đây là nơi đặt quân đồn trú và nơi ở của các quan lại có trách
nhiệm trấn giữ Ải Chi Lăng.
|
|
20
|
Chi Lăng
|
Chi Lăng là tên Khu du kích
thuộc địa bàn 03 xã: Tĩnh Bắc, Tam Gia, Tú Mịch, huyện Lộc Bình, gồm 13 điểm
di tích (điểm Cái Tàn, Khau Chu, Tằm Pùng, Kéo Vèo, Khau Chài, Hua Trạng, Tẳng
Thần, Pò Nâm, Pò Khưa, Pò Mỏ xã Tĩnh Bắc; Khau Hai, Phạc Phiền, Khau Pầu).
Đây là một căn cứ kháng chiến vững chắc hỗ trợ đắc lực cho lực lượng vũ trang
của ta tấn công tiêu diệt địch trên tuyền mặt trận đường số 4. Với những
thành tích đặc biệt đã đạt được, Khu di tích Chi Lăng được Nhà nước tặng thưởng
huân chương quân công hạng Ba. Năm 2000, Nhà nước phong tặng danh hiệu anh
hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp cho nhân dân 3 xã: Tam Gia, Tĩnh Bắc,
Tú Mịch. Khu du kích Chi Lăng đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.
|
|
21
|
Cửa Đông
|
Là tên gọi cổng thành phía
Đông của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết:
Đoàn Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng
Đức thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn
Lạng Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm...Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi
cổng thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng
Sơn). Đền Cửa Đông thuộc phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Di tích thờ Thần
Sông gắn với tên gọi là “Quan Lớn Đệ Tam” hay “Quan Lớn Thoải Phủ”. Thể hiện
được ý chí của người dân Việt trong việc đắp đê ngăn lũ chống lại giặc thủy,
trồng lúa nước đem về mùa màng bội thu. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc
gia.
|
|
22
|
Cửa Tây
|
Là tên gọi cổng thành phía
Tây của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn
Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức
thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng
Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm... Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng
thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền
Cửa Tây nằm trên đường Trần Quang Khải, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn.
Thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Dựa trên những giai thoại của mảnh đất Xứ Lạng và
truyền thuyết Mẫu Liễu Hạnh gặp trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan ở Lạng Sơn) và
vị anh hùng dân tộc - nhà quân sự thiên tài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
người có công lao lớn trong việc ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông ở
thế kỷ XIII giữ vững nền độc lập của dân tộc. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc
gia.
|
|
23
|
Cửa Nam
|
Là tên gọi cổng thành phía Nam
của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn
Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức
thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng
Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm... Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng
thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền
Cửa Nam thuộc phố Cửa Nam, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Đền thờ Mẫu
(hệ tứ phủ) và thờ vọng Đức Thánh Trần (Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn).
Cùng với các đền: Cửa Đông, cửa Tây, cửa Bắc, đền cửa Nam có nhiệm vụ trấn giữ,
bảo vệ linh khí cho Thành cổ Lạng Sơn. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
24
|
Cửa Bắc
|
Là tên gọi cổng thành phía Bắc
của di tích thành cổ Lạng Sơn. Qua các tài liệu nghiên cứu cho biết: Đoàn
Thành Lạng Sơn tương truyền do Trương Phụ nhà Minh xây dựng, đến năm Hồng Đức
thứ 26 (1495) thành được sửa sang lại... đến năm Bính Tý (1756), đốc trấn Lạng
Sơn Mai Thế Chuẩn cho tu bổ thêm... Thành cổ Lạng Sơn có 4 cổng thành, Mỗi cổng
thành đều có 1 ngôi đền (là Đông, Tây, Nam, Bắc - tứ trấn thành Lạng Sơn). Đền
Cửa Bắc nằm trên đường Trần Nhật Duật, Phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn.
Thờ đức Trần Triều vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Người
đã có công 3 lần đánh tan quân Nguyên - Mông ở thế kỷ thứ 13) và đồng thời thờ
tín ngưỡng Mẫu (tục thờ Mẫu ở nước ta là một tín ngưỡng bản địa lấy việc tôn
thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở
cho con người). Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
25
|
Dã Nham
|
Di tích Cầu đá - Bia đá Dã
Nham thuộc thôn Bản Dạ, xã Bình Phúc, huyện Văn Quan. Cầu đá - Bia đá do một
viên quan người địa phương họ Hà là Hà Quốc Tán, xây dựng vào năm 1769. Cầu bắc
qua suối Khằm Ngàn, gồm có 03 trụ đá và 06 thanh đá bắc qua. Cầu có kích thước
dài 5m, rộng 2,3m và cao 2,5m. Bia đá được dựng cách cầu đá 50m về hướng Tây,
là một tấm bia 4 mặt (Cao 1,5m và mỗi cạnh là 0,48m). Bia tạc năm 1770
nội dung bia ghi lại năm xây dựng cầu và tên người hưng công xây dựng cầu.
Bia đá được xây dựng nhà bia và xây tường rào bảo vệ. Di tích đã được xếp hạng
di tích cấp tỉnh.
|
|
26
|
Dục Lắc
|
Di tích đình Dục Lắc thuộc xã
Bắc Quỳnh, huyện Bắc Sơn. Đình được xây dựng khoảng đầu thế kỷ XX, thờ Thành
Hoàng Làng họ Dương. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đình là
nơi hội họp tuyên truyền cách mạng. Ngày 26/9/1940 tại đình đã diễn ra cuộc họp
bí mật của các đồng chí lãnh đạo chi bộ xã Bắc Sơn quyết định phát động Nhân
dân tham gia đánh chiếm Đồn Mỏ Nhài. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
27
|
Đăng Mò
|
Thác Đăng Mò thuộc địa phận
huyện Bình Gia, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 90 km. Thác nằm ở vị trí cây số
11 trên đường quốc lộ 279 từ huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn đi huyện Na Rì, tỉnh
Bắc Kạn, là nơi tiếp giáp của ba xã vùng cao của huyện Bình Gia: Mông Ân, Thiện
Thuật và xã Hoàng Văn Thụ. Thác Đăng Mò còn được gọi là thác Mũi Bò, do phía
thượng nguồn có 2 dòng suối chảy cùng một hướng rồi nhập lại thành ngọn thác
này giống hình mũi bò; từ đỉnh thác tới chân thác ước chừng dài khoảng trăm
mét. Thác Đăng Mò được công nhận là điểm du lịch của tỉnh vào tháng 6/2020,
những năm qua thu hút rất nhiều du khách tham quan, dã ngoại.
|
|
28
|
Đông Quất
|
Đình Đông Quất thuộc thôn Khe
Bó, xã Cường Lợi, huyện Đình Lập. Đình Đông Quất có từ khoảng trước năm 1940,
thờ thành hoàng làng có tên Lô Văn Pạ (Lư Văn Pạ). Ngài là vị Thành Hoàng nổi
tiếng linh thiêng, thường “linh ứng” giúp Vua giữ nước, che chở cho Nhân dân
khỏi ma quỷ quấy nhiễu, mang lại mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi cho
Nhân dân.Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
29
|
Đồng Bụt
|
Di tích đình Đồng Bụt, thuộc
thôn Đồng Bụt, xã Yên Bình, huyện Hữu Lũng. Đình thờ Cao Sơn Đại Vương Khắc
Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần, Ngài là người có công lao to lớn
trong việc giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước, mang lại thái bình cho nhân dân.
Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
30
|
Đồng Lâm
|
Danh thắng Đồng Lâm thuộc địa
phận thôn Đoàn Kết, xã Hữu Liên, huyện Hữu Lũng. Là cánh đồng rộng mênh mông,
diện tích khoảng trên một trăm héc ta và được bao bọc xung quanh là núi non
xanh biếc, hùng vĩ; vị trí tọa lạc cách UBND xã Hữu Liên về phía Bắc khoảng
3km. Đồng Lâm bao gồm thung lũng rộng lớn và các dãy núi đá vôi bao bọc xung
quanh tạo thành một cánh đồng lòng chảo, với hệ thực vật phong phú và đa dạng.
Do chịu ảnh hưởng của khí hậu thiên nhiên, Đồng Lâm được nhìn nhận rõ rệt
theo hai mùa: mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 9 dương lịch) Đồng Lâm trở
thành một hồ nước bằng phẳng, có độ sâu trung bình từ 1m đến 4m. Mùa khô (khoảng
từ tháng 10 đến tháng 5 dương lịch): Đồng Lâm là một cánh đồng cỏ tự
nhiên rộng lớn, có độ dốc dần theo chiều Đông Bắc - Tây Nam, tổng chiều dài của
thung lũng khoảng 5km, chiều rộng trung bình từ 300 - 400m.
Danh thắng Đồng Lâm đã được
UBND tỉnh phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn năm 2019.
|
|
31
|
Hang Gió
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc thôn Sao Thượng B, xã Mai Sao, huyện Chi Lăng. Hang Gió là hang động đẹp
tự nhiên. Từ năm 1940 - 1944 thực dân Pháp cho phu, lính khai thác quặng chì
tại khu vực hang. Năm 1968 đế quốc Mỹ ném bom ác liệt xuống miền Bắc, hang
Gió là nơi cư trú, tránh bom của Nhân dân trong vùng. Di tích đã được xếp hạng
cấp Quốc gia.
|
|
32
|
Háng Van
|
Chợ Háng Van là di tích lịch
sử thuộc thôn Háng Van, xã Hội Hoan, huyện Văn Lãng. Háng Van là nơi ghi dấu
tội ác của giặc Pháp. Từ ngày 24/8/1943) chúng đã tiến hành cưỡng bức, dồn đồng
bào ở các làng, bản ở khu vực Hội Hoan về một địa điểm chung chợ Háng Van
thành một trại tập trung gọi là “căng” (trại Háng Van) để dễ bề cai trị.
Trong trại Háng Van chật chội, 200 gia đình với hơn 1.000 người từ già đến trẻ
đã phải sống trong cảnh chen chúc, cực khổ, thiếu thuốc chữa bệnh, bệnh dịch
tả hoành hành đã cướp đi 400 sinh mạng đồng bào trong trại. người chôn chung
cùng một hố (khu Lý Van) - còn một số khác chúng đem đi tù đày nơi khác. Di
tích lịch sử Chợ Háng Van đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
33
|
Hòn Ngọc
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc (núi Hòn Ngọc hay núi Tỷ Muội) thuộc thôn Than Muội, xã Quang Lang, huyện
Chi Lăng. Núi Hòn Ngọc là biểu tượng thiêng liêng, bất khuất của nghĩa quân Đại
Việt gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Tương truyền rằng,
xưa có hai chị em gái cùng lãnh đạo nghĩa binh chống quân xâm lược phương Bắc,
trong một trận chiến đấu ác liệt với kẻ thù, hai nàng đã hy sinh anh dũng tại
chiến trường Chi Lăng. Cảm thương nghĩa khí trung kiên của hai nàng, Nhân dân
đã đắp mộ chôn cất họ, sáng hôm sau mộ hai cô biến thành một ngọn núi độc lập
ở giữa cánh đồng vì vậy di tích còn có tên khác là núi Tỷ Muội (núi Hòn Ngọc).
Di tích Hòn Ngọc nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng được xếp hạng cấp Quốc
gia.
|
|
34
|
Kéo Lèng
|
Di tích hang Kéo Lèng thuộc
thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia. Di tích Hang Kéo Lèng là điểm di tích cổ
sinh của người Tiền sử. Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá khoa học, các nhà
nghiên cứu đã xác định được niên đại của di tích thuộc thời hậu Cánh Tân,
cách ngày nay khoảng 30.000 năm. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
35
|
Keng Tiếm
|
Di tích đèo Keng Tiếm thuộc
thôn Hồng Phong 4, xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn. Đây là một di tích lịch sử
ghi dấu sự kiện: trên đường rút chạy khoảng cuối năm 1940 thực dân Pháp đã bị
quân và dân địa phương mai phục chặn đánh, tại đây nghĩa quân đã tiêu diệt được
07 tên lính Pháp và thu được một số vũ khí, đạn dược của chúng. Di tích đã được
xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
36
|
Khánh Sơn
|
Di tích đền Khánh Sơn thuộc
phố Bờ Sông, thị trấn Lộc Bình, huyện Lộc Bình. Di tích được xây dựng vào khoảng
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đền thờ Mẫu Tam Phủ. Di tích đã được xếp hạng
cấp tỉnh.
|
|
37
|
Khau Bay
|
Di tích địa điểm lán Khau Bay
thuộc thôn Thuận Lợi, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng. Đây là địa điểm hoạt
động bí mật tại quê nhà của đồng chí Hoàng Văn Thụ trong những năm 1935
-1938. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
38
|
Khuôn Dầu
|
Di tích đền Khuôn Dầu thuộc
thôn Khuôn Dầu, xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng. Đền thờ vị nữ tướng Cao Sơn
Tiên Nữ họ Nguyễn. Truyền thuyết kể lại rằng ngày xưa vị nữ tướng Cao Sơn
Tiên Nữ họ Nguyễn cầm quân đánh giặc đã đến đóng quân tại làng Khuôn Dầu. Sau
khi đánh đuổi được giặc ngoại xâm, cảm kích trước công lao to lớn và tấm lòng
của vị nữ tướng, Nhân dân trong vùng đã lập đền phụng thờ vị Nữ tướng trên ngọn
núi cao nhất của thôn. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
39
|
Khuôn Khát
|
Di tích làng Khuôn Khát thuộc
thôn Minh Tiến, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn. Năm 1941, thực dân Pháp huy động một
lực lượng lớn càn quét vào xã Vũ Lễ. Tại làng Khuôn Khát chúng đã phá hủy
hoàn toàn 16 ngôi nhà của đồng bào Dao sinh sống tại đây, tất cả mọi người
trong làng đều bị bắt, tra tấn tàn ác rồi giết chết, chỉ duy nhất có một người
đã trốn thoát được. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
40
|
- Khuổi Slao
- Bông Lau
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc đoạn đèo trên Quốc lộ 4A thuộc địa phận xã Chi Lăng, huyện Tràng Định.
Nơi đây, ngày 30/10/1947, Tiểu đoàn 249 thuộc Trung đoàn 28 bộ đội chủ lực Lạng
sơn và Đại đội bộ đội địa phương huyện Tràng Định đã phục kích chặn đánh đoàn
xe vận tải của thực dân pháp tiếp tế phương tiện chiến tranh cho các cứ điểm
trên đường 4. Quân ta phá hủy 27 xe cơ giới, diệt 94 lính Âu Phi, 55 lĩnh ngụy,
bắt 101 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Đây là một
trận đánh hiệp đồng tập trung tiêu diệt sinh lực địch, góp phần đánh bại cuộc
chiến công lên Việt Bắc thu đông năm 1947 của thực dân Pháp. Di tích đã được
xếp hạng Cấp Quốc gia.
|
|
41
|
Khum Nặm
|
Bãi đất Khum Nặm thuộc thôn
Khòn Mới, xã Bình Phúc, huyện Văn Quan. Di tích là một Bãi đất bằng phẳng, rộng
khoảng 200m2, giữa thôn Khòn Mới, xung quanh là nhà dân và rặng
tre bao bọc.
Tháng 10/1945 Tỉnh ủy lâm thời
và Tỉnh bộ Việt Minh lâm thời Lạng Sơn đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại
đây. Mỗi đoàn đều có cờ đỏ, sao vàng, băng rôn khẩu hiệu: “Ủng hộ Mặt trận Việt
Minh”, “Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh”. Tại cuộc mít tinh này, Tỉnh ủy đã long
trọng tuyên bố UBND lâm thời Tỉnh Lạng Sơn đã được thành lập do đồng chí Lô
Quang Nam làm chủ tịch. Di tích đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.
|
|
42
|
Kỳ Cùng
|
Di tích đền Kỳ Cùng thuộc Khối
1, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng từ trước năm 1783,
theo kiến trúc chữ Đinh. Đền Kỳ Cùng (tên chữ là Kỳ Cùng Đại Vương từ) hay
còn có tên gọi khác là đền thờ Quan lớn Tuần Tranh là di tích có từ lâu đời
và mang nhiều dấu ấn văn hóa, tín ngưỡng của dân bản địa. Di tích đã được xếp
hạng cấp Quốc gia.
Kỳ Cùng là tên con sông chính
ở tỉnh Lạng Sơn. Sông Kỳ Cùng đoạn chảy trên đất Việt Nam dài khoảng 243km.
Đây là con sông duy nhất ở miền Bắc Việt Nam chảy ngược. Bắt nguồn từ vùng
núi Bắc Xa cao 1.166m thuộc huyện Đình Lập, sông Kỳ Cùng chảy theo hướng Đông
Nam-Tây Bắc qua TP. Lạng Sơn. Khi cách thành phố khoảng 22km, sông bất ngờ đổi
dòng chảy nghiêng về hướng Nam - Bắc tới thị trấn Na Sầm (huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn) rồi lại đổi hướng thành Đông Nam - Tây Bắc trước khi rẽ sang hướng
Đông ở gần thị trấn Thất Khê (huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn). Từ Thất Khê,
sông chảy gần như theo đường vòng cung, cho tới khi vượt biên giới sang Trung
Quốc để hợp lưu với sông Bằng Giang tại thị trấn Long Châu (Quảng Tây, Trung
Quốc).
|
|
43
|
Lạo Pảo
|
Di tích hang Lạo Pảo thuộc
thôn Còn Cóoc, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc. Di tích là địa điểm hoạt động
kín đáo của quân và dân ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tại đây ngày
15/6/1947 Chi bộ đảng đầu tiên của xã Bình Trung được thành lập. Di tích đã
được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
44
|
Lân Áng
|
Di tích thuộc thôn Nông Lục,
xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn. Đây là nơi đồng chí Hoàng Văn Hán đã hoạt động bí
mật trong thời gian từ năm 1941 - 1944. Do sự chỉ điểm của tay sai bán nước đồng
chí đã bị thực dân Pháp bắt, giết hại tại Lân Áng. Di tích đã được xếp hạng cấp
Quốc gia.
|
|
45
|
Lân Giao
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc thôn Đồng Ngầu, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Lân Giao là nơi tập kết và
luyện tập chuẩn bị cho trận phục binh nổi tiếng của quân ta vào mùa thu năm
1427. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di
tích cấp Quốc gia đặc biệt.
|
|
46
|
Lân Lắc
|
Di tích bãi Lân Lắc thuộc xã
Bắc Quỳnh, huyện Bắc Sơn. Bãi Lân Lắc là địa điểm ghi dấu thời kỳ hoạt động của
nghĩa sĩ Hoàng Đình Kinh (cuối thế kỷ XIX) và quân dân du kích Bắc Sơn, các
chiến sĩ cách mạng cùng chống Pháp. Năm 1885 - 1886 nghĩa quân Hoàng Đình
Kinh lập căn cứ chống Pháp. Đây là nơi học tập chính trị và luyện tập quân sự
của các chiến sĩ cách mạng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
47
|
Lùng Yêm
|
Di tích hang Lùng Yêm thuộc
thôn Phai Rọ, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan. Đây là di chỉ khảo cổ thuộc vào thời
kỳ hậu kì đá mới; Tại đây đã tìm thấy một số đốt sống cá, các mảnh gốm, một dấu
Bắc Sơn. Đồ gốm có loại bụng lồi, mép miệng gập xuống; có loại miệng bát,
thành mỏng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
48
|
Ngõ Thề
|
Lũy Ngõ Thề là tên một điểm
di tích thuộc thôn Ba Đàn, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Tương truyền: Trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên nghĩa quân ta đã cắt máu ăn thề quyết tâm
tiêu diệt quân giặc. Từ đó, hẻm núi được gọi là nơi thề (Ngõ Thề). Di tích nằm
trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đặc
biệt.
|
|
49
|
Khuổi Nọi
|
Di tích Khuổi Nọi, Thôn Tam Tấu,
xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn. Tại đây, ngày 23/02/1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ - Ủy
viên Thường vụ Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ đã phổ biến Nghị quyết của
Trung ương, đổi tên Đội Du kích Bắc Sơn thành Cứu Quốc quân. Đội cứu quốc
quân Bắc Sơn chính thức được thành lập. Di tích Khuổi Nọi thuộc Khu di tích lịch
sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc
biệt.
|
|
50
|
Lạng Nắc
|
Di tích hang Lạng Nắc thuộc
thôn Lạng Nắc, xã Mai Sao, huyện Chi Lăng. Di tích hang Lạng Nắc có ý nghĩa
trong việc nghiên cứu cuộc sống người tiền sử. Bộ sưu tập di vật phát hiện tại
đây mang các yếu tố văn hóa Bắc Sơn cho đến văn hóa Mai Pha. Di tích đã được
xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
51
|
Lân Pán
|
Tại Lân Pán (huyện Bắc Sơn),
ngày 23/6/1941 Đoàn cán bộ Trung ương do đồng chí Trường Chinh dẫn đầu đi dự hội
nghị Trung ương 8 trở đã dừng chân ở đây một thời gian để chỉ đạo phong trào
cách mạng Bắc Sơn. Truyền đạt nội dung nghị quyết Trung ương 8 và đường lối đấu
tranh của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cho cán bộ đảng
viên huyện Bắc Sơn. Di tích Lân Pán thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc
Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.
|
|
52
|
Lân Táy
|
Nơi đây, ngày 12/7/1941 đồng
chí Tổng bí thư Trường Chinh và đồng chí Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Văn Thụ đã
chỉ đạo đội cứu quốc quân và Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn thực hiện Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 của Đảng. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống phát xít
Nhật và thực dân Pháp đấu tranh giải phóng dân tộc. Di tích Lân Táy thuộc Khu
di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp
Quốc gia đặc biệt.
|
|
53
|
Lũng Phầy
|
Là tên gọi một điểm di tích nằm
trên Quốc lộ 4A - Xã Chí Minh, huyện Tràng Định. Trong suốt 4 năm (1947 -
1950) địa điểm Bông Lau - Lũng Phầy đã diễn ra hàng chục trận đánh lớn nhỏ,
gây cho quân Pháp nhiều tổn thất nặng nề, góp phần đập tan âm mưu đánh chiếm
Việt Bắc của thực dân Pháp. Di tích Lũng Phầy thuộc khu Di tích lịch sử Đường
số 4 đã được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
54
|
- Lũng Vài
- Bó Củng
|
Là 02 điểm di tích trên đường
quốc lộ số 4A thuộc xã Trùng Quán nay là xã Bắc Hùng, huyện Văn Lãng. Tại 2
điểm này ghi dấu sự kiện ngày 18/01/1948 quân và dân địa phương đã phối hợp
tác chiến với bộ đội chủ lực đã phục kích chặn đánh một đoàn xe vận tải của
quân Pháp trên đoạn đường Bó Củng, Lũng Vài, đã phá huỷ 4 xe quân sự, tiêu diệt
gần 2 trung đội của địch, thu nhiều vũ khí. Chiến thắng Bó Củng, Lũng Vài đã
gây tiếng vang lớn trên mặt trận đường số 4, khích lệ tinh thần chiến đấu của
quân và dân Lạng Sơn trên khắp các chiến trường. Di tích lịch sử Lũng Vài, Bó
Củng đã được phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích theo Quyết định số
73/QĐ-UBND ngày 10/01/2019 của UBND tỉnh Lạng Sơn.
|
|
55
|
Ma Sẳn
|
Núi Ma Sẳn: là 01 trong 24 điểm
di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng - đã được xếp hạng Di tích
Quốc gia đặc biệt. Núi Ma Sẳn là 1 trong 5 quả núi nhỏ, nằm trong hệ thống
lũy nối giữa các quả núi này tạo nên thế hiểm yếu trong lòng ải Chi Lăng.
Phía trước và sau núi hiện vẫn còn lại những đoạn lũy hào nối giữa Núi Ma Sẳn
với Núi Phượng Hoàng.
Trong trận đồ Chi Lăng năm
1427, núi Ma Sẳn là nơi quân ta bố trí mai phục đạo quân do Liễu Thăng chỉ
huy. Khi đội kỵ binh tiên phong 100 tên do Liễu Thăng cầm đầu bị tiêu diệt ở
khu vực đầm lầy - núi Mã Yên thì cụm quân bộ gồm 01 vạn tên cũng tiến về cửa
Hàm Quỷ, quân ta mai phục ở núi Ma Sẳn và các núi xung quanh nhất tề xông ra
tiêu diệt địch khiến tàn quân không dám tiến về Mã Yên nữa mà phải quay lại cầu
cứu hậu đội.
|
|
56
|
Mã Yên
|
Là tên gọi một điểm di tích thuộc
thôn Làng Cằng, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Là một địa điểm lịch sử quan trọng
gắn liền với chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang, tại đây quân ta đã tiêu diệt
viện binh giặc Minh năm 1427, giải phóng nước ta khỏi ách đô hộ phong kiến
phương Bắc. Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng
Khu Di tích Quốc gia đặc biệt
|
|
57
|
Mẫu Sơn
|
Là tên gọi một khu di tích
danh thắng thuộc xã Mẫu Sơn, xã Công Sơn, huyện Lộc Bình, xã Mẫu Sơn, huyện
Cao Lộc. Đây là một dãy núi cao chạy theo hướng Đông-Tây, nằm ở phía Đông Bắc
tỉnh Lạng Sơn thuộc địa phận chính của 3 xã: Mẫu Sơn, Công Sơn huyện Cao Lộc
và xã Mẫu Sơn huyện Lộc Bình, của tỉnh Lạng Sơn. Trung tâm dãy núi, (khu du lịch
hiện tại) cách thành phố Lạng Sơn 30 km theo đường bộ về phía đông. Đầu phía
đông dãy núi giáp với biên giới Việt - Trung. Đây là dãy núi có địa hình và hệ
sinh thái vùng núi cao ngoạn mục và đa dạng. Độ cao trung bình của dãy núi từ
800 - 1.000 m so với mực nước biển, với trên 80 ngọn núi lớn nhỏ cao từ 600 m
trở lên. Đỉnh Phjia Pò (Công Sơn) cao 1.541 m, cao nhất vùng Đông Bắc Bắc bộ
(Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh). Mẫu Sơn là một dãy núi tự nhiên, nơi đây
có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên sơn thủy hữu tình, là địa điểm du lịch sinh
thái lý tưởng cho du khách đến thăm quan Xứ Lạng. Di tích đã được xếp hạng cấp
tỉnh.
|
|
58
|
Mỏ Nhài
|
Là tên gọi của một di tích
thuộc thôn Mỏ Nhài, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn. Tại đây, ngày 27/9/1940 Đảng bộ
Bắc Sơn đã lãnh đạo Nhân dân và quân khởi nghĩa tấn công vào Đồn, mở đầu cho
phong trào khởi nghĩa, đấu tranh vũ trang để giải phóng quê hương. Di tích Mỏ
Nhài thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được
xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.
|
|
59
|
Mỏ Rẹ
|
Hang Mỏ Rẹ là nơi hoạt động
bí mật của các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ và là nơi diễn ra cuộc chiến đấu
ác liệt của các đồng chí Dương Thần Tần Hoàng Đình Ruệ, Nguyễn Cao Đàm, Dương
Quốc Vinh phá vòng vây của địch ngày 28/8/1941. Di tích Mỏ Rẹ thuộc Khu di
tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc
gia đặc biệt.
|
|
60
|
Minh Đán
|
Thôn Minh Đán nằm trong thung
lũng được bao quanh bởi dãy núi đá vôi Co Lầu và dãy núi Sa Cướm toàn thôn có
diện tích 18ha. Ngày 01/10/1940, thực dân Pháp huy động lực lượng tiến vào địa
bàn trung tâm cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, chúng đã đốt cháy 14 ngôi nhà tại Làng
Minh Đán. Di tích Minh Đán đã được xếp hạng di tích quốc gia.
|
|
|
|
61
|
Nà Kheo
|
Là tên gọi gắn liền với di
tích đồi Nà Kheo, thôn Nam Hương 1, xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn. Nơi đây,
ngày 25/5/1938 dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ mà trực tiếp là đồng chí
Hoàng Văn Thụ ủy viên thường vụ Trung ương Đảng đã diễn ra một cuộc hội nghị
gồm phần lớn là các Bí thư chi bộ ở các xã. Hội nghị đã bầu ra Ban cán sự
Châu ủy Bắc Sơn gồm 07 đồng chí: Lê Xuân Thụ, Đường Văn Thất, Hoàng Đình Ruệ,
Dương Thần Tần, Lương Đình Sơn, Hoàng Việt Thành, Dương Văn Tạch. Đồng chí Lê
Xuân Thụ được bầu giữ chức vụ Bí thư Châu ủy. Di tích Nà Kheo thuộc Khu di
tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc
gia đặc biệt.
|
|
62
|
Nà Ngụm
|
Di tích hang Nà Ngụm thuộc
thôn Làng Giao, xã Bằng Hữu, huyện Chi Lăng. Di tích là một hang đá tự nhiên
nằm ở lưng chừng núi, trong thời kỳ những năm kháng chiến chống Pháp hang Nà
Ngụm là căn cứ tập quân sự của du kích ta. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
63
|
Nông Lục
|
Là tên gọi gắn liền với di
tích Đình Nông Lục, thôn Nông Lục 2, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, tối ngày
26/9/1940 đã diễn ra cuộc họp của các đồng chí đảng viên Châu ủy Bắc Sơn và một
số đồng chí đảng viên chi bộ các xã Hưng Vũ, Bắc Sơn…quyết định phát động khởi
nghĩa, thành lập Ban chỉ đạo Khởi nghĩa Bắc Sơn, xây dựng kế hoạch tiến đánh
Đồn Mỏ Nhài ngày 27/9/1940 để giành chính quyền về tay Nhân dân. Di
tích Đình Nông Lục thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm
di tích, đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.
|
|
64
|
Nhàn Tằm
|
Di tích Nhàn Tằm thuộc xã
Công Sơn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích đã được công nhận là di tích
cấp tỉnh.
Di tích Nhàn Tằm là điểm tựa,
căn cứ hoạt động và tập kết an toàn của du kích Ba Sơn trong những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp. Trong những cuộc kháng chiến đố, quân dân du kích
Ba Sơn đã lập những chiến công xuất sắc với 72 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt
và bắt sống hàng trăm tên địch, uy hiếp, khống chế và làm tê liệt hàng chục cứ
điểm, chia cắt và làm chủ điều địa bàn xung yếu góp phần quan trọng cùng quân
và dân trong tỉnh giải phóng quê hương.
|
|
65
|
Ngườm Thẳm
|
Di tích Hang Ngườm Thẳm thuộc
thôn Còn Riềng, xã Tràng Phái, huyện Văn Quan. Trong thời kỳ chống Mỹ xâm lược,
Ngườm Thẳm là nơi ẩn náu, nơi che dấu cán bộ cách mạng, là nơi che chở cho
dân làng tránh khỏi bom đạn của đế quốc Mỹ. Trong những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hang Ngườm Thẳm là một căn cứ cách mạng quan trọng
của huyện Văn Quan, là nơi diễn ra các cuộc họp quyết định vào sự thắng lợi
to lớn của quân và dân ta thời kỳ đó. Hang ở lưng chừng núi, cách chân núi
khoảng 30m. Đây là một hang động tự nhiên, có độ sâu và rộng, có nhiều nhũ đá
với hình thù sinh động. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
66
|
Pác Yếng
|
Di tích đình Pác Yếng thuộc
thôn Pác Yếng, xã Đồng Ý, huyện Bắc Sơn. Di tích Đình Pác Yếng được xây dựng
đầu thế kỷ XX thời Vua Bảo Đại năm 1932, Đình do nhân dân đóng góp xây dựng,
đình thờ vị Thành hoàng “Cao Sơn Quý Minh”. Di tích đã được xếp hạng cấp
tỉnh.
|
|
67
|
Pò Chầu
|
Di tích địa điểm đồi Pò Chầu
thuộc thôn Nặm Slim, xã Hồng Phong, huyện Bình Gia. Đây là nơi ghi dấu sự kiện
ngày 05/5/ 1945, phát xít Nhật kéo quân vào tập kích căn cứ cách mạng của ta.
Chúng bao vây làng Nặm Slim để truy bắt đồng chí Lê Huyền Trang, không bắt được,
chúng đàn áp, tra khảo nhân dân và đốt phá làng. Di tích đã được xếp hạng cấp
tỉnh.
|
|
68
|
Pò Deng
|
Đồi Pò Deng thuộc thôn Phai Rọ
- Lùng Mán, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan. Di tích là một bãi đất rộng, là nơi
ghi dấu sự kiện, ngày 01/5/1946, Chi bộ Đảng đầu tiên của Đảng bộ Điềm He được
thành lập tại nơi đây, đồng chí Phương Đình Slừ (Tức Nhạc Sơn) làm bí
thư, cùng các đảng viên: Phương Nháy (Tức Hoan Cảnh), Nông Văn Chính (Tức
Trung Thành). Việc thành lập Chi bộ Đảng của huyện đánh dấu phát triển mới
của phong trào quần chúng huyện Điềm He nói chung và của các xã thuộc Tổng
Tràng Phái nói riêng. Địa điểm Pò Deng nằm cách trụ sở UBND xã Tân Đoàn 400m,
cách đường tỉnh lộ đi Điềm He, Pác Ve 100m. Tại địa điểm Pò Deng đã được xây
dựng 1 khu tưởng niệm có bia ghi dấu sự kiện. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
69
|
Pò Đồn
|
Pò Đồn là di tích thuộc huyện
Bình Gia, đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Khi thực dân Pháp xâm lược đã
xây dựng căn cứ địa tại đây. Pò Đồn là một khu đồi cao, có thể quan sát được
toàn bộ thị trấn Bình Gia. Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 19/4/1945, quân dân ta
đã vùng lên đập tan chế độ cai trị của thực dân Pháp tại châu Bình Gia, cắm
ngọn cờ cách mạng tại khu đồi này.
|
|
70
|
Pò Háng
|
Di tích đình Pò Háng thuộc
thôn Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập. Đình có từ khoảng trước năm 1940,
thờ thành hoàng làng. Ngày 14/4/1945 các đội tự vệ chống Phỉ giữ làng do các
cụ cao niên đứng lên kêu gọi đã làm lễ uống máu ăn thề tại Đình Pò Háng và
thôn Ba La. Đây là hành động tiên phong và lan rộng đến nhiều xã lân cận. Di
tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
71
|
Phai Cam
|
Di tích đình Phai Cam thuộc
khối phố 5A, thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia. Đình thờ Hảo Sơn Đại Vương
tên húy là Nguyễn Khắc Loan và 04 người con của Ngài đều là những người có
công được nhân dân suy tôn là thành hoàng. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
72
|
Phai Sa
|
Di tích hang Phai Sa thuộc
thôn Đơn Xa, xã Hòa Bình, huyện Chi Lăng. Hang Phai Sa là một hang đá tự
nhiên khá rộng nằm trong núi đá Phai Sa. Năm 1924 di tích đã được nhà khảo cổ
học người Pháp tên là H.ManSuy thám sát, khai quật và đã thu được một số hiện
vật khảo cổ. Năm 1925 ông cho công bố kết quả khai quật và khẳng định hang
Phai Sa là một di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hóa Bắc Sơn. Di tích đã được
xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
73
|
Phia Điểm
|
Hang Phia Điểm là một di tích
khảo cổ học cấp quốc gia. Di chỉ núi Phia Điểm thuộc thôn Kéo Khoác, xã Yên
Trạch, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Hang Phia điểm nằm trong một quả núi sót
có tên gọi tùng tên là núi Phia Điểm, xung quanh núi là dãy đồi bao bọc có
các điểm cách xa khác nhau chỗ gần nhất là 300m, chỗ xa nhất là 1000m. Di
tích khảo cổ học hang Phia Điểm được phát hiện vào tháng 1/1998 và được khai
quật vào tháng 4/1998 với sự tham gia của các cán bộ Viện Khảo cổ học và Bảo
tàng Tổng hợp Lạng Sơn. Sau khi khai quật xong, di chỉ đã để lại nhiều di vật
đặc biệt quý hiếm, có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu lịch sử loài người,
đặc biệt lại là ở một tỉnh miền núi vùng đông bắc của Tổ quốc
- Địa điểm khảo cổ học Phia
Điểm là một quả núi đá vôi dạng sót đứng độc lập tại thung lũng Yên Trạch,
tháng 4 năm 1998. Tại Hang Phia Điểm đã thám sát và đến 12/1998 Bảo Tàng
TH.LS đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật. Tại địa
điểm này đã thu thập được nhiều di vật, hiện vật: rìu, bôn, gốm, xương dấu Bắc
Sơn… theo các nhà khảo cổ học nhận định đây là một điểm di chỉ hậu kì đá mới
- Sơ kì kim khí. Là cầu nối của Văn hoá Bắc Sơn với Văn hoá Mai Pha.
|
|
74
|
Phja Thình
|
Ngày 24 tháng 8 năm 1945, tại
hang Phja Thình, thôn Phai Rọ, xã Vân Nham (Nay là xã Tân Đoàn), huyện
Văn Quan, đồng chí Phan Minh Tuệ đặc phái viên của Trung ương Đảng và các đồng
chí lãnh đạo Tỉnh ủy lâm thời, Tỉnh bộ Việt Minh lâm thời đã tiến hành cuộc họp
để quyết định ngày giải phóng tỉnh Lạng Sơn. Đây cũng là một di tích khảo cổ.
Các di vật tìm thấy trong hang gồm: ốc ruộng, ốc suối, ốc biển, mảnh tước, mảnh
rìu, mảnh gốm, xương răng di cốt người và động vật… Di tích đã được xếp hạng
cấp tỉnh.
|
|
75
|
Phja Thạng
|
Di tích Hang Phja Thạng thuộc
xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan. Hang ở lưng chừng núi Phja Thạng, đường lên xuống
hang rất khó khăn. Năm 1923, bà M.Colani (Nhà KCH người Pháp) đã đào
thám sát nhỏ thu thập được nhiều vỏ ốc suối, mảnh tước, rìu có vai và đồ gốm.
Năm 1993, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Lạng Sơn và Viện KCH Việt Nam cũng đã lên
thám sát hang và cũng thu thập được một số di vật: Ốc suối, đá công cụ... và
đồ gốm. Di tích là một hang đá tự nhiên nằm trên lưng chừng núi. Hang sâu
25m, có độ dốc khoảng 15° cao dần từ ngoài vào trong, trần thấp, đáy có lớp
trầm tích lắng đọng khá cứng. Di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết
định số 700/QĐ-BVHTTDL ngày 20/3/2023.
|
|
|
|
76
|
Phú Vị
|
Di tích đền Phú Vị thuộc thôn
Phú Vị, xã Hồ Sơn, huyện Hữu Lũng. Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam cùng hệ thống thờ tự
của Đạo Mẫu Tam Phủ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
77
|
Quán Thanh
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc thôn Quán Thanh, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Theo dân gian truyền lại,
đây nguyên là địa điểm một quán nước của quân ta ngụy trang để dò la tin tức
của địch,... là nơi mà xứ bộ của ta và Trung Quốc thường dừng chân nghỉ
ngơi... Di tích Quán Thanh nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng được xếp hạng
cấp Quốc gia.
|
|
78
|
Quỳnh Sơn
|
Di tích đình Quỳnh Sơn thuộc
xã Bắc Quỳnh, huyện Bắc Sơn. Đình được xây dựng từ thời nhà Lý, thờ Dương Tự
Minh hiệu là Quý Minh Đại Vương. Người có công lớn trong cuộc chinh chiến chống
quân xâm lược nhà Tống, giữ vững biên cương phía Bắc của nước Đại Việt đầu thế
kỷ XII. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
79
|
Rộc Mạ
|
Di tích Hang Rộc Mạ thuộc
thôn Bản Dạ, xã Bình Phúc, huyện Văn Quan. Đây là nơi hai lần tổ chức sự kiện
Đại hội Đảng bộ huyện Điềm He (Nay là huyện Văn Quan): Lần thứ nhất
tháng vào tháng 10/1947 và lần thứ hai vào tháng 7/1949. Trong những năm
kháng chiến chống Pháp, Mỹ và chiến tranh biên giới hang Rộc Mạ là kho đạn dược
vũ khí của bộ đội công binh. Hang Rộc Mạ còn là di tích Khảo cổ học được người
Pháp phát hiện và công bố vào đầu thế kỷ XX. Hang Rộc Mạ có phần cửa rộng,
vòm cao khoảng 20m. Tại đây quân đội ta xây tường đá bao quanh tạo tường
thành khá lớn trong hang. Phía trong gần cửa hang được san bằng, láng nền và
xây bậc khá bằng phẳng. Trong lòng hang có nhiều ngõ ngách và nhũ đá. Di tích
đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
80
|
Sa Khao
|
Di tích Sa Khao, Thôn Nam
Hương xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, ngày 14/10/1940, đã diễn ra cuộc
họp của xứ uỷ Bắc Kỳ dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Đăng Ninh đã quyết định
thành lập Đội du kích Bắc Sơn và xây dựng khu căn cứ du kích Bắc Sơn. Di tích
Sa Khao thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc
gia đặc biệt.
|
|
81
|
Tả Phủ
|
Di tích đền Tả Phủ thuộc Khối
4, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng khoảng cuối thế
kỷ XVII, thờ vị quan thời Hậu Lê là Thân Công Tài- từng giữ chức Tả Đô Đốc
Hán Quận Công người có công mở mang phố phường, giao lưu buôn bán. Ông là người
đã đề xướng và cho khởi công xây dựng khu đất ven sông Kỳ Cùng thành 7 con đường,
rồi lập 7 phố phường cho nhân dân hai nước Việt - Trung giao lưu buôn bán, đó
chính là phố chợ Kỳ Lừa ngày nay. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
82
|
Tam Canh
|
Di tích Đèo Tam Canh, thôn
Lân Luông, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn. Nơi đây, ngày 23/9/1945 quân du kích
Bắc Sơn đã phục kích và tiêu diệt 7 tên lính Nhật thu nhiều vũ khí, quân
trang, quân dụng của địch. Chiến công này đã góp phần đập tan âm mưu mở rộng
vùng chiếm đóng của phát xít Nhật ở Lạng Sơn. Di tích Tam Canh thuộc Khu di
tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt.
|
|
83
|
Tu Lầm
|
Di tích Hang Tu Lầm là một
hang đá tự nhiên thuộc xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích
Hang Tu Lầm đã được công nhận là di tích cấp tỉnh. Hang Tu Lầm là địa điểm khảo
cổ được phát hiện khá muộn tại xã Bình Trung. Do nằm trên núi cao nên bề mặt
hang còn khá nguyên vẹn và không bị xáo trộn. Di tích Hang Tu Lầm sau khi đã
được khảo sát và đào thám sát hai lần đã cho thấy tầm quan trọng về mặt khoa
học khảo cổ của di tích, hang vừa mang đậm giá trị lịch sử, cổ sử (thời Tiền
sơ sở - Tiền sử..) do vậy hang cần được giữ nguyên hiện trạng di tích và bảo
quản thật tốt cho việc nghiên cứu sau này.
|
|
84
|
Thạch Khuyên
|
Làng phòng thủ Thạch Khuyên
là một địa điểm nằm trong di tích lịch sử cách mạng Ba Sơn (huyện Cao Lộc), được
UBND tỉnh Lạng Sơn công nhận là di tích cấp tỉnh.
Làng Thạch Khuyên (Làng Phòng
Thủ Khuyên Hin) thuộc thôn Thạch Khuyên, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn. Đây là làng phòng thủ của người Nùng ở xã Xuất Lễ. Làng được xây dựng
vào đầu thế kỷ XIX (1825). Làng Thạch Khuyên trải qua một thời gian dài hình
thành và phát triển cho tới nay cho thấy sự "Kết nối cộng đồng" của
đồng bào dân tộc Tày, Nùng của huyện Cao Lộc nói riêng và tỉnh Lạng Sơn nói
chung. Làng mang tính chất là Làng phòng thủ (chống Phỉ, giặc cướp,...) nhưng
cũng là một làng có kiến trúc xây dựng đặc biệt ít nơi khác có (tường làng
cao xây dựng bằng đá hộc vững chắc, nhà ở trình đất, có 3 lớp cửa và các phần
hiên, đầu hồi đều có lỗ châu mai, các đường lối đi lại trong làng thống nhất với
nhau, tất cả chỉ trong một vành đai "Nội bất xuất, ngoại bất nhập").
Trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, làng Thạch Khuyên là một địa
điểm hoạt động, học tập của du kích Ba Sơn.
|
|
85
|
Thanh Hương
|
Di tích chùa Thanh Hương
(chùa Tà Lài) thuộc thôn Tà Lài, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng. Chùa Thanh Hương
đã thể hiện rõ được sự phối thờ: “Tiền Thánh - Hậu Phật”, Chùa gồm 2 gian,
gian ngoài thờ Mẫu, gian trong thờ Phật. Gian thờ Phật (Cung Tam Bảo) nằm ở
phía trên cao trong cùng của hang đá, kiến trúc gian thờ Mẫu được xây dựng
theo kiểu chữ Nhất (-) cạnh cửa hang. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
86
|
Thành Bầu
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc thôn Quán Bầu, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Thành được xây dựng vào thời
Lê, để phục kích đánh giặc phương Bắc tràn qua Chi Lăng. Trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh, Thành Bầu là nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt, tiêu diệt được
nhiều sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn năm 1427.
Di tích nằm trong Khu di tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Khu Di tích
Quốc gia đặc biệt.
|
|
87
|
Thành Kho
|
Là tên gọi một điểm di tích
thuộc thôn Ba Đàn, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Đây vốn là địa điểm dự trữ
quân lương của quân đội ta trong thời kỳ phong kiến. Di tích nằm trong Khu di
tích lịch sử Chi Lăng, đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.
|
|
88
|
Thành Trong
|
Thành Trong: là 01 trong 24
điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Di
tích Quốc gia đặc biệt.
Di tích Thành Trong nằm trên
một vườn rộng, ven quốc lộ 1A cũ, cạnh dãy núi Mặt Quỷ, cách di tích Ải Chi
Lăng khoảng 800m. Dấu tích hiện còn là một khoảng đất rộng khoảng 300m2,
tương đối bằng phẳng, xung quanh hiện còn dấu vết của hệ thống hào.Quan sát
trên thực địa, có thể thấy rõ dấu tích của mặt thành hiện còn, được đắp bằng
đất cao hơn so với xung quanh khoảng 1m. Phía dưới chân thành hiện còn hệ thống
hào, mặc dù đã bị lấp, thu hẹp do cây cối mọc và rác thải lâu năm, thu hẹp hiện
vẫn còn rộng khoảng 1,5 - 2m.
|
|
89
|
Thâm Thôong
|
Di tích Thâm Thôong - Dập Dị,
nơi đây trong hai ngày 27 và 28/9/1940, quân khởi nghĩa Bắc Sơn đã phục kích
chặn đánh tàn binh Pháp, tiêu diệt 1 tên quan ba, 4 tên lính Pháp. Di tích
thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc gia đặc
biệt.
|
|
90
|
Thẩm Khuyên
|
Di tích hang Thẩm Khuyên nằm ở
thôn Còn Nưa, xã Tân Văn, huyện Bình Gia, đây là một di tích khảo cổ, cổ sinh
được đánh giá là có giá trị đặc biệt quan trọng. Năm 1965 các nhà khảo cổ học
tiến hành khai quật di chỉ đã thu thập được nhiều hóa thạch xương, răng, hộp
sọ của một số loài động vật và một số răng của người vượn Homo Erectus, vượn
khổng lồ Gigantopithecus, có niên đại cách ngày nay khoảng 475.000 năm. Việc
phát hiện di cốt người vượn tại di chỉ Thẩm Khuyên là bằng chứng thuyết phục
về sự xuất hiện đầu tiên của con người trên đất nước Việt Nam. Di tích đã được
xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
91
|
Thẩm Hai
|
Di tích hang Thẩm Hai nằm ở
thôn Còn Nưa, xã Tân Văn, huyện Bình Gia, cách hang Thẩm Khuyên 200m. Năm
1964, 1965 các nhà khảo cổ học tiến hành khai quật hang Thẩm Hai đã thu thập
được nhiều hóa thạch xương hóa thạch của một số loài động vật và di cốt hóa
thạch người vượn HomoErectus giống với di chỉ Thẩm Khuyên, có niên đại cách
ngày nay khoảng 475.000 năm.Những hóa thạch động vật, hóa thạch vượn khổng lồ
và đặc biệt là hóa thạch người vượn phát hiện tại Thẩm Khuyên, Thẩm Hai là những
tư liệu vô cùng quan trọng để tìm hiểu giai đoạn sơ kỳ đá mới nói chung và sự
xuất hiện người vượn ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á nói riêng. Di tích đã
được xếp hạng cấp Quốc gia.
|
|
|
|
92
|
Thuốc Sơn
|
Di tích đền Thuốc Sơn thuộc
thôn Làng Bến, xã Cai Kinh, huyện Hữu Lũng. Đền có kiến trúc kiểu “chữ Đinh”;
thờ “Đài ái Tôn thần” vị nữ thần đã có công đánh giặc giữ nước, bảo vệ quê
hương ở thế kỷ XVIII. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
93
|
Thủy Môn Đình
|
Di tích Bia, Nhà bia Thủy Môn
nằm tại sườn núi Phjia Mạt (gần quốc lộ 1A), thuộc khu Vườn Sái thị trấn Đồng
Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Di tích cách cửa khẩu Hữu Nghị 02km về
phía Nam. Là một di tích Lịch Sử - Văn hóa, có nhiều giá trị nổi bật, không
những gắn bó mật thiết với phiên thần Nguyễn Đình Lộc, một nhân vật lịch sử của
thế kỷ XVII, mà còn thể hiện rõ ý chí, nguyện vọng bảo vệ vững chắc chủ quyền
nơi biên giới của các thế hệ cha ông. Việc bảo vệ phát huy giá trị của di
tích là rất cần thiết nhằm giáo dục cho các thế hệ con cháu về lòng tự hào
dân tộc, về tình yêu đối với quê hương đất nước. Bia Thủy Môn Đình luôn là một
chứng tích lịch sử quý báu, là một di vật, bảo vật của quốc gia lưu truyền lại
cho các thế hệ con cháu người Việt Nam về ranh giới của đất nước, khẳng định
chủ quyền lãnh thổ, về một tinh thần đoàn kết dân tộc để bảo vệ vùng biên giới
của Tổ quốc. Di tích Nhà bia Thủy Môn Đình đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc
gia.
|
|
94
|
Trung Thiên
|
Di tích Chùa Trung Thiên thuộc
thôn Dinh Chùa, xã Tú Đoạn, huyện Lộc Bình. Chùa Trung Thiên do quận công Vi
Đức Thắng xây dựng năm 1680 nhằm phục vụ nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng cho bà
con nhân dân trong vùng. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chùa là nơi thành lập
UBND lâm thời châu Lộc Bình năm 1945 và cũng là một điểm giao thông liên lạc
vững chắc cho khu di tích Chi Lăng (1947 - 1949). Di tích đã được xếp hạng cấp
tỉnh.
|
|
95
|
Văn Mịch
|
Di tích bến đò Văn Mịch thuộc
phố Văn Mịch, xã Hồng Phong, huyện Bình Gia. Di tích là địa điểm phục vụ vận
chuyển vũ khí, lương thực, thuốc men phục vụ chiến đấu, chuyên trở, tải
thương đưa các đồng chí thương binh bị thương từ mặt trận trở về tuyến sau điều
trị trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
96
|
Vằng Khắc
|
Di tích đình Vằng Khắc thuộc
thôn Khòn Chả, xã Vân Mộng, huyện Lộc Bình. Đình Vằng Khắc được xây dựng vào khoảng
thời Lê Cảnh Hưng. Đây là ngôi đình được xây dựng sớm nhất tại huyện Lộc
Bình. Đình Vằng Khắc là nơi thờ thần rắn - hiện thân của Quan Lớn Tuần Tranh.
Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
97
|
Vũ Lăng
|
Di tích Trường Vũ Lăng, thôn
Tràng Sơn 3, xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn. Tại đây, ngày 28/10/1940 đồng chí Trần
Đăng Ninh đã thay mặt Xứ ủy Bắc Kỳ và Ban chỉ đạo khởi nghĩa tổ chức một cuộc
mít tinh và tuần hành thị uy nhằm mục đích nâng cao quyết tâm chiến đấu cho
chiến sỹ và Nhân dân Bắc Sơn, qua đó uy hiếp tinh thần địch. Di tích trường
Vũ Lang thuộc Khu di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp Quốc
gia đặc biệt.
|
|
98
|
Quốc Phòng
|
Di tích Hang Quốc Phòng (thị
trấn Văn Quan, huyện Văn Quan) là một hang đá tự nhiên to, rộng và đã được bộ
đội ta cải tạo thành kho quân khí, cung cấp vũ khí đạn dược vào chiến trường
miền nam trong những năm kháng chiến 1968 - 1972. Cửa hang quay về phía Tây,
cao khoảng 2,5m xây bê tông cao khoảng 2m. Lòng hang rộng 60m, trần hang cao
khoảng 30m. Hang sâu chừng 500m có 2 cửa. Di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh.
|
|
IV
|
CÁC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, SỰ KIỆN LỊCH SỬ, CHIẾN THẮNG CHỐNG XÂM LƯỢC
CÓ Ý NGHĨA TIÊU BIỂU CỦA ĐẤT NƯỚC, CỦA TỈNH (55 TÊN)
|
|
1
|
3/2
|
Sau khi phong trào yêu nước chống
Pháp trong nước lần lượt thất bại thì nổ ra cuộc cách mạng vô sản ở Nga năm
1917. Một số chiến sĩ cách mạng Việt Nam hướng về Liên Xô, vạch cho mình con
đường đánh đuổi thực dân phong kiến. Từ đó ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần
lượt ra đời ở ba kỳ: Đông Dương Cộng sản liên đoàn, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Đảng, mỗi đảng đều hoạt động riêng, điều này sẽ làm suy yếu
tiềm lực cách mạng của quần chúng. Đứng trước tình hình này, ngày 3/2/1930
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra triệu tập cuộc họp ở Quảng Châu (Trung Quốc)
kêu gọi đoàn kết, thống nhất ba đảng làm một, lấy tên là Đông Dương Cộng sản
Đảng, tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Ngày 3/2 được chính thức
xem là ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
|
|
2
|
23/2
|
Gắn với 2 sự kiện lịch sử
quan trọng của tỉnh:
- Ngày thành lập Đội Cứu quốc
quân 1: Ngày 23 tháng 02 năm 1941, tại căn cứ Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc
Sơn, Đội Cứu quốc quân 1 chính thức được thành lập. Đồng chí Lương Văn
Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ được Trung ương chỉ định đảm nhiệm chức
vụ Chỉ huy trưởng, đồng chí Chu Văn Tấn giữ chức vụ Chỉ huy phó. Đội Cứu quốc
quân 1 khi mới thành lập gồm 32 cán bộ, chiến sỹ cả miền ngược lẫn miền xuôi
đã trưởng thành từ khởi nghĩa Bắc Sơn và các phong trào cách mạng thời kỳ
này. Đội Cứu quốc quân 1 là một đội vũ trang đầu tiên tiền thân của Quân đội
Nhân dân Việt Nam do Đảng ta trực tiếp tổ chức và lãnh đạo để chuẩn bị đưa
cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: Khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền.
- Ngày 23/2/1960 tỉnh Lạng
Sơn vinh dự được đón Bác về thăm. Nói chuyện trong cuộc mít tinh lớn với hơn
25.000 cán bộ, bộ đội, học sinh và đồng bào các dân tộc Lạng Sơn tại sân vận
động Đông Kinh, thị xã Lạng Sơn, Bác Hồ biểu dương:“Trong thời kỳ kháng chiến,
đồng bào và cán bộ tỉnh ta đã anh dũng đánh giặc, cứu nước giữ làng. Từ ngày
hòa bình trở lại, đồng bào và cán bộ tỉnh ta đã có nhiều cố gắng và thành
tích. Đó là những ưu điểm, Trung ương và Chính phủ vui lòng khen ngợi toàn thể
cán bộ và đồng bào”.
- Đồng thời là ngày thành lập
thị trấn Đình Lập, trung tâm hành chính, văn hóa, xã hội của huyện Đình Lập.
|
|
3
|
11/4
|
Ngày 11/4/1938, tại thôn Na
Han, xã Phi Mỹ (nay là xã Tri Phương), Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tổ chức kết
nạp đảng viên, thành lập chi bộ đầu tiên ở Tràng Định gồm 07 đảng viên là các
đồng chí: Bế Văn Bính (Bí thư), Hoàng Kim Sơn, Hoàng Văn Cường, Hoàng Văn Bản,
Mã Văn Ngân, Hoàng Váy Thao, Triệu Dín Nè.
|
|
4
|
30/4
|
Tổng thống Dương Văn Minh của
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Quân Giải Phóng
Miền Nam tiến vào Sài Gòn. Chính quyền Quân quản Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
tiếp quản. Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước giành thắng lợi.
Chiến thắng ngày 30/4/1975 đã
làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới
của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc
chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử
chống ngoại xâm của Nhân dân ta.
|
|
5
|
7/5
|
Chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ 7/5/1954 mãi mãi là mốc son chói lọi, là thiên sử vàng trong lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc. Chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt 9 năm trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ mở ra thời
kỳ mới cho dân tộc là xây dựng CNXH ở miền Bắc
|
|
6
|
25/5
|
Ngày thành lập châu ủy Bắc
Sơn: Ngày 25 tháng 5 năm 1938 được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ mà trực tiếp
là đồng chí Hoàng Văn Thụ Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng tại đồi Nà Kheo,
xã Tân Hương, đã diễn ra Hội nghị với sự tham dự của phần lớn các đồng chí Bí
thư Chi bộ của các xã để tiến hành bầu ra Ban cán sự Châu ủy. Hội nghị đã bầu
được 07 đồng chí vào Ban cán sự Châu ủy, gồm các đồng chí: Lê Xuân Thụ, Đường
Văn Thất, Hoàng Đình Ruệ, Dương Thần Tần, Lương Đình Sơn, Hoàng Việt Thành,
Dương Văn Tạch. Đồng chí Lê Xuân Thụ được bầu giữ chức vụ Bí thư Châu ủy, cơ
quan thường trực châu ủy đặt tại nhà đồng chí Đường Văn Thất ở thôn Mỏ Tát,
Vũ Lăng
|
|
7
|
16/8
|
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc
dân họp tại Tân Trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua
“Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc
giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng
loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.
|
|
8
|
- 19/8
- Cách mạng tháng Tám
|
Cuộc cách mạng tháng Tám 1945
có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn không chỉ với Nhân dân Việt Nam mà có ý
nghĩa đối với toàn thế giới. Cách mạng Tháng 8 mở ra bước ngoặt lớn trong lịch
sử dân tộc ta, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, lật đổ ngai vàng
phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu bước phát triển
nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do.
Đối với huyện Đình Lập, 19/8
là ngày thành lập thị trấn Nông Trường Thái Bình, huyện Đình Lập. Ngày nay,
thị trấn được nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, cũng như các tỉnh lân cận
biết đến với thương hiệu Chè như Chè Ô Long, Chè Ngọc Thúy, Chè Bát tiên… các
sản phẩm đã được công nhận là sản phẩm OCOP.
|
|
9
|
- 2/9
- Quốc khánh
|
Ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh
Việt Nam 2/9/1945 chính là ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa.
Sự kiện ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại
Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay). Tuyên ngôn Độc lập ngày
2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn
sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bản Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự
nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các
dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.
|
|
10
|
25/9
|
Ngày thành lập chi bộ đảng đầu
tiên tại Bắc Sơn: Ngày 25 tháng 9 năm 1936, được sự phân công của Đảng, đồng
chí Hoàng Văn Thụ đã tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập chi bộ cộng sản đầu
tiên ở Bắc Sơn tại thôn Mỏ Tát, xã Tân Hương gồm 04 đảng viên là các đồng
chí: Đường Văn Thông (tức Đường Kỳ Tân), Hà Khai Lạc (tức Hoàng Doãn Tạo), Đường
Văn Tư (tức Đường Quảng Long), Nguyễn Mai Huyền (tức Nguyễn Văn Phòng). Đồng
chí Đường Văn Thông (tức Đường Kỳ Tân) giữ chức vụ Bí thư.
|
|
11
|
- 27/9
- Khởi nghĩa Bắc Sơn
|
Sáng ngày 27 tháng 9 năm
1940, Đảng bộ Bắc Sơn đã triệu tập cuộc họp quan trọng tại đình Nông Lục xã
Hưng Vũ. Cuộc họp đã thống nhất thông qua chủ trương khởi nghĩa, quyết định
phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang và chọn thời gian khởi nghĩa từ 19 giờ 30
phút đến 20 giờ 27 tháng 9 năm 1940. Mục tiêu tiến công đầu tiên là đánh chiếm
đồn Mỏ Nhài, Châu lỵ Bắc Sơn.
Khởi nghĩa Bắc Sơn là “tiếng
súng” thức tỉnh quần chúng và mở đầu cho thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam,
thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ
trang để đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
|
|
12
|
Cứu quốc quân 1
|
Ngày 23 tháng 02 năm 1941, tại
căn cứ Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, Đội Cứu quốc Quân 1 chính thức được
thành lập. Đây là lực lượng vũ trang đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng,
tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
|
|
13
|
10/10
|
Ngày 10/10/2427 (tức ngày
20/9 năm Đinh Mùi), tại Ải Chi Lăng, dưới chân núi Mã Yên, nơi có cánh đồng lầy
lội (Bãi Đầm), Liễu Thăng và hơn 100 quân kỵ binh vừa qua cầu thì cầu bị đánh
sập. Đội quân tiên phong của địch bị chia cắt. Đúng lúc đó, phục binh của ta
nhất tề nổi dậy, xông lên tiêu diệt địch. Hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt
gọn, tướng giặc Liễu Thăng bị chém đầu bên sườn Mã Yên Sơn (Núi Mã Yên).
Tại Ải Chi Lăng, sau khi Liễu
Thăng bị chém đầu, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của các tướng Lê Sát, Lưu
Nhân Chú, Đinh Liệt, Trần Lựu…đã tiêu diệt hơn 01 vạn quân tiên phong của địch.
Ngày 10/10 hàng năm được lấy
làm ngày kỷ niệm chiến thắng Chi Lăng của người dân Chi Lăng, Lạng Sơn nói
riêng và Nhân dân cả nước nói chung.
|
|
14
|
14/10
|
Ngày thành lập Đội Du kích Bắc
Sơn: Ngày 14 tháng 10 năm 1940, thay mặt ban chỉ huy khu du kích Bắc Sơn, đã
tổ chức một cuộc mít tinh diễn thuyết tại làng Đon Úy (Sa Khao) xã Tân Hương
với hơn 100 đảng viên và quần chúng cách mạng tham gia. Tại hội nghị, thay mặt
Ban chỉ huy, đồng chí Trần Đăng Ninh tuyên bố Đội Du kích Bắc Sơn được thành
lập. Hội nghị kêu gọi Nhân dân tích cực ủng hộ đội du kích; đồng chí
nêu rõ đường lối đánh Pháp đuổi Nhật và nhiệm vụ cấp thiết của Đảng ta, các đảng
viên cùng nhân địa phương phải tổ chức bộ đội vũ trang, xây dựng căn cứ địa
và đánh du kích, chống khủng bố trắng của giặc. Công việc đầu tiên của đội du
kích Bắc Sơn là tấn công bọn phản động ở địa phương, tuyên truyền, giải thích
về đường lối, chủ trương của Đảng, động viên Nhân dân sẵn sàng đối phó với giặc
Pháp và bè lũ phản động tay sai.
|
|
15
|
17/10
|
Tháng 9 năm 1950, ta chủ động
mở mở chiến dịch Biên giới tấn công tiêu diệt quân Pháp. Từ ngày 03 đến ngày
08/10/1950, quân ta đã đánh tan 2 binh đoàn chủ lực của Pháp, tiêu diệt cánh
quân cứu viện của chúng từ Hà Nội lên. Ngày 10 tháng 10, thị trấn Thất Khê được
giải phóng. Ngày 13 tháng 10, địch rút khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, hai huyện Văn
Uyên, Thoát Lãng được giải phóng. Đến ngày 17 tháng 10, địch rút khỏi An Châu
(Đình Lập) chấm dứt sự chiếm đóng cuối cùng của thực dân Pháp trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đối với Tỉnh lỵ Lạng Sơn, trong
đó Thị xã Lạng Sơn là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của tỉnh nên sự
kiện ngày 17 - 10 - 1950 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, được coi là ngày Giải
phóng tỉnh Lạng Sơn nói chung và thị xã Lạng Sơn (nay là Thành phố Lạng Sơn)
nói riêng.
|
|
16
|
31/10
|
Trong chiến dịch Biên giới
1950, trên trục đường số 1 và số 4 đã diễn ra nhiều trận đánh quan trọng, góp
phần tiêu diệt quân Pháp, giải phóng vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng
cố căn cứ địa Việt Bắc, tiến tới giành chính quyền chủ động trên chiến trường
chính. Ngày 16/9/1950, chiến dịch bắt đầu, quân ta nổ súng tấn công tiêu diệt
đồn Đông Khê. Ta liên tiếp chủ động tiến công tiêu diệt địch trên tuyến đường
số 4. Đến ngày 30/10/1950, rạng sáng ngày 31/10/1950 nghe tin quân ta chuẩn bị
tiến công Đình Lập, địch vội vã thu quân, chạy thục mạng về Tiên Yên, Hải
Ninh (nay là Quảng Ninh). Ngày 31/10/1950, quân ta tiến vào tiếp quản huyện
Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn hoàn toàn giải phóng, trở thành hậu phương vững chắc,
góp phần vào chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược.
|
|
17
|
04/11
|
Năm Tân Mão (1831), Vua Minh
Mệnh tiến hành cải cách bộ máy hành chính toàn quốc, chia định địa hạt từ Quảng
Trị trở ra thành 18 tỉnh bao gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Thanh Hóa, Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn
Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng.
|
|
18
|
An Lão
|
Chiến thắng An Lão (ngày 7 -
8/12/1964) có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Lần đầu tiên trên địa bàn Khu V,
quân ta đánh bại hệ thống phòng ngự của địch bằng cụm cứ điểm kết hợp với hệ thống
ấp chiến lược; đồng thời đánh bại thủ đoạn đổ bộ bằng “trực thăng vận” của địch.
Chiến thắng An Lão cũng đánh dấu bước trưởng thành của quân chủ lực Khu V, lực
lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích trong việc phối hợp thực hiện
phương án tác chiến mới dưới hình thức chiến dịch quy mô trung đoàn. Chiến thắng
An Lão đã làm thất bại chiến thuật “Trực thăng vận, thiết xa vận” của Mỹ - Ngụy,
góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ trên chiến trường
khu V.
|
|
19
|
Ấp Bắc
|
Trận Ấp Bắc (02/01/1963) là một
trận đánh quy mô lớn diễn ra vào giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ thống
nhất đất nước với kết quả là chiến thắng lớn đầu tiên của quân vũ trang Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với quân chính quy của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa được cố vấn Mỹ chỉ huy. Thất bại của Mĩ và quân lực Việt
Nam Cộng hòa trong trận này không chỉ là một thất bại thuần tuý về chiến thuật
mà còn mang ý nghĩa chiến lược, đã làm rung chuyển giới báo chí Mỹ, làm cho
Nhân dân Mỹ quan tâm hơn đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Chiến thắng của Quân
giải phóng tại Ấp Bắc đã đánh dấu sự thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc
biệt của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
|
|
20
|
Bạch Đằng
|
Sông Bạch Đằng là con đường
thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền nam Trung Quốc,
từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và
cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội. Ngày nay, các loại tàu thuyền có
tải trọng 300-400 tấn tham gia vận tải được cả hai mùa trên sông. Sông Bạch Đằng
nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam: Trận thủy chiến sông Bạch Đằng
năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán; Trận thủy chiến sông Bạch
Đằng năm 981, Hoàng đế Lê Đại Hành phá tan quân Tống xâm lược; Trận thủy chiến
sông Bạch Đằng năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược
Mông Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba).
|
|
21
|
Bãi Sậy
|
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 -
1889): Nguyễn Thiện Thuật (tức Tân Thuật) dựng cờ khởi nghĩa lập căn cứ kháng
Pháp ở Bãi Sậy (thuộc hai huyện Văn Giang và Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cũ),
suốt mấy năm trời kiên trì đánh du kích tiêu hao, tiêu diệt địch. Đến năm
1889, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
|
|
22
|
Bình Than
|
Hội nghị Bình Than là một hội
nghị quân sự do vua Trần Nhân Tông triệu tập vào tháng 11 năm 1283 để bàn
phương hướng kháng chiến khi quân Mông Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ
hai. Hội nghị bàn hai vấn đề thiết yếu nhất: đó là xác định phương hướng chiến
lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy chống xâm lăng. Ở hội nghị Bình
Than, vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã quyết định trao
quyền Tổng chỉ huy quân đội cho Trần Quốc Tuấn; Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư
làm Phó đô tướng quân.
|
|
23
|
Cần Vương
|
Phong trào Cần Vương (1885 - 1896)
nổ ra vào cuối thế kỷ XX do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh
vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng trước nạn xâm lược của thực dân Pháp. Phong
trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra,
phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ.
Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa
vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi.
|
|
24
|
Cốc Lùng
|
Di tích Cốc Lùng (Soong Luồng)
tại thôn Co Hồng xã Xuân Dương tại đây tháng 6/1948 Đại hội Đảng bộ huyện Lộc
Bình lần thứ I được tổ chức. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lộc
Bình, bầu đồng chí Lê Viết Hùng giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy. Di tích Cốc Lùng
(Soong Luồng) nằm trong danh mục kiểm kê theo Quyết định số 73/QĐ- UBND ngày
10/01/2019 của UBND tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt và công bố danh mục kiểm
kê di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
|
|
25
|
- Chiến thắng Chi Lăng
- Chi Lăng
|
Qua ngàn năm lịch sử, thời
nào Chi Lăng cũng ghi dấu ấn với các trận đánh lớn, những chiến công oanh liệt,
hiển hách mang tính quyết định trước các đội quân xâm lược Tống, Nguyên,
Minh, Thanh,...
- Thế kỷ X, XI: Quân Tống 02
lần thất bại tại Ải Chi Lăng (Quỷ Môn quan).
- Thế kỷ XIII: Chi Lăng là
nơi ghi dấu 2 lần thất bại của quân xâm lược Nguyên - Mông.
- Thế kỷ XV: Ngày 10/10/1427
(tức 20/9 năm Đinh Mùi 1427), tại Ải Chi Lăng đã ghi dấu một mốc son chói lọi,
đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc với chiến thắng Chi Lăng,
chém đầu tướng giặc Liễu Thăng, đập tan âm mưu đô hộ của nhà Minh, giành lại
độc lập dân tộc.
- Thế kỷ XVIII (năm 1789), dưới
thời Hoàng đế Quang Trung, Ải Chi Lăng một lần nữa làm cho Tôn Sĩ Nghị, tướng
giặc nhà Thanh phải kinh hoàng bạt vía.
Chiến thắng Chi Lăng, cùng với
Bạch Đằng, Như Nguyệt, Rạch Gầm - Xoài Mút, Ngọc Hồi - Đống Đa, Điện Biên Phủ,
chiến dịch Hồ Chí Minh..., không chỉ là biểu tượng của mỗi địa phương mà đối
với cả nước về tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,
tinh thần quyết chiến quyết thắng và nghệ thuật quân sự tuyệt vời của dân tộc
Việt Nam.
|
|
26
|
Chương Dương
|
Trận Chương Dương diễn ra tại
bến Chương Dương (nay thuộc địa phận huyện Thường Tín, Hà Nội) vào khoảng tháng
5, 6 Âm lịch (1285). Trong trận đánh này, các lực lượng quân Trần đã tập kích
phá tan căn cứ thủy quân Nguyên, tạo mở ra thời cơ đánh úp đại bản doanh địch,
tái chiếm kinh thành Thăng Long. Thượng tướng Trần Quang Khải đem quân vào
Thăng Long, cảm khái trước sự dũng mãnh của dũng sĩ và Nhân dân đã xuất khẩu
thành thơ: Chương Dương cướp giáo giặc / Hàm Tử bắt quân thù / Thái bình nên
gắng sức / Non nước ấy nghìn thu.
|
|
27
|
Diên Hồng
|
Hội nghị Diên Hồng là hội nghị
được tổ chức tại kinh thành Thăng Long do Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu
họp các bô lão trong cả nước về trước thềm điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý,
hỏi về chủ trương hòa hay đánh khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần
thứ 2.
|
|
28
|
Duy Tân
|
Phong trào Duy Tân
(1906-1908): Là tên gọi một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động. Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo
động, khôi phục đất nước bằng con đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi
mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hoá, với các hoạt động thực tiễn
như là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học hiện
đại: dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại ngữ
cũng như hướng đến nền chính trị dân chủ.
|
|
29
|
- Đá Bia
- Rừng Cấm
|
Đá Bia - Rừng Cấm là 02 địa
danh nổi tiếng thuộc xã Đồng Tân và xã Hoà Lạc trong kháng chiến chống Pháp.
Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ, cả nước, cả dân tộc anh dũng vùng
lên chiến đấu chống quân thù xâm lược. Ngay trong đêm 19 tháng 12 năm 1946
nhiều nơi ở Hà Nội, Nam Định, Bắc Giang, Lạng Sơn... đã nổ súng tấn công tiêu
diệt địch. Thắng lợi mở màn Đá Bia - Rừng Cấm của quân và dân Hữu Lũng góp phần
quan trọng vào chiến công chung của cả nước trong những ngày kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược, làm thất bại bước đầu mưu đồ lấn chiếm của chúng trên
địa bàn huyện, thể hiện rõ ý chí quyết tâm đánh giặc, đáp ứng kịp thời lời
kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
|
|
30
|
Đèo Cà
|
Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp (1945 -1954), Đèo Cà là địa bàn đánh phá ác liệt của địch, trong đó địa
danh Đèo Cà, thuộc thôn Làng Cà, xã Đồng Tiến, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
giáp ranh với thôn Đèo Cà, xã Đồng Hưu, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang - là địa
điểm đánh phá ác liệt nhất nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta lên chiến trường
Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống Pháp, Đèo Cà - Pha Đin - Điện Biên Phủ
là một trong nhiều cung đường vận chuyển quan trọng phục vụ cho chiến dịch Điện
Biên Phủ.
|
|
31
|
Đông Du
|
Phong trào Đông Du: là một phong
trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh
niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời
cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực
hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan Bội Châu.
|
|
32
|
Đông Kinh Nghĩa Thục
|
Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907): Là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu thế
kỷ 20 trong thời Pháp thuộc. Mục đích của phong trào là: khai trí cho dân,
phương tiện được hoạch định: mở những lớp dạy học không lấy tiền (để đúng với
cái tên ‘nghĩa thục’ - trường tư thục vì việc nghĩa) và tổ chức những cuộc diễn
thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng.
|
|
33
|
Đồng Khởi
|
Phong trào Đồng Khởi ở Bến
Tre (17/1/1960): tính đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã căn bản làm
tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở nông thôn của Việt Nam Cộng hòa. Trong 2.627
xã toàn miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã lập chính quyền tự
quản ở 1.383 xã, đồng thời làm tê liệt chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở hầu hết
các xã khác. Dân số vùng giải phóng toàn miền Nam có khoảng 6,5 triệu người
thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận. Kế hoạch lập khu trù mật và chính sách “cải
cách điền địa” của Ngô Đình Diệm bị thất bại nặng. Hai phần ba số ruộng đất
trong Cải cách điền địa (khoảng 17 vạn héc ta) được chia lại cho người dân.
Phong trào Đồng khởi ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính
trị ở đô thị. Trong năm 1960 ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia đấu
tranh chính trị, trong đó tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh nhân ngày
20/7/1960.
|
|
34
|
Hàm Tử
|
Sau cuộc rút lui chiến lược về
Thiên Trường (Nam Định) từ tháng 2 năm 1285 để vào Thanh Hóa, vua tôi nhà Trần
bắt đầu mở cuộc phản công vào các cứ điểm quan trọng của quân Nguyên tại vùng
Khoái Châu, Hưng Yên. Trận quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng
5 năm 1285, 50.000 quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy đã nhanh
chóng giành thắng lợi. Chiến thắng Hàm Tử góp phần tiêu diệt và quét sạch
500.000 quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, giải phóng hoàn toàn Đại Việt.
|
|
35
|
Hai Bà Trưng
|
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm
40 - năm 43): là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam do hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa đã đánh đổ
sự cai trị nhà Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ, mang lại độc lập trong 3 năm cho
người Việt.
|
|
36
|
Hùng Lĩnh
|
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 -
1892): Tống Duy Tân cùng với Cao Điền dựng cờ khởi nghĩa ở Hùng Lĩnh (Thanh Hóa)
cùng lúc với cuộc khởi nghĩa Phạm Bành, Đinh Công Tráng… Sau khi nghĩa quân
Ba Đình bị tan rã, Tống Duy Tân tạm thời giấu lực lượng rồi lánh sang Trung
Quốc. Năm 1888, ông trở về Thanh Hóa, tổ chức lại nghĩa quân, xây cứ điểm,
đánh địch sáu năm ròng, lập nhiều chiến công. Năm 1892, cuộc khởi nghĩa bị
đàn áp, Tống Duy Tân bị giặc bắt và hy sinh anh dũng.
|
|
37
|
Hương Khê
|
Khởi nghĩa Hương Khê (1885 -
1896): Năm 1885, Phan Đình Phùng hưởng ứng “Chiếu Cần Vương”, mộ quân đánh
Pháp, lập căn cứ ở vùng núi hai huyện Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), cầm cự
với giặc trên mười năm. Cuối năm 1895, Phan Đình Phùng lâm bệnh từ trần. Cuộc
khởi nghĩa Hương Khê tàn lụi dần. Đến đây cũng chấm dứt phong trào Văn thân
chống Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1885 -1896).
|
|
38
|
Kỳ Lân
|
Núi Kỳ Lân là 01 trong 24 điểm
di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng - đã được xếp hạng Di tích
Quốc gia đặc biệt.
Núi Kỳ Lân là nơi bố trí phục
binh của ta trong trận Chi Lăng ngày 10/10/1427. Khi đội kỵ binh tiên phong
do Liễu Thăng chỉ huy tiến đến khu vực Đầm lầy dưới chân núi Mã Yên, phục
binh của ta ém chốt ở đây đã bất ngờ đổ ra tiêu diệt gọn, góp phần làm nên thắng
lợi vẻ vang của trận Chi Lăng lịch sử.
|
|
39
|
Lam Sơn
|
Khởi nghĩa Lam Sơn
(1418-1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi
khởi xướng và lãnh đạo năm Mậu Tuất (1418). Trải qua 10 năm nếm mật nằm gai,
kết thúc thắng lợi vào năm Đinh Mùi (1428), đánh dấu bằng sự kiện Lê Lợi lên
ngôi Hoàng đế, lập ra Vương triều Hậu Lê tồn tại suốt 360 năm, đồng thời mở
ra kỷ nguyên xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt hưng thịnh trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, ngoại giao.
|
|
40
|
Lý Bí
|
Khởi nghĩa Lý Bí (542 - 544):
sau khi đánh bại quân Lương giành được thắng lợi hoàn toàn, năm 544, Lý Bí
lên ngôi làm hoàng đến lấy tên là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, dựng
kinh đô tại cửa sông Tô Lịch. Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng
đế, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống
Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết
giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.
|
|
41
|
Như Nguyệt
|
Chiến thắng Sông Như Nguyệt
(1077): là một trận đánh lớn diễn ra ở một khúc sông Như Nguyệt (hay sông Cầu)
vào năm 1077, trận đánh có tính quyết định của cuộc Chiến tranh Tống-Việt
(1075-1077). Trận chiến diễn ra trong nhiều tháng, kết thúc bằng chiến thắng
của quân đội Đại Việt, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược Đại Việt của nhà Tống,
buộc nhà Tống phải thừa nhận độc lập, chủ quyền Đại Việt.
|
|
42
|
Nội Bàng
|
Chiến thắng Ải Nội Bàng
(1288): biết tin đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đánh chìm ở Vân Đồn
(Quảng Ninh), quân Nguyên hoàn toàn suy sụp, Thoát Hoan quyết định rút quân về
nước theo 2 đường thủy bộ. Đích thân Thoát Hoan chỉ huy quân bộ rút về Trung
Quốc. Khi đến Ải Nội Bàng (Lạng Sơn), đạo quân Nguyên bị phục binh của Phạm
Ngũ Lão đổ ra đánh, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng thoát thân.
|
|
43
|
Ngọc Hồi - Đống Đa
|
Trận Ngọc Hồi - Đống Đa hay
còn gọi là Chiến thắng Kỷ Dậu 1789 là một trong những trận chiến chống ngoại
xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và cũng là chiến công oanh liệt nhất
của Hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ). Chiến thắng này đã chặn đứng ý định
xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị, giữ vững nền độc
lập dân tộc.
|
|
44
|
Nguyễn Trung Trực
|
Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực
(1861 - 1868): Năm 1861, Nguyễn Trung Trực (tức Nguyễn Văn Lịch) nổi dậy ở
Tân An, chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy Vọng (Espérance) của giặc Pháp
trên sông Vàm Cỏ Đông (12/1861), rồi lập căn cứ kiên trì chống giặc khắp vùng
Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Năm 1868, bị giặc bắt và đưa đi hành hình,
ông đã hiên ngang nói thẳng vào mặt chúng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước
Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.
|
|
45
|
Núi Thành
|
Chiến thắng Núi Thành (tỉnh
Quảng Nam 27/5/1965) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Chỉ trong 25 phút giao tranh, quân ta
đã chiếm lĩnh cả hai ngọn đồi 49 và 50, tiêu diệt toàn bộ đại đội lính Mỹ
đóng tại đây. Từ chiến thắng Núi Thành đã mở đầu cho cao trào diệt Mỹ ở Khu 5
với khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt” dâng cao trên khắp các chiến
trường, cổ vũ cho các trận đánh tiêu diệt địch trên quy mô lớn trong mùa khô
các năm 1965 - 1966, 1966 - 1967.
|
|
46
|
Phượng Hoàng
|
Núi Phượng Hoàng là 01 trong
24 điểm di tích, trong quần thể Di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Di
tích Quốc gia đặc biệt.
Di tích này gắn với truyền
thuyết chim Phượng Hoàng và sự kiện năm 687, những nghĩa binh Tày - Nùng từ
núi Phượng Hoàng vùng cao đứng lên sát cánh cùng Lý Tự Tiên - Đinh Kiến, tiến
quân về phá tan thành Tông Bình (Hà Nội ngày nay) giết chết tên đô hộ Lưu
Diên Hựu.
|
|
47
|
Tây Kết
|
Trận Tây Kết (1285): sau các
chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo chia quân chặn các ngả đường
không cho Thoát Hoan và Toa Đô liên lạc với nhau. Tiếp đó, Vương đem binh đến
Tây Kết tấn công quân Nguyên, đặt phục binh bắt sống Toa Đô. Quân ta càng
đánh càng mạnh, quân địch chống cự không nổi, Ô Mã Nhi và Toa Đô phải đem tàn
quân chạy ra biển, tiếp tục bị phục binh của ta đổ ra vây đánh. Trong trận
đánh này, Toa Đô bị tướng Nguyễn Khoái bắn chết, Ô Mã Nhi chạy vào Thanh Hóa,
tiếp tục bị truy đuổi, phải dùng thuyền trốn chạy về nước. Trận đánh Tây Kết
thắng lợi rực rỡ, toàn bộ 80.000 quân Nguyên bị chúng ta bắt sống và tiêu diệt.
|
|
48
|
- 15/6
- Thụy Hùng
|
Thành lập chi bộ Thụy Hùng:
giữa năm 1933, Đồng chí Hoàng Văn Thụ và đồng chí Đoàn Viết Thọ tới Thụy
Hùng, Văn Uyên (nay là xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc) tổ chức lễ kết nạp đảng
viên, thành lập Chi bộ Thụy Hùng, là chi bộ đầu tiên ở Văn Uyên và tỉnh Lạng
Sơn. Đồng chí Hoàng Văn Thụ được chỉ định làm Bí thư Chi bộ. Chi bộ Thụy Hùng
đảm nhận vai trò quan trọng làm nòng cốt để chỉ đạo việc xây dựng và phát triển
phong trào cách mạng địa phương trong giai đoạn đầu của cuộc đấu tranh giải
phóng do Đảng lãnh đạo trên địa bàn Lạng Sơn.
Ngày 22/12/2022, Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 101-NQ/TU về Ngày truyền thống Đảng
bộ tỉnh Lạng Sơn, quyết nghị lấy ngày 15/6/1933 là Ngày truyền thống Đảng bộ
tỉnh Lạng Sơn; bổ sung mốc lịch sử này vào Lịch sử Đảng bộ tỉnh.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chọn
ngày 15/6 chính là ngày khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần
thứ nhất 15/6/1948, trùng với thời gian thành lập Chi bộ Thụy Hùng năm 1933.
Việc lấy thời điểm thành lập Chi bộ Thuỵ Hùng làm ngày truyền thống của Đảng
bộ tỉnh có ý nghĩa tôn vinh những đóng góp lớn lao của nhiều đồng chí lãnh đạo
tiền bối, tiêu biểu của Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và trực tiếp thành
lập Chi bộ Thuỵ Hùng trên cơ sở phát triển của phong trào cách mạng ở Lạng
Sơn, nằm trong chủ trương của Đảng, của Quốc tế Cộng sản về việc tái lập hệ
thống tổ chức đảng ở Đông Dương. Chi bộ Thụy Hùng đóng vai trò nòng cốt trong
chỉ đạo việc xây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở Lạng Sơn, cùng với
các tỉnh, thành phố trong khu vực tạo sức mạnh đoàn kết, tích cực đóng góp
vào thành quả cách mạng của Đảng, của Dân tộc.
|
|
49
|
Trà Bồng
|
Khởi nghĩa Trà Bồng: ngày
28/8/1959, cuộc khởi nghĩa Trà Bồng đã nổ ra và sau đó lan rộng cả miền Tây Quảng
Ngãi. Nhân dân các dân tộc cùng với các lực lượng vũ trang của ta đã nổi dậy
cướp chính quyền địch, tấn công, tiêu diệt địch ở các căn cứ và các hang ổ, đồn
bốt của địch ở vùng rừng núi; phá trụ sở ngụy quyền, thành lập chính quyền
cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng; đánh địch bảo vệ quê hương, bảo vệ căn cứ
địa cách mạng. Đây là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên của đồng
bào các dân tộc ở vùng căn cứ miền núi Trung Bộ, một cuộc khởi nghĩa có tích
chất quần chúng rộng rãi, có sức mạnh cỗ vũ, khích lệ phong trào đấu tranh chống
Mỹ trên toàn miền Nam, chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
|
|
50
|
Trương Định
|
Khởi nghĩa Trương Định (1859
- 1864): Năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Trương Định tổ chức
nghĩa quân chống Thực dân Pháp ở Gò Công, Tân An, được triều đình Huế giao chức
Lãnh binh. Năm 1862, vua quan nhà Nguyễn hàng giặc, ra lệnh giải binh, nhưng
Trương Định cương quyết kháng Pháp đến cùng, được Nhân dân suy tôn là Bình
Tây đại nguyên soái. Ngày 20/8/1864, Trương Định bị thương nặng đã rút gươm tự
sát. Con trai là Trương Quyền tiếp tục chiến đấu đến năm 1867.
|
|
51
|
Vạn Tường
|
Chiến thắng Vạn Tường
(17/8-18/8/1965) có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, là mốc son chói lọi phản
ánh khí thế cách mạng tiến công, sự mưu trí, kiên cường, dũng cảm, đoàn kết
chiến đấu của quân và dân Quảng Ngãi với bộ đội chủ lực Quân khu 5. Nếu như
chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho “cao trào diệt ngụy”, thì chiến thắng Vạn Tường
lịch sử mở đầu cho “cao trào diệt Mỹ”. Chiến thắng Vạn Tường khẳng định quân
và dân ta có khả năng đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lăng, dù chúng có thể
đông quân, hùng hậu về vũ khí trang bị và khả năng cơ động.
|
|
52
|
Vân Đồn
|
Chiến thắng Vân Đồn (1288):
đây là trận đánh ghi dấu ấn lớn của tướng Trần Khánh Dư vào tháng 1/1288.
Trong trận đánh này, quân Trần đã đánh bại đoàn thuyền lương của quân Nguyên
do Trương Văn Hổ chỉ huy. Toàn bộ 14.300 thạch lương bị đánh chìm khiến đạo
quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy đi vào nước ta trước đó hoàn toàn tê liệt.
|
|
53
|
Việt Bắc
|
Khu Giải phóng Việt Bắc
(4/6/1945): thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 4/6/1945, Tổng bộ
Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập Khu Giải
phóng gồm 02 căn cứ lớn nằm trên địa bàn của 06 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng
Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại tỉnh Bắc
Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái…
Trong Khu Giải phóng, các Ủy
ban Nhân dân do dân cử được hình thành, tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của
Việt Minh. Khu Giải phóng với một triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau thực
sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, cùng với hệ thống các chiến khu trong cả
nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền tháng 8/1945.
|
|
54
|
Xô Viết Nghệ Tĩnh
|
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh:
Là tên gọi chỉ phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ
An và Hà Tĩnh trong năm 1930- 1931 chống lại đế quốc Pháp tại Việt Nam. Tên gọi
Xô viết Nghệ Tĩnh xuất phát từ sự hình thành các “xã bộ nông” mà những người
cộng sản gọi là “Xô Viết”.
|
|
55
|
Yên Thế
|
Khởi nghĩa Yên Thế (1887 -
1913): nghĩa quân Yên Thế bền bỉ chiến đấu suốt 25 năm, gây cho giặc Pháp nhiều
tổn thất. Bọn thực dân Pháp nhiều lần mở những cuộc tiến công lớn, hai lần phải
đình chiến và dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ nhưng đều thất bại. Cuối
cùng chúng phải lập mưu sát hại Hoàng Hoa Thám (10/12/1913) mới dập tắt được
cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
|
|
V
|
CÁC DANH NHÂN, TƯỚNG LĨNH TIÊU BIỂU CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ CỦA TỈNH (237
TÊN)
|
|
V.1
|
Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu của đất nước (177 tên)
|
|
A
|
Trước thế kỷ X
|
|
1
|
Lạc Long Quân
|
Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ
8-7 TCN), theo sử cũ Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích
Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết
"bọc trăm trứng".
|
|
2
|
An Dương Vương
|
An Dương Vương tên thật là Thục
Phán, là vị vua lập nên nước Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước
này. Âu Lạc là nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau nhà nước Văn Lang
đầu tiên của các vua Hùng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục ghi thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm (từ 257 TCN đến
208TCN). Căn cứ và Sử ký Tư Mã Thiên thì cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc
tồn tại gần 30 năm (từ 208 TCN đến 179 TCN). Ông là người xây thành Cổ Loa và
phát triển thủy binh, cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế vững chắc
cho Cổ Loa.
|
|
3
|
Cao Lỗ
|
Cao Lỗ quê quán: xã Cao Đức,
Gia Bình, Bắc Ninh, là một vị tướng tài của Thục Phán An Dương Vương. Ông giỏi
võ nghệ, là người chế ra nỏ Liên Châu (Nỏ thần) và được An Dương Vương giao
nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Ông được tôn là vị
tổ sư nghề rèn của Việt Nam.
|
|
4
|
Hùng Vương
|
Truyền thuyết được ghi lại
trong “Lĩnh Nam chích quái” thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long
Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc
Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con
theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương
đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được
18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép
thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược"(thời
Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược"
xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng
696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương
Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622
năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với
năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể
tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại
Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng
ta 4.000 năm.
|
|
5
|
Lê Chân
|
Lê Chân quê xã An Biên, huyện
Đông Triều (Quảng Ninh). Bà đã tới An Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển
trở thành một trại ấp lớn là An Biên (nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang
quân theo Hai Bà Trưng để hợp sức đánh Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được
phong là Thánh Chân Công chúa.
|
|
6
|
Bà Triệu
|
Bà Triệu (226-248) tên thật
là Triệu Thị Trinh, người Sơn Trung (Nông Cống - Thanh Hóa). Năm 247 cùng anh
là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống quân thống trị nhà Ngô, ở Ngàn Nưa, lập
căn cứ Bồ Điền (Hậu Lộc), sau bị Lục Dận đem quân sang bao vây. Thế cùng lực
tận, bà tuẫn tiết trên ngọn Tùng Sơn (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Nay ở đó còn lăng
mộ và đền thờ bà.
|
|
7
|
Triệu Việt Vương
|
Triệu Việt Vương là miếu hiệu
của Triệu Quang Phục, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, trước phò trợ Lý
Nam Đế lập nước Vạn Xuân (544), rồi tự mình lên ngôi, xây căn cứ Dạ Trạch
(Khoái Châu, Hưng Yên) chống quân xâm lược nhà Lương; sau bị Lí Phật Tử đánh
bại, chạy về đến cửa Đại An (Nam Định) thì mất.
|
|
8
|
Mai Thúc Loan
|
Mai Thúc Loan quê quán Hà
Tĩnh, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường
ở Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 8. Ông xưng đế và đóng kinh đô ở thành Vạn An.
Sau đó, ông cùng nghĩa quân quanh vùng, liên kết với cả các nước Chăm Pa,
Chân Lạp chống giặc tại địa phương và tiến quân ra Bắc tiến công thành phủ Tống
Bình. Bọn đô hộ nhà Đường bỏ thành chạy tháo thân về nước.
|
|
9
|
Phùng Hưng
|
Phùng Hưng, quê ở làng Đường
Lâm, Ba Vì, Hà Nội, trước sự tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, khoảng năm 766
- 791, Phùng Hưng cùng với người em Phùng Hãi phát động một cuộc khởi nghĩa lớn
chống chính quyền đô hộ. Phùng Hưng lãnh đạo nghĩa quân làm chủ đất Đường Lâm
và cả một vùng rộng lớn, chiếm được thành phủ Tống Bình - cơ quan đầu não của
bọn đô hộ nhà Đường.
|
|
10
|
Khúc Thừa Dụ
|
Khúc Thừa Dụ, quê ở Ninh Giang,
tỉnh Hải Dương, năm 905 nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta suy
yếu, ông tự xưng là Tiết độ xứ, cùng với Nhân dân đứng lên giành chính quyền.
Khúc Thừa Dụ đã kết thúc cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến
phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là một trong những người đầu
tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc.
|
|
B
|
Từ thế kỷ X đến thế kỷ
XIII (Nhà Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý)
|
|
11
|
Ngô Quyền
|
Ngô Quyền (899-944), quê quán
làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, là một tướng tài và con rể của Dương Đình Nghệ.
Trong cuộc đấu tranh chống triều đình Nam Hán do Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhằm
giành độc lập dân tộc vào những năm 930- 931, ông đã góp một phần công sức rất
quan trọng. Sau khi đã thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ
(931), và cử ông trông coi Châu Ái. Cuối năm 938, Ngô Quyền kéo quân từ châu
Ái ra Bắc diệt giặc và lập một chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, quét
sạch đội thủy quân Nam Hán do Vạn vương Hoằng Thao, con vua Nam Hán dẫn đầu.
|
|
12
|
- Đinh Tiên Hoàng
- Đinh Bộ Lĩnh
|
Đinh Tiên Hoàng (924-979),
quê ở xã Gia Phương, Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là vị vua sáng lập triều
đại nhà Đinh, nước Đại Cổ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công
đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên
của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cổ Việt là nhà nước mở đầu cho thời
đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.
|
|
13
|
- Lê Hoàn
- Lê Đại Hành
|
Lê Hoàn (941-1005), quê ở Xuân
Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Ông không chỉ là một vị vua có những đóng góp lớn
trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền
độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng
và kiến tạo đất nước đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện
để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long
năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà
Nội.
|
|
14
|
Lý Thái Tổ
|
Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn
(974-1028), quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, nơi vẫn còn lưu giữ ngôi đền Lý
Bát Đế nổi tiếng thờ 08 vị vua triều Lý. Theo truyền thuyết Ông mồ côi cả cha
lẫn mẹ, được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi. Lý Công Uẩn mới nhận lời
lên ngôi vua, lập ra triều Lý. Lên ngôi báu, nhận thấy đất Hoa Lư chật hẹp, bốn
bề núi giăng, không xứng là đất định đô của một quốc gia độc lập, càng khó để
xây dựng đất nước phồn thịnh, Lý Thái Tổ nghĩ tới việc dời đô. “xem khắp đất
Việt”, thấy chỉ có Đại La là “nơi thắng địa”, “ở trung tâm của trời đất”, “được
thế rồng chầu hổ phục, đã thuận hướng nam bắc đông tây, lại tiện nghi núi
sông sau trước”, “mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa”, Lý
Thái Tổ bèn soạn thiên chiếu dời đô nổi tiếng sử sách để tham vấn ý kiến quần
thần. Vua tôi nhất trí đồng lòng, quyết dời đô từ Hoa Lư ra Đại La.
|
|
15
|
Lý Thánh Tông
|
Lý Thánh Tông (1023-1072) quê
ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, là vị vua thứ 3 của nhà Lý, cai trị từ năm 1054
đến 1072. Ông tên thật là Lý Nhật Tân, là người văn võ song toàn, ông nổi tiếng
là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam. Công lao của ông là
đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn Miếu, phá Tống (1069), bình Chiêm (1069)
và lấy được ba châu của Chiêm Thành.
|
|
16
|
Lê Văn Thịnh
|
Lê Văn Thịnh (chưa rõ năm
sinh, mất năm 1096), là người tài năng, đỗ đầu trong khoa thi đầu tiên của
Nho học Việt Nam có công lao lớn làm quan tới chức Thái sư Thời Lý Nhân Tông.
Năm 1084, được cử lên trại Vĩnh Bình (Lạng Sơn) giải quyết vấn đề biên giới với
quan chức nhà Tống. Theo "Đại Việt sử kí toàn thư", nhà Tống phải
trả cho Đại Việt 6 huyện, 3 động. Đền thờ Ông hay Đền thờ Quan Trạng ở thôn Bảo
Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
|
|
17
|
Tô Hiến Thành
|
Tô Hiến Thành (1102-1179),
người làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội), làm quan Thái úy thời
vua Lý Anh Tông (1138-1175); giỏi cả văn, võ. Chỉ huy quân dẹp loạn và bọn
xâm lấn ở biên giới phía tây, phía nam. Ông là người trung trực, thanh liêm nổi
tiếng, có công khai phá vùng Tống Sơn - Nga Sơn (Thanh Hóa).
|
|
18
|
Lý Thường Kiệt
|
Lý Thường Kiệt (1019-1105), họ
Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh tại Phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà
Nội). Từ nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu binh thư, luyện tập
võ nghệ. Ông có tài văn, võ. Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống bình
Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Lịch sử cũng đã lưu lại tư tưởng
quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng
đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông là tác giả bài thơ bất hủ
“Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta.
Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc. Bài
thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất.
|
|
19
|
Trần Thủ Độ
|
Trần Thủ Độ (1194-1264), quê
huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều Trần bằng cách buộc Lý Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân vật trụ cột của triều đình, có công
lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất với câu nói “Đầu
thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; được truy tặng Thượng phụ
Thái sư Trung vũ Đại vương.
|
|
20
|
Trần Hưng Đạo
|
Trần Hưng Đạo (1232-1300),
quê ở Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, còn gọi là Trần Quốc Tuấn hương Tức
- Mặc, phủ Thiên - Trường, được phong ấp ở hương Vạn-kiếp, thuộc huyện Chí
Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng - Giang. Ông có học vấn rất uyên bác, vừa giỏi
văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo.
Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ
biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên
Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 -88), ông lại được đề bạt làm tiết
chế thống lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng. Trần Hưng Đạo đã đề
ra đường lối quân sự ưu việt, có tính chất Nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc
rút lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng - Long, những trận phục kích lừng
danh như trận Bạch - Đằng. Bên cạnh tư tưởng quân sự kiệt xuất, ông còn có
nhiều tác phẩm như Binh gia diệu lý yếu lược (còn gọi là binh thư yếu lược)
và Vạn- kiếp tông bí truyền thư, nhưng văn bản nay đều đã gần như thất lạc.
Tác phẩm thứ ba duy nhất còn giữ được của ông là bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn,
vẫn quen gọi là Hịch tướng sĩ. Bài hịch chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện
và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của ông.
|
|
21
|
Trần Quang Khải
|
Trần Quang Khải (1241-1294):
Trần Quang Khải, con thứ ba của Thái Tông Trần Cảnh, em ruột vua Trần Thánh
Tông, làm tới chức Thượng tướng Thái sư; đảm nhận việc ngoại giao trong kháng
chiến chống Nguyên - Mông, trực tiếp chỉ huy trận thắng ở Chương Dương
(1285); tác giả bài Tụng giá hoàn kinh sư nổi tiếng. Trần Quang Khải có học lực
cao, sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc, bộc lộ hào khí của thời đại đất nước
hưng thịnh, đồng thời lại chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ phong phú, gắn bó với
thiên nhiên. Tập thơ Lạc đạo tập chỉ còn sót lại hơn mười bài, có bài nổi tiếng.
|
|
22
|
Phạm Ngũ Lão
|
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê
ở làng Phủ Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên; một
nông dân, ham học, có ý chí, tình nguyện tham gia quân đội đánh giặc ngoại
xâm, chỉ huy quân cấm vệ của Trần Hưng Đạo; lập nhiều chiến công trong hai lần
chống Nguyên - Mông (1285-1288), sau còn đi dẹp loạn quấy phá biên giới Lão
Qua và Chiêm Thành ở phía Nam, trở thành danh tướng đời Trần, được phong tước
Quan nội hầu.
|
|
23
|
Trần Bình Trọng
|
Trần Bình Trọng (1259-1285),
danh tướng đời Trần, quê huyện Thanh Liêm, Hà Nam, vốn họ Lê do có công lớn
nên được ban họ vua; trong trận đánh ở sông Thiên Mặc bị giặc Nguyên bắt dụ
hàng, ông khảng khái nói: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất
Bắc” và chịu chết.
|
|
24
|
Trần Quốc Toản
|
Trần Quốc Toản (1267-1285),
quê ở Tức Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định, người anh hùng thiếu niên chống Nguyên Mông.
Năm 1282, lúc ông mới 15 tuổi, được tin quân Nguyên Mông sang cướp nước ta,
vua Trần Nhân Tông hội các vương hầu bàn kế sách chống giặc. Quốc Toản cũng
là Hầu tước, nhưng vì nhỏ tuổi nên đến dự Hội Bình Than mà không được vào họp
bàn. Ông đứng ngoài căm tức lỡ tay bóp nát quả cam vua ban cho. Tan Hội về,
ông tập hợp đám bạn thiếu niên thân thuộc, sắm sửa vũ khí, may cờ hiệu đề 6
chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân", rồi tự dẫn binh ra trận đánh
giặc. Ông cùng các chiến binh trẻ tuổi tham dự vào nhiều trận đánh lớn, từng
có lúc theo Thượng tướng Trần Quang Khải, góp phần chiến thắng Chương Dương
vang dội trong lịch sử chống Nguyên Mông. Trong một trận đánh không cân sức,
ông bị trọng thương và hy sinh năm 1285, lúc ấy mới qua tuổi 18. Vua Trần
Nhân Tông thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Hoài Văn
Vương. Trần Quốc Toản là vị tướng trẻ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của
dân tộc. Ông là tấm gương anh hùng yêu nước trẻ tuổi tiêu biểu của đất nước.
|
|
25
|
Mạc Đĩnh Chi
|
Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), quê
ở Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; đỗ trạng nguyên đời Trần. Ông thông
minh, tài trí từ nhỏ, làm quan thanh liêm qua ba đời vua Trần, hai lần đi sứ
nhà Nguyên, nổi tiếng với bài phú Ngọc Tỉnh Liên ví mình như đóa sen trong giếng
ngọc.
|
|
26
|
Dã Tượng
|
Dã Tượng có công trong sự
nghiệp chống quân Nguyên - Mông cuối thế kỷ XIII. Ông là người nổi tiếng
trung thành, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc
bắt Toa Đô. Trong cuộc chiến gay go, quân sĩ tản mác, ông đã bám trụ ở một điểm
đến khi chủ tướng gặp được Yết Kiêu mới thôi. Ông được Trần Quốc Tuấn tin
yêu. Theo truyền thuyết, Dã Tượng còn là ông tổ nghề rèn. Những làng rèn đều
thờ Dã Tượng tiên sư.
|
|
27
|
Yết Kiêu
|
Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu
Thế quê ở huyện Thanh Hà, Hải Dương, do trải cuộc sống trên sông nước từ nhỏ nên
ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần hai
và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi
dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều chiến công đóng
góp cho chiến thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã được Nhân dân và vua quan
nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).
|
|
28
|
Huyền Trân
|
Huyền Trân (1287-1340) là con
gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là
Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Chế Mân qua đời, Huyền Trân được
cứu đưa về Thăng Long. Năm 1308, bà đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc
tỉnh Bắc Ninh). Năm 1311, bà đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản,
tỉnh Nam Định) lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau bà được Nhân dân thờ
phụng tại đó.
|
|
29
|
Chu Văn An
|
Chu Văn An (1292-1370), quê
quán xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội là một nhà giáo, thầy
thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ Thái học sinh nhưng
không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung. Ông có công lớn
trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua
Trần Minh Tông mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng.
Đến đời Dụ Tông, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua
không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương)
dạy học, viết sách cho tới khi mất.
|
|
30
|
Lê Văn An
|
Lê Văn An (1384 - 1437), người
làng Mục Sơn nay là xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông là một trong
các công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Khi khởi nghĩa Lam
Sơn nổ ra, Lê Lợi cho ông làm thủ vệ kỵ binh quân Thiết đột. Năm 1424, trong
trận Khả Lưu, ông xung phong đi đầu hãm trận, đánh lui quân Minh. Năm 1425,
khi Lê Lợi cầm quân vây Nghệ An, sai Trần Nguyên Hãn đánh Tân Bình và Thuận
Hoá, ông được cử cùng các tướng Lê Ngân, Lê Bôi mang thuyền tiếp ứng, phối hợp
với Trần Nguyên Hãn đánh được hai thành. Năm 1427, Lê Văn An liên tục đánh bại
quân Thôi Tụ, bao vây quân địch ở Xương Giang. Tháng 11 năm 1427, ông cùng
các tướng tổng tấn công, bắt và giết toàn bộ quân địch, kết thúc khởi nghĩa
Lam Sơn. Ông là một trong số các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong
khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di
tích lịch sử quốc gia đặc biệt: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố
Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
|
|
31
|
Nguyễn Bặc
|
Nguyễn Bặc (924- 980), là người
động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Ninh Bình), Ông có nhiều công lao trong việc
đánh dẹp loạn 12 sứ quân giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ quân. Năm 968,
Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua (Hoàng Đế Đinh Tiên Hoàng), ông được phong làm Định
Quốc công, trông coi việc nội chính. Năm Đinh Dậu, Định Quốc công Nguyễn Bặc
được vua Khải Định sắc phong là Hộ Quốc Tướng Công Trác Võ Thượng Đẳng Phúc
Thần.
|
|
C
|
Thế kỷ XIII đến thế kỷ XV (Nhà Trần - Hậu Lê)
|
|
32
|
Trần Thái Tông
|
Trần Thái Tông (1218-1277), vị
vua đầu tiên của nhà Trần. Ông trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông lần thứ nhất thắng lợi; nhường ngôi cho con để tập trung nghiên
cứu giáo lý nhà Phật và soạn tập Khóa hư lục.
|
|
33
|
Lê Văn Hưu
|
Lê Văn Hưu (1230-1322) người
làng Phủ - Lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh - Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện
Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng
Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức
Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Năm 1272 ông soạn xong bộ Đại Việt
sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Đó là bộ sử ký quy mô đầu tiên của
nước ta, đã được Trần Thánh Tông ban chiếu khen. Nhưng đáng tiếc hiện nay bộ
sách đã thất lạc, chỉ còn một ít lời bình được Ngô Sĩ Liên ghi lại trong Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một sử gia có lòng yêu nước, có cách nhìn tiến bộ
đối với nhiều sự kiện lịch sử đương thời, bộ sử của ông đã đóng góp rất nhiều
cho Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và đã để lại cho chúng ta nhiều
nhận định quý báu về các sự kiện lịch sử cũng như những đoạn bình luận giàu
tính chất văn học.
|
|
34
|
Trần Thánh Tông
|
Trần Thánh Tông (1240-1290),
là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị vì từ ngày 30 tháng 3
năm 1258 đến ngày 8 tháng 11 năm 1278. Sau đó ông làm Thái thượng hoàng từ cuối
năm 1278 cho đến khi qua đời năm 1290. Ông thường được sử sách mô tả là một
Hoàng đế tài giỏi, nhân từ, có nhiều chính sách tích cực, giữ vững được cơ
nghiệp của triều đại và nền độc lập của quốc gia, và là một nhà thơ lớn, trị
vì 20 năm (1258-1278), sau nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.
|
|
35
|
Trần Nhân Tông
|
Trần Nhân Tông (1258-1308), vị
vua thứ ba triều Trần, con cả Trần Thánh Tông, lãnh đạo quân và dân Đại Việt
hai lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông (1285-1288), sau nhường ngôi cho
con, đi tu ở núi Yên Tử, trở thành vị Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc Lâm.
|
|
36
|
Nguyễn Khoái
|
Nguyễn Khoái (chưa rõ năm
sinh, năm mất): thế kỷ XIII, sinh trưởng ở đất Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên, có sức
khoẻ phi thường, được vua Trần giao trọng trách chỉ huy quân túc vệ, tham gia
các trận đánh giặc Mông - Nguyên ở Tây Kết, Hàm Tử, Bạch Đằng... có tài thiện
chiến trên bộ, dưới nước; lập chiến công lớn, giải phóng kinh đô Thăng Long.
Ông được vua Trần thưởng công và phong làm “Liệt hầu” - Là tước thời Trần chỉ
để dùng để ban cho người trong hoàng tộc.
|
|
37
|
Nguyễn Hiền
|
Nguyễn Hiền (1235-1256) quê ở
xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất
trong lịch sử khoa thi của nước ta, ông có nhiều kế sách hay phò vua, giúp nước,
đối phó với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La. Ông mộ dân đi khai
hoang phục hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, tạo mùa màng thắng
lợi, Nhân dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng rèn vũ khí, các võ
đường rèn luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược.
|
|
38
|
Trần Nhật Duật
|
Trần Nhật Duật (1255 - 1330),
là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ sáu của
Trần Thái Tông và là một danh tướng của vương triều nhà Trần trong lịch sử Việt
Nam. Ông là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần
thứ hai và thứ ba, đặc biệt là trận Hàm Tử. Ông được triều đình giao đặc
trách những công việc về các dân tộc có liên quan, vì vậy rất am hiểu về
phong tục tập quán và tiếng dân tộc.
|
|
39
|
Trương Hán Siêu
|
Trương Hán Siêu (?-1354), tên
tự là Thăng Phủ, hiệu Đôn Tẩu, là một danh sĩ nổi tiếng đời Trần, kiệt tác
văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng
Giang Phú rất được lưu truyền...Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên
Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh
Bình).
Trương Hán Siêu xuất thân là
môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Ông
tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Năm 1308, ông
được vua Trần Anh Tông bổ Hàn lâm học sĩ. Đời Trần Minh Tông giữ chức Hành
khiển. Sang đời Trần Hiến Tông năm 1339 làm môn hạ hữu ty lang trung, đến đời
Trần Dụ Tông, năm 1342 đổi sang tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng
Giang, rồi thăng tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính
sự.
Năm Quý Tỵ 1353, ông lãnh
quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này yên ổn. Tháng 11
năm sau, ông cáo bệnh xin về nghỉ, nhưng về chưa đến kinh sư thì ông mất. Sau
khi ông mất, vua cho truy tặng hàm thái bảo, năm 1363 truy tặng thái phó và
được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372), ngang với các bậc hiền triết đời
xưa.
|
|
40
|
Nguyễn Trung Ngạn
|
Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
Nguyễn Trung Ngạn sinh năm Kỷ Sửu (1289), mất năm Canh Tuất (1370), lúc nhỏ,
ông nổi tiếng thông minh, được đương thời tôn vinh là “thần đồng”. Năm 12 tuổi,
ông đỗ Thái học sinh, năm 16 tuổi, đỗ Hoàng giáp (học vị Tiến sỹ nho học), là
vị Hoàng giáp đầu tiên của nước ta và cũng là ông tổ khai khoa của làng Thổ
Hoàng, vị Kinh sư đại doãn (chức danh người đứng đầu kinh thành Thăng Long thời
Trần), làm quan tới bậc Tể tướng - đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều.
Ông làm quan trải qua 5 triều vua Trần, xuất sắc trên mọi phương diện chính
trị, quân sự, ngoại giao, luật pháp, sử học... Ông được vua Trần bổ nhiệm giữ
nhiều chức vụ quan trọng. Trong đó năm 1355, ông được thăng Kinh lược sứ trấn
Lạng Giang, Nhập nội Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm viện Khu mật, Đại
học sĩ hầu ở tòa Kinh diên, Trụ quốc, Khai Huyện bá. Về sau, ông làm quan đến
chức Nhập nội Đại Hành khiển (tức Tể tướng), tước Thân Quốc công, đứng đầu
hàng ngũ quan lại trong triều đình. Để tri ân và tôn vinh danh nhân Nguyễn
Trung Ngạn, ngày 22.6.2018, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành quyết định phê duyệt
chủ trương đầu tư xây dựng công trình Đền thờ danh nhân Nguyễn Trung Ngạn tại
thôn Hoàng Cả, thị trấn Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
|
|
41
|
Tuệ Tĩnh
|
Tuệ Tĩnh (1341-1385), tên thật
là Nguyễn Bá Thành, quê phủ Hồng Châu (nay thuộc huyện Cẩm Giàng), tỉnh Hải
Dương; có tài chữa bệnh, được cử sang Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng hậu, bị
lưu lại và mất ở bên đó; là tác giả các bộ sách về thuốc Nam dược thần hiệu
và Hồng Nghĩa Giác tự y thư.
|
|
42
|
Hồ Nguyên Trừng
|
Hồ Nguyên Trừng (1347-1446),
quê ở Thanh Hóa còn có tên là Lê Trừng, hiệu Nam Ông. Dưới triều nhà Trần, Hồ
Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân Tự, Tư Đồ. Sau đó, được cử làm Tả tướng
quốc nhà Hồ, làm quan ở bộ Công khi nhà Minh xâm lược. Ông là nhà kỹ thuật
quân sự, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Ông cũng chỉ
huy xây dựng nhiều công trình đồ sộ thời nhà Hồ. Ngoài ra ông còn là nhà văn
Việt Nam ở thế kỷ 15, là người mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực,
việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.
|
|
43
|
Nguyễn Trãi
|
Nguyễn Trãi (1380 - 1442),
quê quán: huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn
Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi đất nước bị rơi vào sự cai trị của
nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo
chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong
việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.
Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê.
Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di Tam tộc trong vụ
án Lệ chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông.
Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển
của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc
tiêu biểu nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hoá của Việt Nam và thế
giới.
|
|
44
|
Nguyễn Chích
|
Nguyễn Chích (1382-1448), ông
là người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là danh tướng trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn và là trọng thần giữ phần đất phía Nam của triều Lê sơ, được
cho theo họ vua, nên cũng gọi là Lê Chích. Cuối đời Trần, quân Minh xâm chiếm
nước ta, ông chiêu tập nghĩa quân hơn 1000 người, đắp lũy trong vùng động
Hoàng Nghêu làm căn cứ kháng chiến. Sau ông giúp Lê Lợi, làm Nội thiếu úy,
công trận rất nhiều, từng hiến nhiều kế sách rất hay, thu đạt thắng lợi. Cuối
năm 1427, ông cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đánh tan quân Mộc Thạnh ở Lê Hoa..
Cho đến đời nhà Nguyễn, các triều vua vẫn tưởng niệm, liệt ông vào công thần
khai quốc nhà Hậu Lê.
|
|
45
|
- Lê Thái Tổ
- Lê Lợi
|
Lê Thái Tổ (1385-1433) tên
húy là Lê Lợi, là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở
thành vị vua đầu tiên của vương triều nhà Hậu Lê, triều đại dài nhất trong lịch
sử Việt Nam. Năm 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn
Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú… tất cả 50 tướng văn
và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa. Đồng thời ông tự xưng là Bình Định
Vương và kêu gọi Nhân dân đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà
Minh.
|
|
46
|
Lưu Nhân Chú
|
Lưu Nhân Chú (? - 1433), hay
còn gọi là Lê Nhân Chú, người xã An Thuận Thượng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên. Ông là một trong các công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt
Nam. Lưu Nhân Chú tham gia “Hội thề Lũng Nhai” (1416), tham dự khởi nghĩa Lam
Sơn từ buổi ban đầu. Ông tham gia các trận đánh ở ải Khả Lưu, trận thành Tây
Đô, chiến dịch Chi Lăng- Xương Giang, lập nhiều công lao. Sau khi chiến thắng
quân Minh, ông được vua Lê Thái Tổ phong chức Tể tướng, đứng đầu hàng võ,
kiêm coi chính sự nhà nước.
|
|
47
|
Nguyễn Xí
|
Nguyễn Xí (1396-1465), là công
thần khai quốc nhà Hậu Lê. Những năm 1421 và 1422, Nguyễn Xí là một trong những
tướng có công đánh tan cuộc tấn công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo vệ an
toàn Bộ chỉ huy Lam Sơn và lãnh tụ của Lam Sơn là Bình Định Vương Lê Lợi. Năm
1427, ông đã phối hợp với tướng Lê Sát hạ thành, bắt sống các tướng Minh là
Thôi Tụ, Hoàng Phúc, góp phần to lớn vào việc đánh chặn viện binh giặc, tạo
điều kiện cho đại quân hạ thành Đông Quan, giải phóng đất nước vào năm 1427.
Tháng 6.1460, ông cùng đại thần Đinh Liệt, Lê Niệm phế truất Nghi Dân đưa Gia
vương (Lê Thánh Tông) lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Xí được coi là một tướng tài
từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ cho đến Lê Thánh Tông, đem lại nhiều thắng lợi
trên hai mặt trận quân sự và chính trị.
|
|
48
|
Đinh Liệt
|
Đinh Liệt (1400 - 1471), còn
gọi là Lê Liệt. Người thôn Phúc Long, xã Minh Tiến, huyện Ngọc Lặc, tỉnh
Thanh Hóa. Khi còn trẻ Đinh Liệt thường đi theo cận vệ cho Lê Lợi. Những ngày
đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi Chí Linh. Năm
1427, quân Lam Sơn vây Đông Quan (Hà Nội), anh ông là tướng Đinh Lễ bị tử trận.
Lê Lợi bèn phong ông làm Nhập nội thiếu uý Á hầu. Cuối năm 1427, Liễu Thăng
mang viện binh sang, ông được lệnh cùng Lê Sát mang quân lên Chi Lăng, góp sức
diệt địch, chém được Liễu Thăng, đánh tan đạo viện binh. Đầu năm 1428, ông được
phong chức thủ quân thiết đột. Tháng 2 năm 1428, vua Lê Thái Tổ định các mức
khen thưởng cho những hỏa thủ và quân nhân của quân Thiết đột có công lao
siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai gồm 121 người. Đinh Liệt công hạng nhất, được
ban quốc tính, phong Suy trung tán trị hiệp mưu bảo chính công thần, Vinh lộc
đại phu, tả Kim ngô vệ đại tướng quân, tước Thượng trí tự. Ông là một trong số
các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ
XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt:
địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
|
|
49
|
Trần Nguyên Hãn
|
Trần Nguyên Hãn (1420-1429):
người làng Sơn Động, huyện Lập Thạch (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), dòng dõi nhà
Trần. Ông vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, làm tướng lập
nhiều công lớn, thu phục vùng Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan
tham gia đánh thắng trận Xương Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ.
Bình công được phong Tả tướng quốc (1428). Sau bị vua Lê nghi ngờ, ông nhảy
xuống sông tự vẫn, 26 năm sau mới được Lê Nhân Tông minh oan.
|
|
50
|
Lê Lai
|
Lê Lai (?-1418) quê ở xã Kiên
Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Ông tính cương trực, dung mạo khác thường, có chí khí.
Ông hy sinh khi giả làm Lê Lợi để phá vòng vây cho chủ tướng và nghĩa quân
Lam Sơn rút khỏi núi Chí Linh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được
truy tặng là Sùng Trung đồng Đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần. Năm
1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.
|
|
51
|
Lê Sát
|
Lê Sát (? - 1437) là nhà quân
sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn,
huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, và là một trong những công thần khai quốc của thời
Lê sơ. Lê Sát được Đại Việt thông sử mô tả là trí dũng hơn người. Thời kỳ nước
Việt bị nhà Minh đô hộ, năm 1418 Bình Định vương Lê Lợi nổi quân ở Lam Sơn.
Lê Sát theo Lê Lợi trải bao gian hiểm, nhiều lần thắng quân Minh trên các chiến
trường Thanh Hóa, Nghệ An và Đông Đô điển hình như trận Quan Du (1420), trận
Khả Lưu (1424), trận vây hãm Tây Đô (1425), trận vây hãm Đông Quan (1427) và
trận công phá thành Xương Giang. Cuối năm 1427, Lê Lợi phong ông làm Tư mã.
|
|
52
|
Lê Văn Linh
|
Lê Văn Linh (? - 1448), ông
sinh ra cuối thời nhà Trần, nổi tiếng về văn học từ nhỏ. Năm 1418, Lê Lợi
phát động khởi binh chống nhà Minh tại Lam Sơn, Lê Văn Linh là văn thần phò
giúp. Ông là quan văn cùng với Lê Thận, Lê Văn An là những tướng võ luôn đi
sát bảo vệ Lê Lợi. Ông là một trong số các tướng lĩnh có nhiều công lao trong
chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang. Ông là một trong số các tướng lĩnh tiêu biểu
có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền
Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt: Địa điểm Chiến thắng Xương
Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
|
|
53
|
Lương Thế Vinh
|
Lương Thế Vinh (1441-1496)
quê ở xã Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định, ngay từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng
“thần đồng làng Hương”. Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc
văn từ bang giao với nước ngoài. Lương thế Vinh là một nhà giáo dục giỏi. Ông
đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử , đưa việc học xuống tận
nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Đặc biệt, Lương
thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã
biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa
toán đầu tiên ở nước ta. Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng
trong công sở và trong Nhân dân. Dân quý mến gọi ông là Trạng Lường, tức là
ông Trạng giỏi tính toán, đo lường. Lương Thế Vinh còn có những công trình về
âm nhạc nhờ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng
nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội.
|
|
54
|
Lê Thánh Tông
|
Lê Thánh Tông (1442-1497), là
vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông là người đã
đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Trong lúc trị vì,
Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính,
kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông là người xây dựng bộ Luật Hồng Đức. Đây
là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước phát triển mới rất quan trọng của
lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ông được truy tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao
minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.
|
|
55
|
Ngô Sỹ Liên
|
Sống ở thế kỷ XV, người làng
Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây,
tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1442 thi đậu tiến sĩ, làm ở Hàn lâm viện, rồi
giữ chức Đô ngự sử. Năm 1480, dời Hồng Đức, theo lệnh của Lê Thánh Tông, ông
biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Thực lục, trở thành nhà sử học nổi tiếng
ở nước ta.
|
|
56
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585), quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, làm
quan đến Tả Thị lan Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau tám năm làm quan ông
đã lui về ở ẩn, lập am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông mở trường
dạy học bên cạnh sông Hàn, sông ấy còn có tên Tuyết Giang, vì thế học trò tôn
xưng là Tuyết Giang Phu Tử. Học trò của ông rất đông và rất nhiều người trở
thành nhân tài của nước như Trạng nguyên Giáp Hải, Phùng Khắc Khoan… Ông được
phong tước Trình Quốc Công, hàm thượng thư bộ lại hoặc đời còn gọi ông là cụ
Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại tập thơ
chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc
ngữ thi (khoảng 170 bài). Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật
lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát luật đời
bằng những phạm trù triết học.
|
|
D
|
Thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII
|
|
57
|
Phùng Khắc Khoan
|
Phùng Khắc Khoan (1528-1613):
người làng Bùng (Phùng Xá), huyện Thạch Thất, nay thuộc Hà Nội; nổi tiếng
thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, quen gọi là Trạng Bùng. Năm
1550 vào Thanh phù Lê, diệt Mạc. Đỗ hoàng giáp (1580), làm quan thượng thư Bộ
Hội, Bộ Công triều Lê; đi sứ sang nhà Minh (1597), lý lẽ cứng cỏi. Ông còn là
nhà thơ, tác giả tập thơ Nôm Lâm tuyền văn, miêu tả các loài cây cỏ. Ông đem
nghề dệt dạy cho dân vùng quê ông.
|
|
58
|
Đào Duy Từ
|
Đào Duy Từ (1572-1634), quê
huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, con một gia đình nghệ sĩ tuồng vào Đàng Trong chống
họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông giúp chúa Nguyễn đắp lũy Thầy (gồm 2 lũy Trường Dực,
Nhật Lệ) ở Quảng Bình, được coi là Khai quốc công thần. Tác giả Hồ trướng khu
cơ (sách binh pháp), tuồng Sơn Hậu, khúc ngâm Ngọc Long Cương Văn…
|
|
59
|
Nguyễn Đăng Đạo
|
Nguyễn Đăng Đạo (1651- 1719)
quê xã Liên Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ông được mệnh danh là lưỡng quốc
trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử Việt Nam được cả Việt Nam và Trung
Quốc công nhận, ông có tài đối ứng và có nhiều công lao trong việc xây dựng đất
nước và giữ gìn ổn định trên biên giới với các nước láng giềng.
|
|
60
|
Đoàn Thị Điểm
|
Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu
“Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã hay chữ,
từng lên Thăng Long dạy cung nữ trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn Kiều, tiến
sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Bà là tác giả
Truyền kỳ tân phả và dịch giả Chinh phụ ngâm.
|
|
61
|
Hồ Xuân Hương
|
Hồ Xuân Hương được người đời
mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sinh sống ở phường Khán Xuân, thành Thăng
Long vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Bà quê gốc ở làng Quỳnh Đôi,
huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; giỏi thơ Nôm và có tài trào lộng, châm biếm, mang
phong cách riêng biệt khác người, nhiều bài thơ Nôm được truyền tục rộng rãi
trong dân gian.
|
|
62
|
Lê Hữu Trác
|
Hải Thượng Lãn Ông là biệt hiệu
của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng
Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, từng
chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn
như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự.
|
|
63
|
Lê Quý Đôn
|
Lê Quý Đôn (1726-1784), quê ở
thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con tiến sĩ Lê
Phú Thứ, nổi tiếng thần đồng, ông có trí nhớ lạ lùng, tài ứng đối mau lẹ, 14
tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học, sau đó đỗ đầu các kỳ thi Hội
và thi Đình. Khi mất ông được truy phong là thượng thư Bộ công. Về chính trị,
Lê Qúy Đôn thi hành những cải cách, thiết định lại pháp chế, chăm lo đời sống
kinh tế, làm cho dân giàu - nước mạnh, xã hội đạt đến mức thái bình - thịnh
trị. Về văn hoá và văn học, Lê Qúy Đôn đọc sách và chuyên tâm viết sách. Tài
năng, đức độ, trí tuệ, phong cách của Lê Quý Đôn xứng danh là nhà Bác học lớn
của Việt Nam. Lê Quý Đôn đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ, bao quát hầu hết
các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá, địa lý, nông học... Ở lĩnh vực nào,
Lê Quý Đôn cũng nêu cao tinh thần độc lập, sáng tạo và ý thức tự tôn - tự cường
dân tộc.
|
|
64
|
Nguyễn Gia Thiều
|
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798):
người làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, từ bé học trong phủ chúa Trịnh,
thông minh, hiểu nhiều ngành nghệ thuật: nhạc họa, kiến trúc… 18 tuổi làm Hiệu
úy rồi thăng Tổng binh, trấn thủ Hưng Hóa, được phong tước hầu. Tây Sơn thống
nhất đất nước, ông về làng ẩn dật rồi mất. Tác giả Cung oán ngâm khúc nổi tiếng.
|
|
65
|
- Quang Trung
- Nguyễn Huệ
|
Nguyễn Huệ (1752-1792), quê ở
Tây Sơn, Bình Định, năm 1771, ông cùng hai anh là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ phất
cờ khởi nghĩa. Năm 1777, nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn làm căn
cứ địa tiến công giải phóng Đàng Trong. Sau bốn lần giải phóng Gia Định, Nguyễn
Huệ đã tiêu diệt hai vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện tại Rạch Gầm, Xoài
Mút ngày 18-01-1785 đập tan chính quyền phong kiến ở Đàng Trong. Năm 1786,
Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Bắc Hà và mau chóng lật đổ tập đoàn phong kiến họ
Trịnh thống trị đã ba trăm năm, lập lại nhà Lê. Mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789, với
cuộc hành quân thần tốc, ông đập tan và quét sạch hai mươi vạn quân Thanh ra
khỏi bờ cõi, giải phóng Miền Bắc ra khỏi ách xâm lược. Nguyễn Huệ là một anh
hùng dân tộc, không những ông là một thiên tài quân sự mà còn xuất sắc về
chính trị, ngoại giao, kinh tế...
|
|
66
|
Ngô Thì Nhậm
|
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), nhà
văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra Bắc Hà,
trọng dụng cử ông trấn giữ Thăng Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh xâm lược,
ông hiến kế lui quân về Tam Điệp bảo toàn lực lượng, đợi đại quân Tây Sơn ra,
cùng tiến đánh giải phóng kinh thành - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Triều Tây Sơn mất,
ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại; Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về văn, sử,
triết, ngoại giao.
|
|
67
|
Nguyễn Du
|
Nguyễn Du (1765-1820), xuất
thân trong một gia đình quý tộc tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng
Ngãi, nhiều đời làm quan dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Du đã để lại một
di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng
đạt được sự hoàn thiện. Trong đó nổi tiếng nhất là kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn
trường tân thanh) gồm 3.254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm
184 câu viết theo thể song thất lục bát. Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc
với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện
thực mạnh mẽ, sắc bén. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học
Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại
thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.
|
|
68
|
Trịnh Hoài Đức
|
Trịnh Hoài Đức (1765-1825),
còn có tên là Hoài An, tự là Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, quê tỉnh Biên Hòa (nay
thuộc Đồng Nai), đỗ khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn, làm quan tới chức
Thượng thư Bộ hộ, Hiệp Tống trấn thành Gia Định, từng đi sứ sang triều Thanh;
là nhà văn, nhà địa lí, tác giả của Gia Định thành thông chí. Về sáng tác, Trịnh
Hoài Đức là một đại biểu xuất sắc trong nhóm “Gia Định Tam gia thi” hay “Bình
Dương thi xã” (cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh), có tác dụng kích
thích phát triển cho một vùng văn hóa. Ông còn để lại hai tập thơ chữ Hán là
Cấn Trai thi tập (1783- 1819) và tập thơ đi sứ Trung Quốc Bắc sứ thi tập.
|
|
69
|
Nguyễn Công Trứ
|
Nguyễn Công Trứ (1778-1858),
hiệu Ngộ Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông
đỗ giải nguyên (1819), làm tri huyện rồi đến Tổng đốc, Thượng thư nhưng đầy
chìm nổi, có lúc bị cách làm lính. Ông có tài thao lược, có công khai hoang lấn
biển vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; lập ra các huyện mới: Tiền Hải, Kim
Sơn… Ông còn là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều bài ca trù nổi tiếng.
|
|
70
|
Phan Huy Chú
|
Phan Huy Chú (1782-1840), quê
gốc Hà Tĩnh, chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có thực tài, hay chữ, mở trường dạy học và
soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ nhà
Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam rồi bị
cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền sang Nam Dương quần đảo. Tác giả nhiều
sách giá trị: Lịch triều hiến chương loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều
ngâm lục.
|
|
71
|
Nguyễn Văn Siêu
|
Nguyễn Văn Siêu (1799-1872),
tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện
Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên,
rồi về dạy học, lập trường Phương Đình. Ông giỏi văn chương, học rộng, được
người đời gọi là Thần Siêu, cùng với Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi tiếng
thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị và có công tạo đền Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều những câu đối và đại tự do ông viết.
|
|
E
|
Thế kỷ XIX - Thế kỷ XX
|
|
72
|
Nguyễn Tri Phương
|
Nguyễn Tri Phương
(1800-1873), quê ở Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; hồi
trẻ, ông làm thơ lại ở huyện Phong Điền, tiến đến làm thơ lại ở Bộ hộ, sau được
người tiến cử và vua Minh Mạng đã thu dụng ông. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến
Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống đại thần trực
tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã phá hủy một số lớn
đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Ông xây dựng
đồn Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25-10- 1861, Pháp công phá đồn, ông bị
thương, em trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều
đình cách chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày
19-11-1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Giặc Pháp chiếm
thành Hà Nội, chúng bắt được ông trong lúc bị thương nặng, lính Pháp biết về
ông nên cố cứu chữa, nhưng ông đã từ chối. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng
và mất vào 20-12-1873. Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn
Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước.
|
|
73
|
Bà Huyện Thanh Quan
|
Bà Huyện Thanh Quan
(1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, Hà Đông, Hà Nội.
Bà nổi tiếng về tài làm thơ. Thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được
vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho công chúa
và các cung nhân. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê và đưa bốn
con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Tác phẩm bà đã để lại gồm
6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như:
Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Quốc, qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ
nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh Hương sơn.
|
|
74
|
Cao Bá Quát
|
Cao Bá Quát (1808-1855), tự
Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân, làm
Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương (nay
là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn 1300
bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người đời tôn ông là “Thánh Quát”.
|
|
75
|
Trương Định
|
Trương Định (1820-1864) quê ở
Gò Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn
1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đánh
thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây Mai, Thị Nghè... Đầu năm 1861, Pháp
tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với quân của tướng
Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ,
ông lui về Gò Công, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây, Trương Định tổ
chức lại lực lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn,
Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
|
|
|
|
|
|
76
|
Nguyễn Đình Chiểu
|
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888),
quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế; tục gọi là Đồ Chiểu, xuất thân trong gia
đình nhà nho. Ông là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế
kỷ 19. Ông làm nghề dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình phục
vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã
mù lòa. Ông là người thầy mẫu mực, là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều
tác phẩm có giá trị: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc…
|
|
77
|
Nguyễn Trường Tộ
|
Nguyễn Trường Tộ (1830
-1871), quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là trí thức, nhà cải cách
xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19, có tài năng xuất chúng. Ông có lòng yêu nước thiết
tha, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ có thể canh tân đất nước theo mô hình Nhật Bản.
Ông nhiều lần gửi các bản điều trần cho triều đình nhà Nguyễn, cử sứ bộ đi
các nước tranh thủ sự ủng hộ, đánh úp Pháp ở sáu tỉnh Nam Bộ... Tên ông được
đặt cho nhiều tên đường phố ở Việt Nam.
|
|
78
|
Hoàng Diệu
|
Hoàng Diệu (1832-1882), quê ở
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội -
Ninh Bình). Pháp đánh thành Hà Nội (25/4/1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc chiến
đấu tới cùng. Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết. Tượng đồng
của ông và Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành phố Hà Nội để ghi nhớ
hai ông đã hy sinh chống thực dân Pháp.
|
|
|
|
79
|
Nguyễn Khuyến
|
Nguyễn Khuyến (1835-1909): hiệu
Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tam trường
nên gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Làm quan triều Nguyễn ở nhiều nơi, sau tới chức
Học sĩ sung Quốc sử quán Toản tu. Triều Nguyễn đầu hàng Pháp, ông cáo quan về
quê. Nhà thơ hiện thực và trào lộng nổi tiếng, để lại nhiều thơ hay.
|
|
80
|
Hoàng Hoa Thám
|
Hoàng Hoa Thám (1836 -1913),
quê ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; năm 16 tuổi, ông tham gia khởi
nghĩa của Đại Trận (1870-1875). Khi Pháp chiếm Bắc Ninh (3/1884) Hoàng Hoa
Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh, rồi nghĩa
quân của Hoàng Đình Kinh (1882-1888), sau đó ông đứng dưới cờ nghĩa Lương Văn
Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài. Tháng 4/1892, Đề Nắm bị
thủ hạ Đề Sặt sát hại và Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong
trào Yên Thế. Trong ba năm (1893-1895) giặc Pháp đã tập trung lực lượng để
đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Hoàng Hoa Thám bằng chiến thuật du kích tài
tình đã đã gây cho giặc những tổn thất nặng nề. Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc
khởi nghĩa ngày 27/6/1908 của binh lính yêu nước ở Hà Nội (gọi là vụ Hà thành
đầu độc), sự kiện làm chấn động khắp cả nước. Cuối tháng 12/1912, Lương Tam Kỳ,
một tên trùm thổ phỉ đã đầu hàng Pháp, cùng với bọn chỉ điểm sát hại Hoàng
Hoa Thám ngày 10/02/1913.
|
|
81
|
Tống Duy Tân
|
Tống Duy Tân (1837- 1892), quê
quán: xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà yêu nước kháng
Pháp. Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh
Hoá, sau làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hoá,
có lúc ông từ quan về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất thủ, ông hưởng
ứng phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập căn cứ và trở
thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân của ông bị
Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra Bắc, lúc chạy
vào Hồng Lĩnh; một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách ghi là Lễ) làm
phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành quyết ông vào
ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất ông có câu đối:
"Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn truyền".
|
|
82
|
Nguyễn Trung Trực
|
Nguyễn Trung Trực
(1838-1868), người phủ Tân An, tỉnh Đình Tường (nay thuộc Long An); còn có
tên Nguyễn Văn Lịch - một nông dân kiêm ngư nghiệp; hăng hái chống Pháp khi
chúng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ; từng đánh đắm chiếm hạm Hy Vọng (Espérence)
trên sông Vàm Cỏ (1861); được giao trấn thủ Hà Tiên. Pháp chiếm xong Nam Kỳ,
ông lập căn cứ ở Hòn Chuông tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị Pháp bắt và đem
hành hình ở Rạch Giá. Ông để lại câu nói nổi tiếng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ
nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
|
|
83
|
Tôn Thất Thuyết
|
Tôn Thất Thuyết (1839-1913),
quê ở Thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế, là danh tướng, nhà yêu
nước. Năm 1869, ông làm án sát Hải Dương, Tán tương Quân thứ Thái nguyên, Tán
lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên. Ông được phong làm Hữu Tham tri Bộ binh, tước
Nam. Ông ráo riết chuẩn bị chống Pháp. Ông có công rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng
Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh mở đầu phong trào Cần Vương kháng Pháp.
|
|
84
|
Phan Đình Phùng
|
Phan Đình Phùng (1847-1895),
người làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ năm 1877, làm quan
Ngự sử triều Nguyễn. Năm 1883 bị cách chức vì không ủng hộ Tôn Thất Thuyết phế
vua Dục Đức lập Hiệp Hòa. Ông về quê theo Hàm Nghi mộ quân Cần Vương, lãnh chức
Hiệp thống quân vụ. Nghĩa quân của ông hoạt động khắp vùng núi Hương Sơn,
Hương Khê, duy trì cuộc kháng chiến gần 10 năm, đánh Pháp, Ông mất tại căn cứ
Núi Quạt, trong dãy Trường Sơn.
|
|
85
|
Lương Văn Can
|
Lương Văn Can (1854-1927),
người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, đỗ cử nhân không ra làm quan,
là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động được chín
tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ kết án ông 10 năm biệt xứ sang
Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.
|
|
86
|
Cao Thắng
|
Cao Thắng (1864-1893), quê ở
làng Yên Đức, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tham gia khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng chỉ huy năm 1885, ông hy sinh trong một trận đánh đồn Pháp ở
Thanh Chương (Nghệ An). Ông được cụ Phan Đình Phùng tin cẩn giao trách nhiệm
chỉ huy quân sự. Nhờ có Cao Thắng, nghĩa quân trưởng thành nhanh chóng, mở rộng
địa bàn, thanh thế vang dội ở 4 tỉnh miền Trung. Đặc biệt, Cao Thắng đã tìm mọi
cách chế tạo được súng trường để trang bị cho nghĩa quân. Súng của Cao Thắng
chế tạo làm cho các sĩ quan Pháp và kỹ sư Âu châu phải kinh ngạc.
|
|
87
|
Phan Bội Châu
|
Phan Bội Châu (1867 -1940),
quê xã Xuân Hòa, Nam Đàn, Nghệ An Năm 1900, ông đỗ thủ khoa giải Nguyên trường
Nghệ. Năm 1904, ông thành lập hội Duy Tân chủ trương dùng vũ trang bạo động
và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp. Năm 1905, ông tổ chức cho 200 thanh
niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập. Năm 1911, ông đã thành lập “Việt
Nam quang phục hội”, mà tôn chỉ duy nhất là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục
nước Việt Nam”. Hội cử người về nước hoạt động đã gây nên một số vụ bạo động
vũ trang nhằm lay tỉnh hồn nước. Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc
đem về nước, bị đưa ra tòa án đề binh Hà Nội xét xử. Nhân dân cả nước đã bùng
nổ phong trào “bãi khóa, bãi công, bãi thị”. Thực dân Pháp buộc phải tha bổng,
song chúng đem ông về Huế an trí, sống trong cảnh “cá chậu, chim lồng”, ông vẫn
vươn lên, hy vọng tiếp tục hoạt động yêu nước. Ngày 29/10/1940, ông mất tại
nhà tranh ở dốc Bến Ngự - Huế.
|
|
88
|
Trần Tế Xương
|
Trần Tế Xương (1870-1907) tên
thật Trần Duy Uyên, quê huyện Mỹ Lộc, Nam Định; có tài văn thơ nhưng đi thi 8
lần mà chỉ đỗ Tú tài nên thường gọi là Tú Xương; nổi tiếng với thơ trào
phúng, là tác giả Vị Xuyên thi văn tập.
|
|
89
|
Hàm Nghi
|
Hàm Nghi (1871-1943), là con
thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng
đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong Lịch sử Việt
Nam. Cùng với các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị vua yêu
nước trong thời kỳ Pháp thuộc.
|
|
|
|
|
90
|
Phan Châu Trinh
|
Phan Châu Trinh (1872-1926),
quê ở Quảng Nam. Năm 28 tuổi Phan Châu Trinh đỗ Cử nhân (1900), 29 tuổi đỗ
Phó bảng (1901. Năm 1902, Phan Châu Trinh được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm
làm Thừa Biện (một chức quan nhỏ) Bộ Lễ và đến năm 1904 ông xin từ quan. Năm
1905, Phan Châu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu cuộc
vận động duy tân ở Quảng Nam với 3 mục tiêu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh. Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước, Nhân dân Sài Gòn nhất là học
sinh nồng nhiệt chào đón cụ. Khi Phan Bội Châu bị Hội đồng đề hình Pháp xử mức
án “khổ sai chung thân”, Phan Châu Trinh gửi điện cho Toàn quyền Đông Dương đề
nghị ân xá cho Phan Bội Châu. Tháng 11-1925, Phan Châu Trinh diễn thuyết tại
nhà Hội thanh niên Sài Gòn về “Đạo đức luân lý Đông - Tây”; “Quân trị chủ
nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.
|
|
91
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947):
nhà chí sĩ, nhà văn, quê huyện Thăng Bình (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng
Nam, Đỗ hoàng giáp, không ra làm quan, đứng đầu phong trào Duy Tân ở Trung kỳ
đầu thế kỷ XX. Phong trào chống sưu thuế nổ ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo
13 năm, trở về là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, làm báo Tiếng dân. Sau
Cách mạng tháng Tám, ông làm Bộ trưởng Nội vụ, quyền Chủ tịch nước khi Bác Hồ
sang Pháp, sáng lập và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Tác giả
các sách Thi tu tùng thoại, Thi tù thảo, Trung Kỳ cựu u ký.
|
|
92
|
Đội Cấn
|
Trịnh Văn Cấn (1881-1918),
quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) làm đội lính khố
xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị giam ở đó) giác ngộ, phát động
khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30/8/1917; bị Pháp đàn áp rút quân vào rừng Vĩnh
Yên, thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.
|
|
93
|
Tôn Đức Thắng
|
Tôn Đức Thắng (1888-1980),
quê ở xã Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Năm 1927, ông tham
gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, bị thực dân Pháp bắt và đầy ra Côn Đảo.
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1946 - 1980, ông giữ
nhiều chức vụ quan trọng: Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch
Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương, Trưởng ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ
Nội Vụ, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam. Ông được tặng thưởng Huân
chương Sao Vàng (1958), Huân chương Xu khe bato - huân chương cao quý nhất của
Mông Cổ (năm 1978). Ông cũng là người đầu tiên được nhận giải thưởng Hoà bình
Quốc tế Lênin.
|
|
|
|
94
|
Bùi Bằng Đoàn
|
Bùi Bằng Đoàn có tên gọi là Mộ
Trần (1889-1955), quê quán tại Làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay
thuộc thành phố Hà Nội). Năm 1945, ông tham gia Ban Cố vấn Chủ Tịch nước,
thành viên Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết đất nước; Trưởng ban Thanh
tra đặc biệt của Chính phủ (1946). Từ năm 1946-1948, ông làm Trưởng ban Thường
trực Quốc hội, ở và làm việc tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên
Quang.
|
|
95
|
Võ Văn Tần
|
Đồng chí Võ Văn Tần (1891 -
1941), quê ở làng Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long
An). Từ năm 1930 - 1931, đồng chí trực tiếp tham gia và phụ trách các cuộc biểu
tình ở Chợ Lớn, tỉnh Gia Định đòi tăng lương, giảm giờ làm. Đồng chí đã đảm
nhiệm chức vụ như: Bí thư Tỉnh ủy Gia Đình; Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Ngày
28/8/1941, đồng chí bị thực dân Pháp xử bắn công khai tại khu giếng nước (nay
là bệnh viện) Hóc Môn.
|
|
96
|
Hồ Chí Minh
Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Tất Thành
|
Tên khai sinh là Nguyễn Sinh
Cung, còn có tên là Nguyễn Tất Thành, con trai thứ hai của cụ Nguyễn Sinh Sắc
và bà Hoàng Thị Loan; quê làng Kim Liên, nay là xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Đổi tên là Nguyễn Ái Quốc (cùng nhiều bí danh khác) để hoạt động
cách mạng ở nước ngoài. Cuối cùng lấy tên là Hồ Chí Minh. Lúc nhỏ học chữ
Hán, được gần gũi các nhà chí sĩ Duy Tân, sau vào học Trường Quốc học Huế, dạy
học Trường Dục Thanh ở Phan Thiết, vào Sài Gòn rồi ra đi tìm đường cứu nước
vào ngày 05/6/1911 trên tàu La Touch Treville. Người hoạt động cách mạng ở
nhiều nước trên thế giới, nhưng lâu nhất là ở các nước Pháp, Nga, Trung Quốc.
Từ sau Đại chiến II, Người bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), lập
Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921) và chủ bút báo Người cùng khổ (Le
Paria). Năm 1923, sang Liên Xô, về Trung Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí hội và Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (1924).
Năm 1927, trở sang Liên Xô rồi về Thái Lan (1928), Hương Cảng (1930), hợp nhất
03 Đảng Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau là Đảng Cộng sản Đông
Dương. Năm 1941, về nước thành lập Mặt trận Việt Minh. Đến ngày 19/8/1945,
lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (02/9/1945), được bầu là Chủ tịch nước cho đến khi mất (02/9/1969). Hồ
Chí Minh là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Ở trong nước,
Người đã chỉ đạo tài tình công cuộc giải phóng dân tộc và hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Người là hiện thân cho sự đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam, đồng thời cũng là hiện thân của sự đoàn kết các dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Người là nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc, là nhà văn hóa lớn, được
UNESCO tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất - danh
nhân văn hóa thế giới”. Hồ Chí Minh đã đi vào tình cảm của Nhân dân trong nước
và trên thế giới như một nhân vật huyền thoại. Người cũng là một nhà thơ lớn
với tác phẩm bất hủ Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký) viết bằng chữ Hán,
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
|
|
97
|
Ngô Tất Tố
|
Ngô Tất Tố (1894-1954), nhà
báo, nhà văn hiện đại, người làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Ông đỗ đầu xứ nhưng bỏ nho học, đi làm báo, viết văn dịch thuật. Những tác phẩm
nổi tiếng trước Cách mạng như Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng… cùng với bài báo
bình luận xuất sắc ký nhiều bút danh; những sách nghiên cứu phê bình như Nho
giáo, Lão tử, Mặc Tử; dịch thơ văn Hán - Nôm và truyện Trung Quốc, đã đưa ông
thành cây bút hiện thực lớn. Ông tham gia Văn hóa cứu quốc, đi kháng chiến chống
Pháp, làm báo cách mạng và mất tháng 4-1954 tại Yên Thế, Bắc Giang.
|
|
98
|
Hồ Tùng Mậu
|
Hồ Tùng Mậu (1896-1951), quê làng
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự, tham gia
cách mạng từ sớm, hoạt động ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Viết báo Thanh niên.
Năm 1926 vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu, bị bắt ba lần,
tham gia hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản. Năm 1931 bị bắt giải về nước
giam ở Tây Nguyên. Ông vượt trại về hoạt động ở miền Trung. Ông đã giữ các chức
vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu IV, Tổng Thanh tra Chính
phủ, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Ông hy sinh trên đường đi
công tác ở Thanh Hóa.
|
|
99
|
Dương Quảng Hàm
|
Dương Quảng Hàm (1898-1946),
quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông dạy
học 25 năm ở trường Trung học Bảo hộ (Bưởi). Sau Cách mạng tháng Tám làm Tổng
thanh tra Trung học vụ, Hiệu trưởng trường Chu Văn An. Giáo sư đi tiên phong
trong xây dựng nền văn học sử nước nhà. Tác giả bộ sách quý Việt Nam văn học
sử yếu (1942). Ông hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội
(12/1946) và được truy tặng là liệt sĩ.
|
|
|
|
100
|
Hồ Đắc Di
|
Hồ Đắc Di (1900-1984), là bác
sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm hiệu trưởng
trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Kháng chiến, ông theo Chính phủ Cụ
Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường Đại học Y của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc nhiều cán bộ y tế giỏi. Ông là đại
biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa.
Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
|
101
|
Phùng Chí Kiên
|
Phùng Chí Kiên (1901-1941),
tên thật là Nguyễn Vĩ, quê xã Mỹ Quang Thượng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An,
được giác ngộ cách mạng rất sớm. Năm 1926 ông sang Quảng Châu dự huấn luyện
do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi theo học trường Võ bị Hoàng Phố, gia nhập quân
cách mạng Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu (12/1927) do Đảng Cộng sản Trung
Quốc lãnh đạo. Năm 1931 học Đại học Phương Đông (Liên Xô). Năm 1934 tham gia
chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Năm 1935 được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936 vận động
thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh hội ở Trung Quốc.Năm 1941 cùng với Chủ tịch
Hồ Chí Minh về Pắc Bó, chỉ đạo căn cứ Bắc Sơn (Cao Bằng), chỉ huy trung đội cứu
quốc quân số 1. Ông bị Pháp bắt và giết hại ở Ngân Sơn tháng 8/1941, sau được
truy phong quân hàm cấp tướng.
|
|
102
|
Hà Huy Tập
|
Hà Huy Tập (1902-1941) quê ở
Hà Tĩnh, tham gia cách mạng, học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva, tham
dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ nhất ở Ma Cao được bầu là Ủy
viên Trung ương Đảng rồi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông về Sài Gòn
lãnh đạo phong trào cách mạng, năm 1938, ông bị Pháp bắt giam. Sau cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ thất bại (11-1940) ông bị Pháp bắt lần thứ hai, chúng xử bắn ông
và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần…Hà
Huy Tập tích cực đấu tranh tuyên truyền cho Đảng Cộng sản. Ông đã viết Sơ thảo
lịch sử phong trào Cộng sản Đông Dương bằng tiếng Pháp, ký tên là Hồng Thế
Công (1932). Năm 1937, ông viết cuốn Tơ-rốt-xki và phản cách mạng, ký tên
Thanh Hương. Ông cộng tác với báo La lutte (1937).
|
|
103
|
Nguyễn Thái Học
|
Nguyễn Thái Học (1902-1930),
quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc năm 1927 tại Nam Đồng Thư xã (Hà Nội),
ông đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng theo chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên. Tức là phấn đấu: Dân tộc độc lập - Dân quyền
tự do - Dân sinh hạnh phúc. Đường lối chiến lược của Đảng là: Trước làm cách
mạng Quốc gia, sau làm cách mạng Thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn Việt
Nam Quốc dân Đảng đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp các tỉnh ở Bắc kỳ, do tổ
chức thiếu chặt chẽ nên cuộc vận động quần chúng của Việt Nam Quốc dân Đảng gặp
nhiều trở ngại. Trước tình hình đó Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của mình
chủ trương bạo động cách mạng với phương châm: “Không thành công thì thành
nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn
Thái Học, phong trào bạo động chống Pháp ở các tỉnh đã nổ ra mà đỉnh cao là
khởi nghĩa Yên Bái vào đêm 9, rạng ngày 10/2/1930. Việt Nam Quốc dân Đảng và
khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong bể máu. Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bị
giặc Pháp bắt và hành hình. Phong trào bị dập tắt. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã
được Chính phủ truy tặng Liệt sỹ và bằng Tổ quốc ghi công.
|
|
104
|
Phan Đăng Lưu
|
Phan Đăng Lưu (1902-1941),
quê ở Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là nhà hoạt động cách mạng nổi
tiếng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông được bầu làm Uỷ viên thường vụ tổng bộ
phụ trách tuyên huấn Tân Việt Cách mạng Đảng, có những đóng góp xuất sắc vào
các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì, đồng thời viết nhiều
sách lí luận chính trị, văn học. Năm 1939, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương.
|
|
105
|
Lê Hồng Phong
|
Lê Hồng Phong (1902-1942),
tên thật là Lê Huy Doãn, quê xã Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Ông được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu học trường Hoàng Phố - Trung Quốc, tốt
nghiệp Sĩ quan lục quân, sang Liên Xô học trường Không quân Lêningrat, Đại học
Phương Đông, phụ trách Ban Hải ngoại của Đảng, đại biểu dự Đại hội VII Quốc tế
Cộng sản được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tại Đại
hội I Đảng Cộng sản Đông Dương, ông được cử là người đứng đầu Ban Chấp hành
Trung ương. Về Sài Gòn lãnh đạo phong trào, bị địch bắt, ông bị đày ra Côn Đảo
và hy sinh.
|
|
106
|
Đặng Thai Mai
|
Đặng Thai Mai (1902-1984) quê
Lương Điền (nay là xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, Nghệ An). Năm 1928, Đặng
Thai Mai bắt đầu dạy ở trường Quốc học (Huế), sau ra Hà Nội mở trường Thăng
Long, lập Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo công khai của Đảng. Sau cách mạng,
ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc hội khóa I, Viện trưởng Viện Văn
học, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông còn là một nhà
giáo có uy tín với thế hệ trí thức mới nửa sau thế kỷ XX. Ông là nhà nghiên cứu
văn hóa, sử học, triết học… có nhiều tác phẩm giá trị. Ông được Nhà nước truy
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
|
|
107
|
Nguyễn Phong Sắc
|
Đồng chí Nguyễn Phong Sắc
(1902 - 1931), quê ở làng Bạch Mai, ngoại thành Hà Nội (nay là số nhà 152 phố
Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội). Tháng 6/1929, đồng chí tham
gia sáng lập Đông Dương Cộng sản Đảng, được phân công phụ trách khu vực Trung
Kỳ. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, đồng chí là Uỷ
viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Tháng 10/1930, đồng chí là Ủy viên
Trung ương và Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục phục trách
Trung Kỳ. Ngày 03/05/1931, đồng chí Nguyễn Phong Sắc bị bắt và hy sinh ngày
25/5/1931.
|
|
108
|
Võ Văn Ngân
|
Đồng chí Võ Văn Ngân (1902
-1938), quê ở làng Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc xã Đức Hòa
Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Năm 1930, đồng chí được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí đã từng giữ các
chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ.
|
|
109
|
Lương Khánh Thiện
|
Đồng chí Lương Khánh Thiện (1903
- 1941 ), quê ở làng Mễ Tràng, xã Liêm Chính, huyện Thanh Liêm (nay thuộc phường
Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Tháng 6/1929, đồng chí bị địch bắt,
sau đó được thả tự do và tiếp tục tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Đồng
chí đã đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư lâm thời Xứ ủy Bắc Kỳ; Bí thư Thành ủy
Hà Hội, Hải Phòng, Bí thư Liên khu B. Tháng 01/1941, đồng chí bị mật thám
Pháp bắt và xử bắn tại trường bắn Kiến An, Thành phố Hải Phòng.
|
|
110
|
Trần Phú
|
Trần Phú (1904-1931), quê huyện
Đức Thọ, Hà Tĩnh; đỗ đầu Cao đẳng Tiểu học (1922), dạy ở trường Tiểu học Cao
Xuân Dục, tham gia hội Phục Việt (sau đổi là Tân Việt), được cử sang Quảng
Châu (1926) rồi sang học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Tháng 4/1930,
về nước được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (hội
nghị ở Hương Cảng tháng 10/1930), soạn thảo bản Luận cương Chính trị đề ra đường
lối cho cách mạng Việt Nam. Tháng 4/1931, bị địch bắt, tra tấn dã man và mất
tại nhà thương Chợ Quán khi mới 27 tuổi (06/9/1931).
|
|
111
|
Đào Duy Anh
|
Đào Duy Anh (1904-1988), quê
quán Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm 1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với
cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau
Cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ,
Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật
Việt Nam được ghi tên vào Bộ từ điển Larousse với tư cách là một Nhà bách
khoa toàn thư của thời hiện đại. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm
2000.
|
|
112
|
Nguyễn Lương Bằng
|
Nguyễn Lương Bằng
(1904-1979), quê quán thôn Đông, xã Đoàn Lâm (nay là xã Thanh Tùng) huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, ông còn có bí danh Anh Cả hoặc Sao Đỏ. Trước Cách
mạng Tháng Tám, ông được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, theo
học lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hướng
dẫn và được kết nạp vào An Nam cộng sản Đảng. Năm 1943, ông được chỉ định làm
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác tài chính
và công tác binh vận, đồng thời giữ chức Chủ nhiệm của Tổng bộ Việt Minh.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông
công tác tại nhiều địa điểm của tỉnh Tuyên Quang, giữ các chức vụ: Trưởng ban
Kinh tế - Tài chính Trung ương; Tổng Giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam, Phó
Chủ tịch nước, Tổng thanh tra Chính phủ…
|
|
113
|
Hoàng Quốc Việt
|
Hoàng Quốc Việt (1905-1992),
quê ở Đáp Cầu, tỉnh Bắc Ninh tên thật là Hạ Bá Cang. Ông tham gia cách mạng từ
năm 1925. Năm 1930, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân
dân tối cao, Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Trung, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu quốc hội từ khoá V, VI,
VII, VIII. Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.
|
|
114
|
Tô Ngọc Vân
|
Tô Ngọc Vân (1906-1954), quê ở
làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên; sinh ở Hà Nội, học khóa II trường Mỹ thuật
Đông Dương (1925-1931), sau trở thành giáo sư hội họa của trường. Ông tham
gia hoạt động bán công khai trong Mật trận Việt Minh, sau Cách mạng tháng Tám
là một trong những họa sĩ đầu tiên được vào vẽ Bác Hồ. Ông mất trong kháng
chiến chống pháp, sau 28 năm cống hiến cho hội họa Việt Nam hiện đại; để lại
nhiều tác phẩm sơn dầu giá trị, được lưu giữ trong các bảo tàng quốc gia và
thế giới. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
|
115
|
Phạm Văn Đồng
|
Phạm Văn Đồng (1906-2000),
quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, năm 1926-1929, ông gia nhập
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Sau đó, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù ở Côn Đảo. Ông đảm nhiệm
nhiều chức vụ quan trọng: Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thủ tướng chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà (1955 - 1976), Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam (1976-1987). Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân
chương khác của Liên Xô, Lào, Campuchia, Cuba…
|
|
116
|
Trường Chinh
|
Đồng chí Trường Chinh tên thật
là Đặng Xuân Khu (1907-1988), quê quán tại thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện
Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Tại Tuyên Quang, năm 1947, ông làm việc tại Bản
Chương, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1948, ông ở, làm việc tại Đồng Man - Lũng Tẩu xã Tân Trào, huyện Sơn
Dương. Từ năm 1950 đến năm 1951, ông ở, làm việc tại thôn khuôn Miềng, xã
Kiên Đài, huyện Chiêm Hóa. Tháng 2/1951, ông dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
II tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa và được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Lao động
Việt Nam. Từ tháng 4/1951 đến cuối năm 1953, ông ở, làm việc tại Đồng Man,
làng Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Từ đầu năm 1954 đến tháng 8/1954,
ông ở, làm việc tại thôn Khuôn Điển, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn. Tại đây, Tổng
Bí thư Trường Chinh thay mặt Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị "Ra sức phá
tan âm mưu đẩy mạnh chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp"; chỉ đạo thắng
lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
|
|
117
|
Lê Duẩn
|
Lê Duẩn (1907-1986), quê ở
làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1930, gia
nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt, bị giam tại
các nhà tù: Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo. Từ 1946 - 1957, ông từng giữ các chức vụ:
Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ và được phân công lãnh đạo cách mạng miền Nam. Năm 1982,
ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, giữ chức Tổng Bí
thư đến khi mất. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều
huân chương khác.
|
|
118
|
Phó Đức Chính
|
Phó Đức Chính (1908-1930),
quê ở làng Đa Ngưu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên; một trong những người
cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc khởi nghĩa tháng
2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Thông (Sơn Tây), nhưng không thành.
Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết án tử hình. Ông bị xử chém cùng với thủ
lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại Yên Bái ngày 17/6/1930.
|
|
119
|
Nguyễn Đức Cảnh
|
Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932),
quê ở Thái Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngày 28/7/1929,
thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 03/02/1930 là đại biểu Đông Dương Cộng
sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối 1930 được bầu vào
Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt xử chém. Nguyễn Đức
Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống hiến đối với sự ra
đời của tổ chức công đoàn và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
|
|
120
|
Hà Huy Giáp
|
Hà Huy Giáp (1908 - 1995):
Ông quê xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1927, ông được kết nạp
vào Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, năm 1928 - 1929 vào Nam Kì dạy học tại
Sa Đéc học đường và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia chủ trương
"vô sản hóa" ở Đồng Tháp Mười, Cần Thơ. Năm 1930, ông được bầu vào
Xứ ủy Nam kỳ, rồi ủy viên Thường vụ Xứ ủy phụ trách tuyên huấn. Năm 1931, bị
địch bắt tại Sài Gòn và bị xử án chung thân đày ra Côn Đảo. Năm 1936 được trả
tự do, trở về hoạt động ở nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh), lãnh đạo công
nhân đấu tranh, đình công đòi quyền lợi kinh tế... Ông bị Pháp bắt lại và xử
3 năm tù ngồi và 3 năm quản thúc. Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ hai, ông
được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách tuyên
huấn của Trung ương cục miền Nam. Từ năm 1956 đến năm 1987, ông đã giữ các chức
vụ: Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Ủy viên
Trung ương Đảng khóa III, Bí thư Đảng đoàn Bộ Văn hóa và Hội Văn nghệ, Phó
trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ
Chí Minh. Năm 1982, ông được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh
|
|
121
|
Nguyễn Sơn
|
Nguyễn Sơn (1908-1956) là một
trong những người được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu
tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955
nên còn được gọi là "Lưỡng quốc tướng quân". Năm 1925, ông gia nhập
"Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành một trong
những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó,
ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng
của Nhân dân Quảng Châu và học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 11 năm 1945,
ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa như: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam, Tư lệnh
kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng
Ngãi, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên
khu 4. Năm 1948, ông được Nhà nước phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong
quân hàm đầu tiên. Ông mất năm 1956 và sau đó được Nhà nước truy tặng Huân
chương Hồ Chí Minh.
|
|
122
|
Nguyễn Văn Huyên
|
Nguyễn Văn Huyên (1908-1975):
hiệu Huy Vân, sinh tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà
Đông (nay là Hà Nội); tiến sĩ văn khoa, cử nhân luật, giáo sư sử học, từng
làm Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ (1945), Bộ trưởng Bộ Giáo dục
(1946-1975); Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; sáng lập Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam; để lại nhiều tác phẩm nghiên cứu văn, sử. Ông là người Việt
Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ khoa văn trường đại học Xoóbon (Pháp).
|
|
123
|
Ngô Gia Tự
|
Ngô Gia Tự (1908-1935), quê ở
Bắc Ninh, ông được Đảng kỳ bộ Bắc Kỳ chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh. Cuối năm 1928,
ông vào Sài Gòn hoạt động. Ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản
Việt Nam ở Nam Kỳ. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại Sài Gòn, đến tháng
5/1933 thì chúng đày ông ra Côn Đảo.
|
|
124
|
Phạm Ngọc Thạch
|
Phạm Ngọc Thạch (1909-1968),
quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; tốt
nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp (1934), năm 1936, ông là hội viên duy nhất
ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở bệnh viện
tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm 1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng sản và
tham gia phong trào cách mạng, phong trào Mặt trận Bình dân, khởi nghĩa tháng
Tám được cử vào Ủy ban Nhân dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954 ra Bắc, làm Bộ
trưởng Y tế (1958), Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam. Tác giả của vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực tế phục vụ chiến
trường, năm 1968 ông trở về Nam và mất trong vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ
vì bệnh sốt rét ác tính ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có nhiều công trình
nghiên cứu chuyên môn có giá trị về bệnh lao. Các luận văn viết bằng tiếng nước
ngoài của ông đã được đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest (1961), New Delhi
(1957), Moscow (1958) và Paris (1968).
|
|
125
|
Chu Văn Tấn
|
Thượng tướng Chu Văn Tấn
(1909-1984) sinh tại xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Ông là một
tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng là Chỉ huy phó Đội Cứu quốc
quân 1, nguyên là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, là một trong 9 Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân
Việt Nam được phong năm 1948 và cũng là một trong 2 Thượng tướng đầu tiên.
Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng: là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I, II và III (1945
- 1976), Phó chủ tịch Quốc hội…
|
|
126
|
Trần Đăng Ninh
|
Trần Đăng Ninh (1910-1955):
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn ngày 27 tháng 9 năm 1940 đã giành được thắng lợi có ý
nghĩa lớn là đập tan được chính quyền địch ở Châu lỵ Bắc Sơn. Nhưng do điều
kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc đó, các đồng chí lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không
tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên mạnh mẽ. Trước tình hình đó, ngày
14 tháng 10 năm 1940 xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh đến Bắc Sơn để
phổ biến chỉ thị của Xứ ủy Bắc Kỳ và thực hiện Nghị quyết của cuộc họp tại
Sai Khao (xã Vũ Lăng) là tổ chức mít tinh tại làng Đon (xã Vũ Lăng), đồng chí
Trần Đăng Ninh thay mặt xứ ủy Bắc Kỳ tuyên bố thành lập Đội du kích Bắc Sơn
và kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ Đội, tiếp tục đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa.
Ngày 28 tháng 10 năm 1940 nhân dân các xã Hữu Vĩnh, Ngư Viễn, Vũ Lăng, Vũ Lễ,
Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Gia Hòa, Trấn Yên…tổ chức tuần hành từ Nam Nhi đến
trường Vũ Lăng họp mít tinh. Đồng chí Trần Đăng Ninh đã diễn thuyết, vạch trần
tội ác của bọn đế quốc Pháp, phát xít Nhật và động viên nhân dân tích cực ủng
hộ cách mạng. Đồng chí Trần Đăng Ninh đã có nhiều công lao trong công cuộc tổng
khởi nghĩa giành chính quyền và đã trở thành một cán bộ cao cấp của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
|
|
127
|
Trần Văn Cẩn
|
Trần Văn Cẩn (1910-1994), quê
Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham gia
tích cực các hoạt động hội họa phục vụ kháng chiến và giảng dạy; một trong những
họa sĩ tiêu biểu trong nền mĩ thuật hiện đại Việt Nam, từng là Hiệu trưởng
trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ thuật Đức; để lại
nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em Thúy, Gội đầu, Xuống đồng… Với những đóng góp to
lớn, Trần Văn Cẩn đã được trao nhiều huân chương cao quý, trong đó có Huân
chương Lao động hạng nhất. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về
văn học nghệ thuật (1996).
|
|
128
|
Đặng Văn Ngữ
|
Đặng Văn Ngữ (1910-1967),
giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà khoa học xuất sắc để lại nhiều công
trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành ký sinh trùng. Ông là giáo sư chủ
nhiệm bộ môn Sinh học, Đại học Y khoa, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực nghiệm chống sốt rét cho quân
Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân
dân.
|
|
129
|
Nguyễn Thị Minh Khai
|
Nguyễn Thị Minh Khai
(1910-1941) còn có tên là Vịnh, quê gốc ở làng Mọc Quan Nhân (nay là phường
Nhân Chính, quận Thanh Xuân), sinh tại thành phố Vinh. Năm 1930 vào Đảng Cộng
sản Đông Dương, phụ trách vận động vùng Trường Thi - Bến Thủy rồi sang công
tác ở văn phòng Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản tại Hương Cảng, bị chính
quyền Quốc dân đảng Trung Quốc bắt giam (1931-1934). Năm 1935, là đại biểu Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản ở Matxcơva, làm bạn đời với Tổng Bí thư Lê Hồng
Phong, 1936 về nước, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn,
chỉ đạo khởi nghĩa Nam Kỳ và bị bắt, Pháp xử bắn bà tại Hóc Môn.
|
|
130
|
Nguyễn Tuân
|
Nguyễn Tuân (1910-1987), Nhà
văn Việt Nam, người làng Mọc Thượng Đình, sinh tại phố Hàng Bạc, nhưng sống với
gia đình thời trẻ ở miền Trung. Làm báo, viết văn, đóng phim từ năm 1930. Nổi
tiếng với thể loại tùy bút mang phong cách riêng độc đáo trước Cách mạng,
trong kháng chiến và sau hòa bình. Tham gia chống Pháp, đi Nam tiến; thư ký Hội
Văn nghệ Việt Nam; đi với bộ đội dự các chiến dịch sông Thao, đường số 4. Ông
để lại nhiều tác phẩm giá trị: Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tóc chi
Hoài, Sông Đà; Hà nội ta đánh Mỹ giỏi….
|
|
131
|
Võ Nguyên Giáp
|
Võ Nguyên Giáp (1911- 2013),
quê ở Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Bí thư Quân uỷ Trung ương,
nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng
Tư lệnh QĐND Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khoá I - khoá VII; Đại tướng đầu
tiên của QĐND Việt Nam. Với tài năng quân sự kiệt xuất và những đóng góp vĩ đại
cho quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được báo chí thế giới ca ngợi
là “vị tướng huyền thoại”, sánh cùng các vĩ nhân trong suốt 2.000 năm qua.
|
|
132
|
Trần Văn Giàu
|
Trần Văn Giàu (1911-2010),
quê ở An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An ông là nhà hoạt động cách mạng,
khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Ông được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Nam
Kỳ, Tổng giám đốc Nha thông tin Bộ nội vụ, là người sáng lập ra giải thưởng
Trần Văn Giàu năm 2002. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí
Minh, Danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).
|
|
133
|
Lê Đức Thọ
|
Lê Đức Thọ (1911-1990), tên thật
là Phan Đình Khải, quê làng Dịch Lễ, nay thuộc xã Nam Vân, Nam Định. Ông vào
Đảng Cộng sản Đông Dương, bị Pháp bắt tù đày ở Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, Hòa
Bình… ra tù, ông tham gia phát động cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi
nghĩa. Kháng chiến toàn quốc, ông công tác ở miền Nam, giữ cương vị chủ chốt
trong Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam. Năm 1955 ông được bổ sung vào Bộ
Chính trị, phụ trách công tác tổ chức của Trung ương Đảng, Giám đốc trường Đảng
Nguyễn Ái Quốc, tham gia Quân ủy Trung ương, sau trở lại miền Nam công tác.
Ông là cố vấn đặc biệt của phái đoàn Chính phủ ta tại hội nghị Paris, ký hiệp
định với Mỹ giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Năm 1975, ông vào Nam chỉ đạo
cuộc tổng tiến công mùa xuân và chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước.
|
|
134
|
Võ Chí Công
|
Võ Chí Công (1912-2000), quê ở
xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản
Đông Dương năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam. Từ 1945
- 1976 ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó
Ban tổ chức cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu 5, Phó bí thư
Trung ương cục, Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 - 1991, ông được bầu
làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1992, ông
được Nhà nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.
|
|
135
|
Phạm Hùng
|
Phạm Hùng (1912-1988), tên thật
là Phạm Văn Thiện, quê ở xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1930,
ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945, ông được bầu làm Bí
thư Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ. Từ 1956 - 1975, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng:
Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bí thư Trung
ương Cục Miền Nam. Từ 1976 - 1987, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Bộ Nội vụ, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
|
|
136
|
Lê Văn Lương
|
Lê Văn Lương (1912-1995), quê
ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 1945, ông là Ủy viên dự
khuyết Xứ ủy Nam bộ, tham gia chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà xuất bản Sự thật.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông ở, làm việc tại nhiều địa điểm của
tỉnh Tuyên Quang và giữ các chức vụ: Bí thư Văn phòng Trung ương Đảng; Trưởng
Ban Tổ chức Trung ương (khi đó gọi Bộ Tổ chức) kiêm phụ trách Văn phòng Trung
ương Đảng.
|
|
137
|
Xuân Thủy
|
Xuân Thủy (1912-1985), tên thật
là Nguyễn Trọng Nhâm, quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; từng giữ các chức vụ Ủy viên
Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,
Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị Paris, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư
ký Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội; ông là nhà thơ, để lại các tác
phẩm Đường xuân, Thơ Xuân Thủy …
|
|
138
|
Tôn Thất Tùng
|
Tôn Thất Tùng (1912-1982) là một
bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan.
Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Viện sĩ Viện hàn lâm Y học
Liên Xô. Ông là giáo sư, đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ tài năng tại trường Đại
học Y khoa Hà Nội.
|
|
139
|
Hàn Mặc Tử
|
Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên
thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới
(nay là tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật
đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị; năm 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi
thơ do một thị xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn. Ông sử dụng
nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ Thanh rồi cuối cùng là Hàn Mặc Tử. Tác phẩm gồm
có: Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên), Xuân như ý,
Thượng thanh khí, Cầm châu duyên (gồm 02 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ và Quần
tiên hội)…Hàn Mặc Tử học tiểu học ở Quy Nhơn, trung học ở Huế, có thời gian
làm ở Sở Đạc điền (Quy Nhơn). Năm 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo
(viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau trở ra Quy
Nhơn. Năm 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Hòa và qua đời ở
đó.
|
|
140
|
Tô Hiệu
|
Tô Hiệu (1912-1944), quê làng
Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên; tham gia các phong trào yêu nước từ
năm 1925. Năm 1930, bị bắt và bị đày ra Côn Đảo; tại đây, ông trở thành đảng
viên Cộng sản. Năm 1934 ra tù, hoạt động Mặt trận Dân chủ ở Hà Nội, rồi ra
vùng mỏ Cẩm Phả chỉ đạo phong trào công nhân; được cử làm Thường vụ Xứ ủy Bắc
Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 12/1939, ông lại bị Pháp bắt,
giam lại nhà tù Sơn La. Do bị tra tấn, tù đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng,
qua đời ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La, nêu cao khí tiết của người Cộng sản.
|
|
141
|
Vũ Trọng Phụng
|
Vũ Trọng Phụng (1912-1939):
quê gốc ở huyện Mĩ Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất
chúng, với các tác phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc sảo
như: Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố, Làm đĩ …
|
|
142
|
Trần Đại Nghĩa
|
Trần Đại Nghĩa (1913-1997), quê
ở xã Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Ông là một kỹ sư quân sự, một
nhà khoa học lớn, là người đặt nền móng cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt
Nam.
Ông từng du học Pháp nhiều
năm, lặng lẽ tự học và nghiên cứu các kỹ thuật quân sự, bản thiết kế và cách
chế tạo vũ khí. Sau này được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho trọng trách Cục
trưởng Cục Quân giới Bộ Quốc phòng, ông là người chế tạo thành công các vũ
khí mới như: súng bazooka, súng không giật SKZ, đạn bay trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp 1946-1954. Để ghi nhận công lao và đóng góp của Trần
Đại Nghĩa, ông được phong hàm Thiếu tướng và được Nhà nước ta phong tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh.
|
|
143
|
Chu Huy Mân
|
Đồng chí Chu Huy Mân (1913 -
2006), quê ở xã Yên Lưu, tổng Yên Trường, Phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng
Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An). Năm 1930, đồng chí được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí đã đảm nhiệm
các chức vụ: Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Phó Bí thư
Quân Ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam;
Chủ tịch Ủy ban Quân ủy chính 4 tỉnh Trung bộ; Chủ tịch Ủy ban quân chính khu
C (gồm Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình); Chính ủy, Bí thư Đảng
ủy Quân khu 4; Bí thư Đảng ủy Quân khu Tây Bắc, Bí thư Khu ủy Liên khu 5.
|
|
144
|
Lê Trọng Tấn
|
Lê Trọng Tấn (1914-1986). Là
Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông có công lớn trong trận Điện Biên Phủ,
Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13
tháng 3 năm 1954) trận mở đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ và sau 56 ngày đêm
quân đội ta đã cắm là cờ chiến thắng trên nóc Hầm Đờ Cát Tơ Ri vào ngày
07/5/1954.
|
|
145
|
Nguyễn Chí Thanh
|
Nguyễn Chí Thanh (1914-1967),
quê ở Thừa Thiên Huế là một tướng lĩnh kiệt xuất của Quân đội Nhân dân Việt
Nam. Ông là người đề xuất chiến thuật đánh áp sát của Quân giải phóng miền
Nam với phương châm “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Năm 1959, ông được phong
quân hàm Đại tướng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(1960), ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Bộ chính
trị và Ban bí thư. Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ
chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam.
Ông mất năm 1967.
|
|
146
|
Nam Cao
|
Nam Cao (1914-1951), tên thật
là Trần Hữu Tri, người làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; nhà văn hiện
thực Việt Nam. Làm văn, viết báo từ năm 1936, tham gia Văn hóa cứu quốc và
gia nhập Việt Minh từ năm 1941; đi Nam tiến 1946 rồi lên chiến khu Việt Bắc
làm báo. Hy sinh trên đường vào công tác ở vùng địch hậu khu III. Tác giả nhiều
truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt, Chuyện
biên giới.
|
|
147
|
Đinh Núp
|
Đinh Núp (1914 - 1999), là người
dân tộc Ba Na; ông nguyên Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VI (1976 - 1981). Đinh Núp được
phong anh hùng và thường được gọi là Anh hùng Núp. Ông đã lãnh đạo các dân tộc
Ba Na và Ê Đê đứng lên chống lại thực dân Pháp.
|
|
148
|
Hoàng Văn Thái
|
Hoàng Văn Thái (1915-1986),
tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Ông
tham gia phong trào nông dân Tiền Hải từ năm 1936, được kết nạp vào Chi bộ Cộng
sản đầu tiên của huyện Tiền Hải. Sau Cách mạng tháng Tám, được giao phụ trách
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 5, Phó Bí thư
Trung ương Cục, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh
quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
|
|
149
|
Nguyễn Văn Linh
|
Nguyễn Văn Linh (1915-1998),
tên thật là Nguyễn Văn Cúc, quê quán: Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ,
tỉnh Hưng Yên. Năm 1929, ông tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên lãnh đạo. Năm 1930, ông bị bắt và kết án tù chung thân, bị đày ra
Côn Đảo. Năm 1939, ông hoạt động ở Sài Gòn và tham gia Ban chấp hành Đảng bộ
TP. Sài Gòn. Từ 1945 - 1986, ông hoạt động chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ, Sài Gòn
với nhiều chức vụ: Bí thư Thành uỷ, Uỷ viên Xứ uỷ Nam Bộ, Thường vụ Xứ uỷ Nam
Bộ, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Năm 1986, ông được
bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác.
|
|
150
|
Lý Tự Trọng
|
Lý Tự Trọng (1915-1932) , quê
ở Xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh có nhiều tích cực trong việc liên lạc
giữa Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội với Đảng bộ, các cán
bộ cách mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ chức chuyển
thư từ tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng chí đang diễn
thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết mật thám Pháp và bị bắt.
Anh bị chính quyền Pháp tại Sài Gòn kết án tử hình, anh bị xử bắn khi mới 17
tuổi. Câu nói nổi tiếng của anh được các thế hệ thanh niên lấy làm lẽ sống
cho mình ”Con đường thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng không có con
đường nào khác”.
|
|
151
|
Xuân Diệu
|
Tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu
(1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; tham gia phong trào Việt Minh, Hội
Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt
Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian; năm 1983 được bầu là Viện
sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà
văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem
là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học xuất
sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê bình
văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt về các
nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông được
trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật và nhiều giải thưởng
cao quý khác.
|
|
152
|
Văn Tiến Dũng
|
Văn Tiến Dũng (1917-2002),
quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản
Đông Dương. Từ 1942 - 1943, ông đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Uỷ viên Thường vụ Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ;
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch giải
phóng Sài Gòn - Gia Định; Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
(1978 - 1986). Ông được phong hàm Đại tướng năm 1974, được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Sao Vàng (1992), Huân chương Hồ Chí Minh.
|
|
153
|
Lương Định Của
|
Lương Định Của (1918-1975),
quê ở Sóc Trăng, tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở
thành tiến sĩ thứ 96 của Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện
Nghiên cứu canh nông, rồi ra chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống
hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền
khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm Viện trưởng Viện cây lương thực và thực phẩm,
được phong Anh hùng lao động.
|
|
154
|
Huy Cận
|
Huy Cận (1919-2005), quê ở Ân
Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất
của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban thanh tra đặc
biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III. Năm 2001, ông được bầu
là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông còn là thứ trưởng Bộ Văn
hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được Nhà nước phong tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và Huân chương Sao Vàng (2005)
|
|
155
|
Nguyễn Thị Định
|
Nguyễn Thị Định (1920-1992),
quê ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh ủy chọn làm
thuyền trưởng chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng làm việc ở
Bộ Tư lệnh miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền
Nam (1965- 1975). Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng. Bà được Nhà
nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
|
|
156
|
Tố Hữu
|
Tố Hữu (1920-2002), quê ở xã
Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ông là một tác giả có vị trí
đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam.
Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Ông đảm trách nhiều chức vụ:
Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha tuyên truyền và văn nghệ
thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó chủ tịch Hội liên hiệp
Văn học nghệ thuật Việt Nam, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng…Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ
thuật (1996), Huân chương Sao Vàng (1994), Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái
Lan (1996).
|
|
157
|
Bùi Xuân Phái
|
Bùi Xuân Phái (1920-1988):
Quê ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, Hà Đông, thành phố Hà Nội. Ông theo học tại
Trường Mĩ thuật Đông Dương khoá XV (1941 - 1946); hội viên ngành hội hoạ Hội
Mĩ thuật Việt Nam từ 1957. Trong quá trình sáng tác ông đã được tặng Huy
chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp Mĩ
thuật Việt Nam. Xem tranh của ông, người ta phát hiện ra một đời sống tinh thần
riêng đầy quyến rũ của những khu phố cổ Hà Nội, một phong cách riêng, thường
được gọi là “Phố Phái”. Hiện nay, tranh của ông được lưu giữ ở Bảo tàng Mĩ
thuật Việt Nam và trong nhiều bộ sưu tập cá nhân trong và ngoài nước. Riêng
ngôi nhà của ông, số nhà 87 phố Thuốc Bắc, Hà Nội được coi như một bảo tàng
nhỏ, trưng bày những tác phẩm của ông và con ông
|
|
158
|
Chế Lan Viên
|
Chế Lan Viên (1920-1989),
chính tên là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Nghệ Tĩnh, sinh ở Cam Lộ, tỉnh Quảng
Trị, học ở Qui Nhơn, đỗ trung học rồi dạy tư. Nổi tiếng từ khi còn ít tuổi, với
tập thơ Điêu tàn (1938), tiếp đó là tập văn xuôi Vàng sao (1942). Từ Cách mạng
tháng Tám, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV rồi chuyển
ra hoạt động ở Việt Bắc, tham gia nhiều khóa Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt
Nam. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách bao gồm thơ, bút ký, lý luận - phê
bình, với bút pháp sắc sảo, thông minh và giàu chất trí tuệ. Ông được trao tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
|
|
159
|
Nguyễn Cơ Thạch
|
Nguyễn Cơ Thạch (1921-1998),
quê quán xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia tổ chức Thanh
niên Dân chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị giam tại nhà
lao Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1940-1945). Năm 1943 ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng, Bí thư cho Đại
tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành
chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên
khu (1949-1954) và nhiều chức danh cấp cao khác. Ông nguyên là Ủy viên Bộ
Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính
phủ), nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Ông được nhà nước tặng thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…
|
|
160
|
Đỗ Nhuận
|
Đỗ Nhuận (1922-1991), quê
quán xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một nhạc sĩ tiên
phong của âm nhạc cách mạng, là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Opera. Ông là
Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm 1943, ông tham
gia hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các nhà lao: Hải
Dương, Hoả Lò, Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam. Ông
có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát “Chiến thắng Điện
Biên”… Ông được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng
Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
|
|
161
|
Phan Đình Giót
|
Phan Đình Giót (1922-1954) sinh
ở làng Vĩnh Yên (nay là thôn 8), xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Sau Cách mạng tháng Tám, Phan Đình Giót tham gia tự vệ chiến đấu. Đến năm
1950, Phan Đình Giót xung phong đi bộ đội chủ lực. Ông đã tham gia nhiều chiến
dịch lớn như: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ
mặc dù bị thương ông đã lấy thân lấp lỗ châu mai khiến quân địch không bắn ra
được, quân ta chớp cơ hội xung phong tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam vào ngày
13/3/1954, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ
Ông là một trong 16 anh hùng
lực lượng vũ trang Nhân dân được tuyên dương vì thành tích trong chiến dịch
Điện Biên Phủ
|
|
|
|
|
|
162
|
Võ Văn Kiệt
|
Võ Văn Kiệt (1922-2008), quê ở
xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1939, ông được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc
Liêu. Từ 1976 - 1982, ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.HCM,
Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Từ 1982 - 1988: Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh… Năm 1997, ông được
Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.
|
|
163
|
Văn Cao
|
Văn Cao (1923-1995), quê gốc ở
huyện Vụ Bản, Nam Định nhưng sống ở Hải Phòng, là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ nổi
tiếng, tác giả Quốc ca Việt Nam. Ông sáng tác nhiều ca khúc cách mạng nổi tiếng
như Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam,
Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội, Mùa xuân đầu
tiên …
|
|
164
|
Tô Vĩnh Diện
|
Tô Vĩnh Diện (1924- 1954)
sinh ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1946 tham gia dân
quân ở địa phương, đến năm 1949 xung phong đi bộ đội. Tháng 5/1953, Tô Vĩnh
Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong chiến dịch
Điện Biên Phủ, anh đã dũng cảm lấy thân mình chèn vào bánh pháo, anh dũng hy
sinh. Anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 7/5/1955,
Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng Huân
chương Quân công hạng Nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.
|
|
165
|
Trần Hoàn
|
Trần Hoàn (1928-2003), tên thật
là Nguyễn Tăng Hích, còn có bút danh Hồ Thuận An. Ông nguyên là Bộ trưởng Văn
hóa - Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương. Ông tham gia hoạt động
âm nhạc trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp
sáng tác, ông để lại những tác phẩm nổi tiếng như: Một mùa xuân nho nhỏ, Chào
mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ
Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Ghi nhận những đóng góp to lớn của ông,
Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ
Chí Minh về Văn học nghệ thuật và nhiều Huân, Huy chương, giải thưởng cao
quý.
|
|
166
|
Kim Đồng
|
Anh hùng Nông Văn Dền (tức
Kim Đồng, 1929 - 1943) quê ở Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng
là người dân tộc Nùng. Sinh trưởng trong chiếc nôi cách mạng, khi còn nhỏ Kim
Đồng đã sớm giác ngộ và vận động các bạn cùng lứa tuổi trong bản làm nhiệm vụ
liên lạc, chuyển công văn, tài liệu, đưa đón cán bộ, trinh sát nắm tình hình
địch để cung cấp cho cán bộ. Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim Đồng được giao nhiệm
vụ canh gác, bảo vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng. Địch phát hiện và
cho một lực lượng lớn bao vây hòng bắt sống các đồng chí lãnh đạo của Đảng.
Trước tình thế nguy hiểm, Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc hướng, lừa địch tập
trung lực lượng và hỏa lực về phía mình, đồng thời phát tín hiệu báo cho các
đồng chí cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi ở tuổi 14
và trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi theo. Tháng
5/1941, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội thiếu niên cứu quốc Kim Đồng
là một trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội thiếu
niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện trí thông minh, lòng dũng cảm, hoàn thành xuất
sắc các nhiệm vụ được giao.
|
|
167
|
Cù Chính Lan
|
Cù Chính Lan (1930-1952), quê
xã Quỳnh Lôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; trong chiến dịch Quang Trung
(1950) được nêu gương “Anh hùng tay không diệt giặc”. Chiến dịch Hòa Bình
(1951), anh dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường số 6 năm 1952, anh tham
gia đánh đồn Gô Tô, bị cụt hai tay và một chân vẫn anh dũng chỉ huy đến hơi
thở cuối cùng. Được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
|
|
168
|
La Văn Cầu
|
Anh hùng La Văn Cầu sinh năm
1931, ở huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), người dân tộc Tày. Với khát khao được cầm
súng giết giặc giải phóng đất nước, dù mới 16 tuổi, La Văn Cầu đã khai tăng
lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Ông là một trong bảy người đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại Đại hội
chiến sĩ thi đua toàn quốc lần I. Với các thành tích trong chiến đấu, ngày 19
tháng 5 năm 1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, khi đó ông đang là tiểu đội
phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm 1952, La Văn Cầu được trao tặng
danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107- SL ngày 10 tháng 8
năm 1952. Ông được phong hàm Đại tá từ năm 1985, và được tặng Huân chương
Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất.
|
|
|
|
169
|
Nguyễn Viết Xuân
|
Nguyễn Viết Xuân sinh ngày
20/1/1933 tại thôn Thượng xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 05/11/1952,
Ông nhập ngũ và trở thành chiến sỹ của C3 Đoàn 99. Sau đó Ông trở thành chiến
sỹ trinh sát của C832 D396. Ngày 18/11/1964, tại trận địa phòng không miền
Tây tỉnh Quảng Bình. Máy bay phản lực Mỹ nhằm vào trận địa ném bom. Anh em
trong đơn vị chưa quen bắn pháo nên có phần lúng túng, Ông đã kịp thời động
viên: “các đồng chí hãy vững vàng, dũng cảm nhìn thẳng máy bay mà bắn.
Ngày 19/11/1964, Nguyễn Viết
Xuân hi sinh nhưng lời hô bất hủ của Ông “Nhằm thẳng quân thù, bắn !” còn
vang vọng. Cảm phục trước tấm gương hy sinh anh dũng, toàn quân đã noi gương
Ông. Tổ quốc ghi nhớ công lao của Ông. Ngày 01/01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho liệt Sĩ
Nguyễn Viết Xuân.
|
|
|
|
170
|
Vừ A Dính
|
Vừ A Dính (1934 - 1949) là
con trong một gia đình người Mông có truyền thống yêu nước nồng nàn - cơ sở
cách mạng của quân Việt Minh tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu. Cha mẹ Vừ A
Dính là ông Vừ Chống Lầu (sinh năm 1899) và bà Sùng Thị Plây (sinh năm 1901),
họ cùng những người khác trong nhà đã hi sinh bởi nòng súng của quân Pháp. Mẹ
Sùng Thị Plây được trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trong đợt đầu tiên
(1994).
Từ nhỏ Vừ A Dính đã thông
minh, gan dạ, luôn xung phong lên đường liên lạc giúp cho bộ đội. Trong một lần
thực hiện nhiệm vụ, vô tình rơi vào cạm bẫy của giặc, Vừ A Dính kiên quyết
nói: “Không biết” dù bị tra tấn dã man. Cuối cùng, quân Pháp không lấy được
thông tin gì nên đã bắn chết và treo lên cây Vừ A Dính lúc này chỉ mới tròn
15 tuổi.
|
|
171
|
Nhất Chi Mai
|
Nhất Chi Mai (1934-1967) Tên
thật là Phan Thị Mai, sinh tại làng Thái Hiệp Thành - Tây Ninh. Bút hiệu Nhất
Chi Mai tự Nhất Chi, pháp danh Thích nữ Diệu Huỳnh. Chị là phật tử thuộc dòng
tu Tiếp Hiện, theo học hai Trường Đại học Văn Khoa và Vạn Hạnh. Khi còn là
sinh viên, Nhất Chi Mai hoạt động từ thiện rất tích cực, sôi nổi. Vận động
lòng hảo tâm của những người giàu để giúp những người lao động cùng khổ, những
sinh viên nghèo hiếu học. Sáng ngày 11/6/1963, thầy Thích Quảng Đức tự thiêu
để chống chánh quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo và phản đối chiến và sự
kiện chấn động nước Mỹ ngày 2/11/1965, khi anh Morrisson bế con mình là Emyly
(Emily) từ nhà đến Lầu Năm Góc, đặt con xuống đất, hôn lên má con lần cuối
cùng rồi châm lửa tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Mỹ
gây ra tại Việt Nam ảnh hưởng dữ dội đến tâm trí chị. Ngày 16/5/1967, lúc 7
giờ 20 phút chị đã đến chùa Từ Nghiêm (đường Bà Hạt, quận 10, Sài Gòn), tự tưới
10 lít xăng lên người rồi châm lửa, tự biến thân mình thành đuốc, sau khi để
lại 10 bức thư cho cha mẹ, thầy, bạn và chính quyền các bên có liên quan.
|
|
172
|
Võ Thị Sáu
|
Võ Thị Sáu (1935-1952), tên
thật: Nguyễn Thị Sáu, quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, là anh hùng Lực lượng vũ trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội
viên Công an Xung phong quận Đất Đỏ. Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức
căm thù thực dân Pháp, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao
như giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5/1948, tham
gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14/7/1949, cùng đồng đội phá
cuộc mít tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt
nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 5/1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển
đến Khám Chí Hoà, Sài Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết
người công an cách mạng. Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn
động dư luận xã hội lúc đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã
khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người
chiến sĩ cách mạng. Võ Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23/1/1952 và
được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.
|
|
173
|
Nguyễn Văn Trỗi
|
Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964),
quê quán xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam; Ông làm thợ điện ở nhà máy
điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử Tây Nam
Sài Gòn. Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ Rừng
Thơm, Đức Hòa (Long An). Ngày 2/5/1964, ông nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công
Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp
của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại
lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9/5/1964. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa
ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích
Venezuela tuyên bố trao đổi anh với một con tin là trung tá không quân Mỹ là
Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa được
trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn. Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn tại sân sau nhà
lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15 tháng 10 năm 1964, trước sự chứng kiến
của nhiều phóng viên nước ngoài.
|
|
174
|
Lê Anh Xuân
|
Lê Anh Xuân (1940 - 1968), là
nhà văn, liệt sĩ. Anh từng học Đại học tổng hợp Hà Nội sau đó, được cử đi học
ở nước ngoài, nhưng đã xin được về quê hương chiến đấu. Anh hy sinh ngày
25/5/1968 trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 ở vùng phụ cận Sài Gòn,
ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Lê Anh Xuân có 3
tập thơ đã xuất bản "Tiếng gà gáy", "Hoa dừa", "Trường
ca Nguyễn Văn Trỗi", trong đó có bài thơ nổi tiếng "Dáng đứng Việt
Nam". Năm 2001, Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật và được truy tặng anh hùng lực lượng vũ trang năm 2011.
|
|
175
|
Đặng Thùy Trâm
|
Đặng Thùy Trâm (1942-1970), tốt
nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, sau đó xung
phong vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của người thầy thuốc trong thời
gian chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm công tác tại bệnh
viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn đã bị
địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất trẻ. Trong hành
trang để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã được một cựu chiến
binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại chiến trường huyện Đức
Phổ tìm thấy và cất giữ. Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” sau đó đã được Nhà Xuất
bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; liệt sĩ Đặng Thùy Trâm được truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân năm 2006.
|
|
176
|
Lưu Quang Vũ
|
Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê
quán xã Thiệu Cơ, Hạ Hòa, Phú Thọ, ông là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà văn hiện
đại của Việt Nam. Năm 1978 ông làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt đầu
sáng tác kịch nói. Các tác phẩm của ông giàu tính hiện thực và nhân văn, được
dàn dựng thành công như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”,
“Tin ở hoa hồng”… Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2
(năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.
|
|
177
|
Nguyễn Bá Ngọc
|
Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Bá Ngọc
(1952-1965) quê ở xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương. Năm 1965, Mỹ mở rộng chiến
tranh, trong đó địa bàn giáp ranh giữa xã Quảng Trung với xã Hải Châu, huyện
Tĩnh Gia, Thanh Hóa là một trong những trọng điểm bị đánh phá ác liệt.
Ngày 4/4/1965, máy bay Mỹ kéo
đến bắn phá dữ dội vào địa bàn xã Quảng Trung. Lúc này, bố mẹ đi vắng, Nguyễn
Bá Ngọc đã một mình đưa các em xuống hầm tránh bom. Ngồi dưới hầm, nghe tiếng
khóc bên nhà hàng xóm Ngọc đã lao ra khỏi hầm chạy sang và thấy người bạn tên
là Khương bị thương, 2 em của Khương đang gào khóc trong hoảng loạn. Bất chấp
hiểm nguy, Ngọc đã lấy thân mình che chở, dìu các em của Khương xuống hầm trú
ẩn. Hai em nhỏ được cứu sống, nhưng Ngọc trúng bom, bị thương rất nặng và hi
sinh vào rạng sáng ngày 5/4/1965 khi mới 13 tuổi và đang là học sinh lớp 4.
Ghi nhận sự hi sinh của người
thiếu niên anh dũng, ngay sau đó Nhà nước đã công nhận Nguyễn Bá Ngọc là liệt
sĩ và truy tặng Huân chương Chiến công hạng Ba cho anh. Đến năm 2015, Nhà nước
đã truy tặng danh hiệu anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sỹ Nguyễn
Bá Ngọc.
|
|
V.2
|
Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu của tỉnh, danh nhân gắn liền
với lịch sử, văn hóa của tỉnh (58 tên)
|
|
1
|
Thân Thừa Quý
|
Thân Thừa Quý (966-1029) là
tù trưởng người Tày ở động Giáp vào thế kỷ XI được vua Lý gả con gái cho
phong làm Châu Mục Lạng Châu và đổi từ họ Giáp sang họ Thân. Thân Thừa Quý có
thể coi là Thủy tổ của dòng họ Thân ở Việt Nam. Thân Thừa Quý tên thật là
Giáp Thừa Quý là tù trưởng người Tày cai quản động Giáp rộng lớn là phần đất
thuộc vùng phía Bắc của tỉnh Bắc Giang và vùng phía Nam của tỉnh Lạng Sơn.
Năm 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi
vua, vì muốn tăng tình đoàn kết bảo vệ biên giới với các tù trưởng dân tộc
thiểu số, nhận thấy Lạng Châu là vùng đất trọng yếu đã tăng mối thân tình bằng
cách gả con gái cho và phong làm phò mã. Giáp Thừa Quý được vua chọn làm con
rể và được đổi từ họ Giáp sang họ Thân bằng việc ban thêm cho một nét chữ vào
chữ Giáp tên họ, để trở thành chữ Thân. Gọi là họ Thân để nói lên ý nghĩa
tình thân ái đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam và để phân biệt hoàng thân quốc
thích với tầng lớp bình dân.Từ đó ông chuyển sang tên họ là Thân Thừa Quý làm
Châu Mục Lạng Châu cai quản và bảo vệ vùng đất Đông Bắc của Tổ quốc.
|
|
2
|
Thân Thiệu Thái
|
Sinh năm 996 mất năm 1066, xuất
thân từ một gia đình tù trưởng người Tày họ Giáp ở Động Giáp,vùng đất phía Bắc
của tỉnh Bắc Giang và phía Nam của tỉnh Lạng Sơn,ba đời liên tiếp làm tù trưởng
Lạng Châu, sau này được vua Lý Thái Tông gả con gái và phong làm châu mục Lạng
Châu (nay là tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn) khi làm quan, ông đã dốc lòng hết sức
xây dựng bảo vệ biên cương đất nước lập nhiều chiến công được ghi vào chính sử
nước nhà.
|
|
|
|
3
|
Thân Cảnh Phúc
|
Thân Cảnh Phúc (1030 - 1077),
còn có tên là Cảnh Nguyên, Đạo Nguyên hay Cảnh Long, biệt danh Phò mã Áo
chàm, tương truyền có thể là Thân Vũ Thành (theo thần tích các đền thờ về
nhân vật này dọc bờ sông Lục Ngạn), là tù trưởng động Giáp châu Lạng, tức
châu Quang Lang (hay châu Ôn, Lạng Sơn), ngày nay thuộc tỉnh Lạng Sơn của Việt
Nam. Ông sinh ra trong gia đình nhiều đời làm thổ mục ở Động Giáp (là phần
phía nam tỉnh Lạng Sơn và một phần phía bắc của tỉnh Bắc Giang), tức vùng
giáp khẩu Kép, Lạng Giang (Bắc Giang), là người dân tộc Tày, vốn gốc họ Giáp,
sau lấy công chúa của nhà Lý nên được vua nhà Lý đổi sang họ Thân và phong chức
Tri châu. Thân Cảnh Phúc là người đã lãnh đạo một đội quân người dân tộc Tày
dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở, dùng chiến thuật du kích chống Tống, chiến
đấu sau lưng đạo quân nhà Tống đến khi hi sinh, góp phần không nhỏ vào cho
chiến thắng của nhà Lý trước nhà Tống năm 1077 ở phòng tuyến sông Như Nguyệt.
|
|
4
|
Nguyễn Thế Lộc
|
Nguyễn Thế Lộc là một hào trưởng
người dân tộc Tày ở Lạng Sơn (không rõ sinh và mất năm nào). Khi quân
Nguyên-Mông xâm lược Đại Việt lần 2 (năm 1285), Nguyễn Thế Lộc là thổ hào
vùng đất thuộc châu Ma Lục (Lạng Sơn), cùng với Nguyễn Lĩnh chỉ huy một cánh
quân ở vùng này. Mùa hè năm 1285, quân Trần phản công quân Nguyên để chiếm lại
Thăng Long. Khi đó Trần Kiện (cháu ruột của vua Trần Thánh Tông, con thứ của
Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang), đem gia quyến và bọn thuộc hạ chạy sang
đầu hàng quân Nguyên. Tướng giặc là Toa Đô mừng lắm, vội cho quân hộ tống Trần
Kiện về Yên Kinh. Nhưng Trần Kiện vừa đến vùng Lạng Sơn (ngày nay) thì lập tức
bị Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh cho dân binh bao vây và tập kích dữ dội. Trần
Kiện bị bắn chết, thuộc hạ của y là Lê Tắc cướp được xác chủ, cột lên ngựa,
nhân đêm tối lẻn đem xác Trần Kiện chạy về Khâu Ôn. Trong cuộc kháng chiến chống
quân Mông Nguyên lần thứ 2, Nguyễn Thế Lộc đã thể hiện rõ tinh thần đấu tranh
chống ngoại xâm, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Mông
Nguyên lần thứ 2 của dân tộc.
|
|
5
|
Thiều Thốn
|
Thiều Thốn (1326 - 1380) người
xã Thọ Sơn, tổng Thanh Khê nay là làng Nhuận Thạch, xã Đông Tiến, huyện Đông
Sơn, Thanh Hóa, làm quan nhà Trần. Thiều Thốn là người không những góp công sức
to lớn trong việc giữ yên cơ nghiệp nhà Trần (làm quan trải qua các đời Trần
Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông; Năm 1363, Thiều Thốn được cử giữ chức
Phòng ngự sứ Lạng Giang thống lĩnh quân của triều đình và Sơn Lão quân (quân
của các dân tộc miền núi Lạng Sơn và Bắc Giang ngày nay)… mà còn có công rất
lớn trong việc phòng thủ đất nước, giữ yên bờ cõi, giúp nhân dân an cơ lập
nghiệp, tạo đà phát triển tránh sự nhòm ngó của ngoại bang, được vua Trần Dụ
Tông phong “Khai quốc công thần, Phụ quốc Thượng tướng công, kiêm Kim Ngô vệ
Phò mã Đô úy Thượng trụ quốc”.
|
|
6
|
Lê Lộng
|
Lê Lộng sinh năm 1396 tại
làng Khả Lam, huyện Lương Giang, phủ Thành Đô (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hoá).
Lê Lộng tham gia vào khởi
nghĩa Lam Sơn từ những buổi đầu. Ông là võ tướng mưu trí, gan dạ, biết quyền
biến trong chiến trận. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, vương triều Lê Sơ được
thành lập. Lê Lộng được vua ban tước Khang Vũ Hầu, Kiệt tiết tuyên lực công
thần, Ngân thanh Vinh lộc đại phu, giữ chức Tả xa kỵ vệ Đại tướng quân.
Dưới thời vua Lê Thái Tông
(1433-1442), Lê Lộng là một cận thần được trao nhiều trọng trách của triều
đình, giữ chức Tuyên úy xứ Lạng Sơn. Năm 1437, Lê Lộng lại giữ chức Tuyên uý
đại sứ. Ông là tấm gương sáng về lòng trung trinh, cần lao, tận tâm, tận lực
vì đất nước. Ngày nay, đền thờ ông vẫn còn ở xã Thọ Vực, huyện Triệu Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Đền thờ ông đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh năm
2011.
|
|
7
|
Vi Phúc Hân
|
Ông là con trai Vi Đình Mật
làm quan đời nhà Mạc. Khi nhà Hồ mất, người trong họ Hồ chốn lên Lạng Sơn lập
căn cứ chống Minh. Khởi nghĩa Lam Sơn thành công nhưng người họ Hồ này vẫn
không chịu theo về với Lê Lợi. Hai cha con Vi Đình Mật, Vi Phúc Hân đã dẹp
yên nhóm họ Hồ này và cùng Nguyễn Cẩm Miên coi sóc xứ Lạng.
|
|
8
|
Nguyễn Khắc Trị
|
Ông là nhân thần sống ở thế kỷ
XV, XVI, là người đã có công dạy Nhân dân cách làm ăn. Hiện nay, Nhân dân
đang thờ ông tại ngôi đình Phai Cam, thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia.
|
|
9
|
Trịnh Khả
|
Trịnh Khả là một trong những
Khai Quốc Công Thần triều Lê Sơ. Ông người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh (nay
thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1416, Trịnh Khả là một trong số 19
người tham dự Hội thề Lũng Nhai. Trịnh Khả là một trong những thành viên đầu
tiên của Bộ Chỉ huy Lam Sơn. Trải hơn mười năm, Trịnh Khả luôn trực tiếp cầm
quân, chiến đấu một cách dũng cảm và mưu lược, lập được nhiều công lao xuất sắc.
Sang năm 1433, Lê Thái Tổ mất,
Lê Thái Tông mới chỉ 10 tuổi lên thay, quyền hành nằm trong tay Lê Sát, mà Lê
Sát vốn rất ghét Trịnh Khả, vì thế mà đến năm 1434 ông quyết định xin từ quan
về dù mới 31 tuổi. Triều đình không đồng ý, Lê Sát cho Trịnh Khả rời đến Lạng
Sơn làm quan Tuyên úy (Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư)
Năm 1437, vua Lê Thái Tông 14
tuổi đã bắt đầu hiểu chuyện triều chính, nhận thấy Lê Sát ngày càng chuyên
quyền không thể nói được, liền tìm cách đưa Trịnh Khả trở về nắm giữ đội Cấm
quân (tức quân tinh nhuệ Thiết Đột) trong Kinh thành. Sau đó Trịnh Khả được
phong thêm chức thiếu bảo, tham tri chính sự.
|
|
10
|
Bùi Cầm Hổ
|
Sử sách ghi lại, Đô đài Bùi Cầm
Hổ quê ở xã Đậu Liêu, huyện Thiên Lộc, nay phường xã Đậu Liêu, TX Hồng Lĩnh
(Hà Tĩnh). Ông sinh năm 1390, mất năm 1483, làm quan Ngự sử dưới ba triều vua
Lê (Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông). Ông là người nổi tiếng ngay thẳng,
đức độ và đã 2 lần đi sứ nhà Minh làm rạng danh nước Việt. Dưới thời Vua Lê
Thái Tổ (1428 - 1433), Lê Sát là một đại thần có công lớn từ khi giúp Lê Lợi
dấy nghiệp, nhưng do là võ quan ít học nên tỏ ra lộng quyền, xử trí oan sai
nhiều vị quan. Sang thời Lê Thái Tông (1434 - 1442), những năm đầu, khi vua
còn nhỏ, Lê Sát lợi dụng uy quyền của một công thần, làm nhiều điều ngang
trái, thao túng triều đình, giết hại nhiều vị quan tài giỏi. Vì lên tiếng chỉ
trích gay gắt sự chuyên quyền của Lê Sát, Bùi Cầm Hổ bị điều đi làm An phủ sứ
Lạng Sơn.
Bùi Cầm Hổ có nhiều công lao
trong hoạt động ngoại giao qua 2 lần sang sứ nhà Minh và những năm trấn thủ ở
Lạng Sơn. Bùi Cầm Hổ mất lúc 93 tuổi, Nhân dân đã lập đền thờ ông ở dưới chân
núi Bạch Tỵ, gọi là đền quan Đô đài. Triều đình phong ông là Thượng đẳng
phúc thần.
|
|
11
|
Đại Huề
|
Đại Huề là tướng người Nùng của
địa phương, từ nhỏ ông đã người có dũng khí phi thường, căm phẫn trước sự tàn
độc của nhà Minh, ông giỏi võ nghệ. Ông đã có công lãnh đạo dân binh cùng với
nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Đĩnh, Lê Sát... đã mai phục hai bên
hẻm núi tiêu diệt quân viện binh nhà Minh, góp phần làm nên chiến thắng Chi
Lăng năm 1427.
|
|
12
|
Đại Liệu
|
Ông là em trai và đồng thời
Phó tướng của Đại Huề, ông đã chiến đấu rất anh dũng trong trận tiêu diệt Liễu
Thăng và một vạn quân Minh ở cánh đồng Chi Lăng, ông cũng hi sinh oanh liệt ở
đó. Về sau dân làng nhớ công lao của ông nên đã lập đền thờ ông trên một gò đất
cao giữa cánh đồng cạnh núi Mã Yên - nơi ông đã chiến đấu và hi sinh.
|
|
13
|
Trần Lựu
|
Trần Lựu (? - ?), còn được chép
là Lê Lựu; chính sử không ghi chép rõ thân thế cũng như năm sinh và năm mất của
Trần Lựu. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ông là con của nghĩa sĩ Trần Lượng,
đời Hậu Trần, quê ở làng Lỗ Tự, huyện Thượng Nguyên (nay thuộc xã Thiệu
Quang, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Trần Lựu là một khai quốc công thần
nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong số các tướng lĩnh của
nghĩa quân Lam Sơn, nổi tiếng trong chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang và đã
góp công lớn trong việc chém đầu Liễu Thăng ở ải Chi Lăng năm 1427. Ông là một
trong số các tướng lĩnh tiêu biểu có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn
thế kỷ thứ XV, hiện được thờ tại đền Xương Giang thuộc Di tích lịch sử quốc
gia đặc biệt: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành phố Bắc Giang, tỉnh
Bắc Giang.
|
|
|
|
14
|
Nguyễn Đình Đa
|
Vào đời Lê Thần Tông (Duy Kỳ
1649 - 1662), giặc Bắc nhiều lần tràn xuống cướp phá các tổng Hữu Thu, An
Hoa, châu Thoát Loãng (huyện Văn Lãng ngày nay). Sẵn có lòng yêu quê hương lại
mang dòng máu thượng võ của ông cha, Nguyễn Đình Đa (con cả phiên thần Nguyễn
Phước Thanh) đã lãnh đạo quân dân Thoát Lãng ngoan cường chống lại. Tương
truyền ngày 9 tháng 4 (không rõ năm) ông hy sinh trong một trận giao tranh. Từ
đó được Nhân dân nơi đây lập đền thờ. Hằng năm, Nhân dân tổ chức thi võ, đấu
cờ, tế lễ để tưởng niệm người anh hùng đã hy sinh bảo vệ quê hương.
|
|
15
|
Vi Đức Thắng
|
Quận công Vi Đức Thắng (thế kỷ
XVII), người xã Khuất Xá, Châu Lộc Bình phủ Trường Khánh xứ Lạng (nay là xã
Khuất Xá, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) là đời thứ 6 dòng họ Vi của huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn; ông là một người có tài, có công gìn giữ quan ải yên ổn,
giữ quốc mạch trường tồn, Nhân dân ấm no, hạnh phúc; được Vua Lê Hy Tông
(1676-1705) phong làm: Đô tổng sứ ty, Đô tổng binh sứ, thiên sự Vũ Quận công
Vi Đức Thắng. Ông còn là người có công khởi dựng Chùa Trung Thiên, thôn Rinh
Chùa, xã Tú Đoạn (ngôi Chùa được công nhận di tích cấp tỉnh năm 2002). Do có
công với dân, với nước nên Ông được Nhân dân tôn làm thánh để thờ tại gian Hậu
cung của Chùa Trung Thiên.
|
|
16
|
Hoàng Đình Kinh
|
Hoàng Đình Kinh sinh ra và lớn
lên ở xóm Thượng, tổng Thuốc Sơn, huyện Hữu Lũng. Ông tập hợp nhiều thanh
niên trong vùng tập luyện võ để tổ chức đánh phỉ bảo vệ nhân dân nên ông được
cử làm cai tổng. Khi thực dân Pháp tiến đánh Lạng Sơn qua Hữu Lũng, nghĩa
quân Hoàng Đình Kinh đã chặn đánh quyết liệt làm cho chúng phải rút quân về Bắc
Ninh. Khi quân Pháp mở đợt tiến đánh Lạng Sơn lần thứ 2, nghĩa quân Hoàng
Đình Kinh đã phục đánh ở cầu Quan Âm - Sông Hoá và giành thắng lợi lớn.
|
|
17
|
Hoàng Văn Côn
|
Hoàng Văn Côn, sinh ra ở xóm
Đồng Thuốc, xã Thuốc Sơn, tổng Thuốc Sơn, huyện Hữu Lũng. Thủa thiếu thời, cậu
bé Hoàng Văn Côn đã nổi tiếng mạnh khỏe, thông minh, tháo vát. Trong những trận
chiến đấu quyết liệt với quân giặc, Hoàng Văn Côn luôn là người chỉ huy tài
ba, là trợ thủ đắc lực và trung thành của thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh.
|
|
18
|
Hoàng Quế Thọ
|
Ông Hoàng Quế Thọ, tên thường
gọi là Cai Thọ sinh ra ở thôn Tòng Chu, tổng Cam Thủy (nay là thị trấn Bình
Gia, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn). Những năm 1870 - 1880, ông đã được bổ
làm chánh tổng sau đó là trị huyện Bình Gia. Năm 1882, Hoàng Đình Kinh dựng cờ
khởi nghĩa đã nổi khắp các vùng. Năm 1883, Hoàng Quế Thọ đã quy phục dưới trướng
của Thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh cùng tham gia đánh phỉ và Pháp. Thủ lĩnh Hoàng
Đình Kinh phân công Hoàng Quế Thọ cai quản vùng Bình Gia để án ngữ giặc phỉ từ
Trung Quốc, Thất Khê tràn sang. Ông Hoàng Quế Thọ đã xây dựng căn cứ địa ở
Hang Thẳm Khoách, rèn quân, tích trữ lương thực. Địa bàn hoạt động của ông rất
rộng bao gồm vùng Tràng Định, Bình Gia, Bắc Sơn đến cả huyện Võ Nhai của tỉnh
Thái Nguyên. Trước tình hình giặc phỉ cướp bóc dã man dân lành, ông đã tập hợp
Nhân dân chống giặc phỉ với nhiều trận đánh thành công.
|
|
19
|
Thừa Khoát
|
Thừa Khoát, quê ở Làng Lằm xã
Đằng Yên (nay là xã Yên Sơn huyện Hữu Lũng), ông là người tham mưu cho bộ chỉ
huy nghĩa quân Cai Kinh chuyển căn cứ vào Đằng Yên quê hương của ông để đánh
địch lâu dài. Sự tham mưu của ông được thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh và bộ chỉ huy
chấp nhận. Tại khu căn cứ, Hoàng Đình Kinh giao nhiệm vụ cho Thừa Khoát chốt
giữ vùng trọng yếu của trung tâm tạo thành thế trận liên hoàn.
|
|
20
|
Hoàng Thái Nam
|
Hoàng Thái Nam là người Bắc
Sơn. Ông là một trong những tướng lĩnh của nghĩa quân Cai Kinh, được Cai Kinh
phân công cùng Hoàng Thái Nhân phụ trách địa bàn Bắc Sơn - Thái Nguyên. Hoàng
Thái Nam vận động Nhân dân không hợp tác với Pháp và phỉ. Tổ chức canh phòng
và thành lập các tổ phòng vệ. Khi phát hiện Pháp hoặc phỉ vào làng thì thông
báo có toàn dân và tổ chức đánh trả. Vận dụng các hình thức thông tin, gõ mõ,
rào làng, hô hào, vây bắt, chạy trốn...để chống phỉ - giặc cướp.
Hoàng Thái Nhân - Hoàng Thái Nam
là những vị thủ lĩnh dưới trướng của Hoàng Đình Kinh đã sát cánh bên nhau đồng
cam cộng khổ bảo vệ dân làng với nhiều chiến công góp phần cùng Nhân dân xứ Lạng
đánh tan bọn phỉ và chống Pháp xâm lược.
|
|
21
|
Hoàng Thái Nhân
|
Hoàng Thái Nhân là người Bắc Sơn,
ông tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa và là một vị chỉ huy của nghĩa quân Cai
Kinh. Những năm 1878 - 1883, ông cùng cùng với Hoàng Thái Nam vận động Nhân
dân chống phỉ ở vùng Bắc Sơn, Thái Nguyên. Năm 1882, Hoàng Đình Kinh phất cờ
khởi nghĩa. Hoàng Thái Nhân đã đầu quân tham gia cuộc khởi nghĩa cai Kinh. Dưới
sự phân công của Cai Kinh, Hoàng Thái Nhân phối hợp cùng với Hoàng Thái Nam
chỉ huy chặn đánh Pháp ở vùng Bắc Sơn.
Ngoài việc vận động Nhân dân
chống Pháp, Chống phỉ, xây dựng căn cứ địa chiến đấu, Hoàng Thái Nhân còn
tham gia chỉ huy đánh nhiều trận chống Pháp. Tiêu biểu là trận ngày ngày
31/5/1886, trên con đường huyết mạch Lạng Sơn - Phủ Lạng Thương, Bắc Giang do
nghĩa quân Cai Kinh làm chủ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng Thái Nhân tiến
đánh đồn Than Muội ở Chi Lăng tiêu diệt một số lớn quân Pháp rồi rút lui an
toàn.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn
Xuân Cần trong cuốn sách Khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh (1882-1888), năm 1884,
ông cùng với Lưu Kỳ khởi nghĩa đánh Pháp ở vùng Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang gọi là
Cuộc khởi nghĩa do Lưu Kỳ - Hoàng Thái Nhân lãnh đạo (1884 - 1894). Hoàng
Thái Nhân là vị chỉ huy đánh du kích giỏi, biến hóa khôn lường, thông thạo lối
tác chiến phục kích bất ngờ.
|
|
22
|
Hoàng Đình Hai
|
Hoàng Đình Hai hay còn gọi là
Cai Hai, là em ruột của Cai Kinh. Ông bị giết hại khoảng cuối năm 1887. Khi
Hoàng Đình Kinh nổi lên dựng cờ đánh giặc, Hoàng Đình Hai là người trợ thủ đắc
lực, trung thành. Sau khi Hoàng Đinh Kinh được thăng chức từ cai tổng lên làm
quan tri huyện Hữu Lũng thì chính Hoàng Đình Hai là người được thay thế anh
trai giữ chức Cai tổng Thuốc Sơn. cũng từ đó người ta thường gọi ông là Cai
Hai. Trong những trận chiến đấu với quân giặc, Cai Hai luôn là người dũng cảm,
có tài chỉ huy lập được nhiều chiến công nên được Hoàng Đình Kinh giao giữ trọng
trách tư lệnh binh quyền, vị tướng tham mưu của nghĩa quân. Ông có nhiều công
lao trong việc xây dựng căn cứ cuộc khởi nghĩa và tổ chức những trận chiến đấu
chống Pháp xâm lược.
|
|
23
|
Hoàng Văn Hán
|
Hoàng Văn Hán (1910 -1945),
nguyên quán: Nông Lục, Hưng Vũ Bắc sơn, Lạng Sơn - Chỉ huy trưởng đội Du kích
Bắc Sơn năm 1940
Vào 20h00 ngày 27/9/1940, dưới
sự chỉ huy của Hoàng Văn Hán, khoảng 600 chiến sỹ cách mạng và quần chúng
Nhân dân chia làm 3 mũi tấn công đồn Mỏ Nhài. Trước sức mạnh của cách mạng,
sau 15 phút, địch phải rút chạy. Ngay sau khởi nghĩa thành công, đồng chí
Hoàng Văn Hán thay mặt quân khởi nghĩa cách mạng tuyên bố xóa bỏ chính quyền
thực dân và tiêu hủy tài liệu, sổ sách, bằng, triện thu được của địch. Bắc
Sơn hoàn toàn giải phóng sau 60 năm nô lệ dưới ách thống trị của thực dân
Pháp.
|
|
24
|
Nông Bản Xuân
|
Nông Bản Xuân là người dân tộc
Nùng quê ở Làng Ngũa xã Chi Lăng ngày nay, bạn thân với Hoàng Đinh Kinh từ
thuở nhỏ. Khi Hoàng Đinh Kinh dựng cờ đánh giặc, Nông Bản Xuân đầu quân dưới
cờ nghĩa và nhanh chóng trở thành người cầm quân có tài, được Hoàng Đình Kinh
rất quý trọng và tin cẩn.
|
|
25
|
Cai Hào
|
Cai Hào là người thuộc huyện
Chi Lăng ngày nay. Cai Hào là một vị tướng tài của nghĩa quân Cai Kinh. Ông được
thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh rất tin tưởng nên giao hậu cứ trực tiếp phía sau cho
Cai Hào đóng ở Hữu Liên bao quát toàn vùng từ Y Tịch, Vạn Linh, Bằng Mạc, Bằng
Hữu, Thượng Cường (Chi Lăng) và Tri Lễ, Hữu Lễ (Văn Quan). Đồng thời là đầu mối
liên hệ và thị sát tình hình với Hoàng Quế Thọ ở Bình Gia, Hoàng Thái Nhân,
Hoàng Thái Nam ở Bắc Sơn.
Cai Hào có công lớn trong việc
chuẩn bị hậu cần, chuẩn bị lực lượng và thị sát tình hình địch để tham mưu
cho thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh tiến công đánh địch. Tiêu biểu là các trận đánh
đồn Than Muội xã Quang Lang, đồn Làng Chiếng xã Mai Sao và nhiều trận đánh lớn,
nhỏ khác dọc đường số 1 từ Lạng Giai đến Chi Lăng, Hòa Lạc... gây cho địch
nhiều tổn thất lớn.
Khi Hoàng Đình Kinh bị thất
thế, chính Cai Hào là người đã che chở, bảo vệ Hoàng Đình Kinh rời đại bản
doanh để đi tìm đường hướng mới và gây dựng lại sự nghiệp. Chẳng may, một lần
nữa hoàng Đình Kinh lại bị làm phản và bị bắt và bị sát hại tại vùng Mai Pha
- Lạng Sơn ngày 6 tháng 7 năm 1888.
|
|
26
|
Nguyễn Đình Liêm
|
Năm 1853 Nguyễn Thành Tứ đem
quân cướp phá vùng Trấn Nam Quan (châu Văn Uyên) Kỳ Lừa (châu Thoát Lãng) đã
bị quân của tù trưởng Vi Văn Lý đánh bại. Năm 1862 quân Thanh do Trịnh Chí Hải
và Triệu Quang Tô chỉ huy vào cướp phá vùng Thanh Long, Tân Mỹ, Bảo Lâm cũng
bị quân của Vi Văn Lý chặn đánh phải chạy về bên kia biên giới. Năm 1867 Ngô
Côn tự xưng là Thái Bình thiên vương đem ba vạn quân đánh vào Cao Bằng, Thất
Khê. Nhân dân Văn Lãng dưới sự chỉ huy của Nguyễn Đình Liêm và Hà Văn Tinh đã
chặn đánh chúng suốt trên đường từ Thất Khê qua Na Sầm về Lạng Sơn.
|
|
27
|
Vi Văn Định
|
Tổng đốc Vi Văn Định (1880 -
1975), dân tộc Tày, sinh tại Bản Chu, làng Khuất Xá, châu Lộc Bình, tỉnh Lạng
Sơn (nay là xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn).
Ông được cử làm Tri châu Lộc
Bình (1901). Năm 1909, ông được thăng tri phủ Tràng Khanh. Năm 1913, Thương
tá tỉnh Lạng Sơn, rồi năm 1913-1918 làm Án sát tỉnh Cao Bằng. Từ năm 1921 -
1922, ông làm Tuần phủ tỉnh Cao Bằng cho đến khi chuyển về giữ chức Tuần phủ
tỉnh Phúc Yên (1923- 1927), Hưng Yên (1927-1929). Năm 1929, ông được thăng Tổng
đốc tỉnh Thái Bình (1929-1937), đến năm 1937, ông chuyển về làm Tổng đốc tỉnh
Hà Đông (1937-1941) tháng 8-1941, ông được phong tước An Phước Nam (Nam tước),
hàm Thái tử Thiếu Bảo. Ông tham gia Hội Khai trí Tiến đức với chức danh trưởng
ban vận động hội viên tán trợ.
|
|
28
|
Lộc Văn Lùng
|
Bí danh Văn Tiên, dân tộc Tày
(1903- 1969), quê quán Nà Chuông, Cao Lộc (nay là xã Mai Pha, thành phố Lạng
Sơn). Ông là 1 trong 34 chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đầu
tiên, gồm 3 tiểu đội, với 34 chiến sĩ được chọn lọc từ những chiến sĩ du kích
Cao - Bắc - Lạng, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đồng chí
Lùng được giao bảo đảm kịp thời cơm nước, thuốc men cho toàn đội. Sau này, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét về người quản lý của đội: "Coi trọng từng
đồng xu, từng hạt gạo của công quỹ, chỉ có một nguyện vọng là được trao lại
nhiệm vụ quản lý cho một đồng chí khác để trực tiếp cầm súng chiến đấu".
Với những đóng góp khi tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và
sau này công tác, đồng chí Lộc Văn Lùng được xem như là nhân viên tài chính đầu
tiên của quân đội ta. Ông về hưu ngày 1/11/1965 với quân hàm đại úy, chức vụ
cao nhất trước khi nghỉ hưu là tiểu đoàn phó, thuộc cơ quan đối ngoại Bộ Quốc
phòng.
|
|
29
|
Hoàng Đình Giong
|
Hoàng Đình Giong (1904-1947)
quê ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Giữa năm 1927, ông sang Long Châu (Trung
Quốc) gặp Hoàng Văn Thụ và được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội. Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng và phân công hoạt động tại
Chi bộ Cộng sản hải ngoại tại Long Châu. Đây là Chi bộ Cao Lạng do Hoàng Đình
Giong làm Bí thư. Tại Đại hội Đảng lần thứ nhất (họp tại Ma Cao, Trung Quốc)
năm 1935, Hoàng Đình Giong được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực
tiếp phụ trách phong trào Bắc Kỳ.
|
|
30
|
Hoàng Văn Thụ
|
Đồng chí Hoàng Văn Thụ người
dân tộc Tày sinh ngày 04 tháng 11 năm 1909, ở xã Nhân Lý, huyện Văn Uyên, tỉnh
Lạng Sơn. Thuở nhỏ học ở trường làng. Từ năm 1923 học ở trường tiểu học Pháp
- Việt Lạng Sơn. Năm 1927, giác ngộ cách mạng đến cuối năm 1928 được kết nạp
vào tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, hoạt động ở vùng biên
giới Việt Trung.
Tháng 12 năm 1929 đồng chí được
kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng, được phân công nhiệm vụ xây dựng phong
trào cách mạng ở Lạng Sơn. Từ năm 1934 đến năm 1938 đồng chí là Bí thư Chi bộ
Đảng trực thuộc Ban lãnh đạo Trung ương chỉ đạo phong trào cách mạng Lạng
Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên. Đồng chí đã trực tiếp tổ chức thành lập các cơ sở
Đảng đầu tiên của tỉnh Lạng Sơn như: Bắc Sơn 1936 và Phi Mỹ (nay là xã Tri
Phương, huyện Tràng Định) năm 1938.
Từ tháng 5 năm 1938 đến giữa
năm 1939 đồng chí là Ủy Viên trong ban lãnh đạo Xứ ủy Bắc kỳ, phụ trách công
tác củng cố phát triển các cơ sở Đảng và quần chúng cách mạng ở Thái Nguyên,
Hải Hưng, Vĩnh Yên và vùng mỏ Quảng Minh. Tháng 9 năm 1939 đến tháng 10 năm
1940 đồng chí là Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ.
Tại Hội nghị trung ương lần
thứ VII tháng 11 năm 1940 đồng chí được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng,
lãnh đạo việc duy trì phát triển Đội du kích Bắc Sơn và xây dựng căn cứ địa Bắc
Sơn - Vũ Nhai. Tại hội nghị trung ương lần thứ VIII tháng 5 năm 1941 đồng chí
được bầu vào Ban Thường vụ trung ương, đặc trách công tác mặt trận và binh vận
của Đảng.
Ngày 25 tháng 8 năm 1943, đồng
chí bị giặc bắt ở khu Tám Mái (Hà Nội) và bị giết hại ngày 24 tháng 5 năm
1944, tại trường bắn Tương Mai, Hà Nội.
|
|
31
|
Lương Văn Tri
|
Đồng chí Lương Văn Tri sinh
năm 1910, tại xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Điềm He (nay là xã Trấn Ninh,
huyện Văn Quan).
Năm 1923 đồng chí đi học tại
trường tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn, cùng lớp với đồng chí Hoàng Văn Thụ.
Năm 1927, Lương Văn Tri cùng với đồng chí Hoàng Văn Thụ sang Trung Quốc bắt
liên lạc với tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Tháng 12 năm
1929 đồng chí được kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng cùng với đồng chí
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Hoàng Tú Hưu, sau đó đồng chí vào học trường
quân sự Hoàng Phố và công tác tại Trung Quốc.
Đến cuối năm 1940, Xứ ủy Bắc
Kỳ cử đồng chí Ngô Thế Sơn - Xứ ủy viên đón đồng chí Lương Văn Tri về bãi Soi
làng Vân (Hiệp Hòa, Bắc Giang), bổ sung vào Xứ ủy. Tại đây đồng chí Lương Văn
Tri cùng đồng chí Hoàng Văn Thái mở lớp huấn luyện quân sự. Sau đó Xứ ủy cử đồng
chí đi Bắc Sơn làm chỉ huy trưởng đội du kích Bắc Sơn. Sau hội nghị Trung
ương lần thứ 8, ngày 19 tháng 5 năm 1941 đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên
Trung ương Đảng được cử làm chỉ huy trưởng đội cứu quốc quân, đồng chí Lương
Văn Tri làm phó chỉ huy. Cuối năm 1941 đồng chí bị địch bắt ở cây số 13 đường
Cao Bằng đi Ngân Sơn và mất tại nhà tù Cao Bằng năm 1942.
|
|
32
|
Lô Quang Nam
|
Lô Quang Nam sinh năm 1911,
quê quán Bình Long, Hoà An, Cao Bằng. Từ giữa năm 1930, người chiến sĩ cộng sản
Hoàng Văn Thụ về vùng biên giới Lạng Sơn hoạt động gây dựng cơ sở và hạt giống
cách mạng của Đảng được gieo mầm trên mảnh đất Xứ Lạng. Đến giữa năm 1933,
Chi bộ Thụy Hùng, Văn Uyên (nay là xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc) được thành lập
với 05 đảng viên (đây là chi bộ cộng sản đầu tiên ở tỉnh Lạng Sơn). Tháng
8/1934, thành lập Ban Cán sự tỉnh Lạng Sơn và các chi bộ cộng sản tiếp tục ra
đời trên địa bàn tỉnh.
Trước tình hình phong trào
cách mạng phát triển mạnh mẽ, Hội nghị kiện toàn củng cố Tỉnh ủy Lạng Sơn lâm
thời được tiến hành giữa tháng 5 năm 1945 tại khu rừng Khau Kham, xã Hoa
Thám, huyện Bình Gia. Hội nghị cử Ban Chấp hành lâm thời gồm 04 ủy viên. Đồng
chí Lô Quang Nam được cử làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, đồng thời là Chủ tịch
lâm thời Ủy ban hành chính tỉnh (1945-1946).
|
|
33
|
Lê Huyền Trang
|
Lê Huyền Trang (1913-1988),
tên thật là Trương Văn Pảo người dân tộc Tày. sinh tại xã Hồng Phong, huyện
Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Tham gia cách mạng Tháng 3 năm 1945, vào Đảng ngày
29/2/1946. Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Hành chính tỉnh Lạng Sơn từ năm 1946 - 1948, Chủ tịch Ủy ban Hành
chính Kháng chiến tỉnh Lạng Sơn từ năm 1948 - 1953; Đại biểu Quốc hội nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa Khóa I (năm 1946) thuộc Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng
Sơn; nguyên Vụ trưởng Vụ Nội chính thuộc Ban Dân tộc Trung ương nay là Ủy ban
Dân tộc Chính phủ.
Trong suốt thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ông đã cùng với tập
thể lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn tổ chức, động viên cán bộ, Nhân dân vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ, lập nên chính quyền cách mạng tỉnh Lạng Sơn; tiếp đó xây
dựng các khu căn cứ vừa ổn định mọi mặt đời sống của Nhân dân, phát triển
tăng gia sản xuất, vừa tham gia đóng góp sức người, sức của cho các chiến dịch
như: Chiến dịch Thu - Đông (1947), Chiến dịch Biên giới (1950), Chiến dịch Điện
Biên Phủ (1954),… Ông đã được Chủ tịch Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng
chiến Hạng Nhất.
|
|
34
|
Trần Minh Tước (Xích Điểu)
|
Sinh năm 1913, dân tộc Kinh.
Quê quán: Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), là Chủ tịch Ủy
ban hành chính kháng chiến tỉnh Lạng Sơn năm 1947.
|
|
35
|
Bế Chấn Hưng
|
Đồng chí Bế Chấn Hưng
(1919-1988) tên thật là Bế Hữu Khiên, dân tộc Nùng sinh ngày 30/10/1919 tại bản
Na Hình, thuộc xã Thụy Hùng, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí đã sớm
giác ngộ cách mạng và tham gia các hoạt động yêu nước. Tháng 6/1945 gia nhập
Đảng Cộng sản Đông Dương tham gia lãnh đạo Nhân dân khởi nghĩa giành chính
quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở địa phương. Sau ngày hòa bình lập lai,
đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách: Cuối năm 1956, Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn đã bầu đồng chí Bế Chấn Hưng làm Bí thư Tỉnh ủy
khi đồng chí ở tuổi 37. Từ đó đến năm 1963 đồng chí là Khu ủy viên khu tự trị
Việt Bắc, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lạng Sơn. Từ năm
1963 - 1976, đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn. Cuối
năm 1976, sáp nhập tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, từ 1976 -
1978, đồng chí là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Cao Lạng.
Ghi nhận những công lao to lớn
của đồng chí Bế Chấn Hưng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng và Nhà nước
đã trao tặng đồng chí nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến thắng hạng
Nhì; Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng
Nhất; Huân chương Độc lập hạng Nhất. Năm 2011 Chủ tịch nước đã ký quyết định
truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho đồng chí.
|
|
36
|
Đàm Quang Trung
|
Thượng tướng Đàm Quang Trung
(1921 - 1995), tên gọi khác: Đàm Ngọc Lưu, dân tộc: Tày, quê quán: xã Sóc Hà,
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tham gia cách mạng từ năm 1937, là Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1939. Năm 1940 đồng chí bị Pháp bắt giam và quản
thúc tại địa phương. Năm 1944 tham gia xây dựng cơ sở cách mạng và huấn luyện
du kích ở vùng biên giới phía Bắc; gia nhập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân (12/1944). Từng giữ chức vụ Đại đội trưởng Giải phóng quân; Khu
trưởng Đặc khu Hà Nội; Trung đoàn trưởng, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 31 Liên
khu 5 (1945 - 1946); Chỉ huy trưởng Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng; Phó Tư lệnh,
kiêm Trung đoàn trưởng chủ lực Liên khu 5; Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312; Tư lệnh
Quân khu Đông Bắc, kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 322; Tư lệnh Quân khu Việt Bắc;
Tư lệnh Bộ Tư lệnh tiền phương của Bộ Quốc phòng tại Mặt trận B5; Tư lệnh,
kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 4 (1973 - 1975); Tư lệnh kiêm
Chính ủy Quân khu 1; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, kiêm Chủ tịch Hội đồng
Dân tộc; UV Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV - VI; Bí thư Trung
ương Đảng khóa VI; Đại biểu Quốc hội khóa IV - VIII. Đồng chí đã được tặng
thưởng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Quân
công (02 hạng Nhất, 01 hạng Nhì); Huân chương Chiến thắng hạng Nhất...
|
|
37
|
Nông Minh Lý
|
Nông Minh Lý sinh năm 1921,
dân tộc Tày. Quê quán: Đa Nông, Thông Nông, Cao Bằng.
Từ tháng 1/1964 - 4/1968, ông
là Tỉnh ủy viên, Chính trị viên Tỉnh đội, Bí thư Ban cán sự Tỉnh đội Cao Bằng.
Ông giữ chức vụ Ủy viên Ban
Thường vụ tỉnh ủy Cao Bằng khóa VII (1969 - 1974); Phó Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng
khóa VIII (1974 - 1976)
Khi thực hiện chủ trương sáp
nhập tỉnh Cao Lạng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Lạng đã tổ chức kỳ họp đầu
tiên từ ngày 10 đến 12/02/1976 tại thị xã Lạng Sơn. Tại kỳ họp đã tiến hành
phân công các đồng chí trong ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Cao Lạng,
ông đã được phân công giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh
Cao Lạng (1976 - 1977).
|
|
38
|
Hoàng Trường Minh
|
Đồng chí Hoàng Trường Minh
tên thật là Hoàng Khải Lủn, sinh năm 1922, dân tộc Tày; quê quán xã Phương
Thông, huyện Bạch Thông (Bắc Thái cũ). Nay là xã Phương Linh, huyện Bạch
Thông (Bắc Cạn).
Từ tháng 3-1945 đến tháng
3-1946, đồng chí Hoàng Trường Minh tham gia Thanh niên cứu quốc. Tháng 7-1945,
đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí đã được Đảng,
Nhà nước phân công giữ nhiều cương vị quan trọng: Thời gian 1954 - 1976 là Bí
thư Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lào Cai; tháng 8-1976 là Bí
thư Tỉnh ủy Lạng Sơn; từ năm 1976 - 1978 là Bí thư Tỉnh ủy Cao Lạng; từ năm
1978 đến năm 1981 là Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn. Đồng chí nguyên là Ủy viên BCH
Trung ương Đảng các Khóa IV, V và VI; nguyên Đại biểu QH các Khóa: II, III,
IV, V, VI, VII và VIII; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH (Khóa VII); Phó Chủ
tịch QH Khóa VIII; Ủy viên Đoàn Chủ tịch MTTQ Việt Nam Khóa II và Khóa III;
Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Lào. Từ năm 1982 đến 1989 đồng chí là Ủy viên
BCH Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân tộc Trung ương.
|
|
39
|
Hà Tân Cương
|
Đồng chí Hà Tân Cương, tên
thường gọi là Hà Văn Thức sinh ra ở thôn Nà Pàn, xã Hoa Thám, huyện Bình Gia.
Sau khi Tổng bộ Việt Minh ra
Chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa” (7/1944) Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng
đã đề ra chủ trương xúc tiến công việc chuẩn bị khởi nghĩa khắp 3 tỉnh, nhanh
chóng tổ chức phong trào cách mạng ở địa phương chưa thực sự phát triển. Thực
hiện chủ trương đó, cuối tháng 7 năm 1944, đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí
Hà Khai Lạc đã được Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc-Lạng phái về tổ chức
phát triển phong trào cách mạng ở Bình Gia. 20/3/1945 Trung đội vũ trang đầu
tiên của Bình Gia đã được thành lập tại Nà Nặm, thôn Bản Cù (xã Hoa Thám) với
36 chiến sĩ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí
Hà Khai Lạc. Cuối tháng 3 năm 1945, Trung đội vũ trang tuyên truyền đã tiến
công tước vũ khí của bọn lính Dõng ở xã Hoa Thám do tên Xã Đoàn cầm đầu, tiêu
diệt một số tên tay sai ác ôn ở địa bàn xã, ở địa bàn xã Hưng Đạo. Sau thắng
lợi đầu tiên đó, Chỉ huy Trung đội vũ trang tuyên truyền đã phát động quần
chúng, tổ chức một cuộc mít tinh tại trung tâm xã Hưng Đạo, Tuyên truyền, phổ
biến cho quần chúng cách mạng về chính sách Mặt trận Việt Minh, kêu gọi quần
chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Đêm 18 tháng 4 năm 1945 1 đội
vũ trang giải phóng do đồng chí Dương Quốc Vinh chỉ huy đã tiến về châu lỵ
Bình Gia, cùng thời gian trên đội vũ trang giải phóng Bình Gia do đồng chí Hà
Khai Lạc và đồng chí Hà Tân Cương chỉ huy từ Văn Mịch đã hành quân về châu lỵ,
kịp thời phối hợp với đội vũ trang giải phóng châu Bắc Sơn, phát động quần
chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở Bình Gia.
|
|
40
|
Hà Khai Lạc
|
Đồng chí Hà Khai Lạc (tức
Hoàng Doãn Tạo) là một trong bốn đảng viên đầu tiên của Chi bộ đảng ở Bắc
Sơn.
Sau khi Tổng bộ Việt Minh ra
Chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa” (7/1944) Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng
đã đề ra chủ trương xúc tiến công việc chuẩn bị khởi nghĩa khắp 3 tỉnh, nhanh
chóng tổ chức phong trào cách mạng ở địa phương chưa thực sự phát triển. Thực
hiện chủ trương đó, cuối tháng 7 năm 1944, đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí
Hà Khai Lạc đã được Ban Việt Minh liên tỉnh Cao- Bắc-Lạng phái về tổ chức
phát triển phong trào cách mạng ở Bình Gia. 20/3/1945 Trung đội vũ trang đầu
tiên của Bình Gia đã được thành lập tại Nà Nặm, thôn Bản Cù (xã Hoa Thám) với
36 chiến sĩ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Hà Tân Cương và đồng chí
Hà Khai Lạc. Cuối tháng 3 năm 1945, Trung đội vũ trang tuyên truyền đã tiến
công tước vũ khí của bọn lính dõng ở xã Hoa Thám do tên Xã Đoàn cầm đầu, tiêu
diệt một số tên tay sai ác ôn ở địa bàn xã, ở địa bàn xã Hưng Đạo. Sau thắng
lợi đầu tiên đó, Chỉ huy Trung đội vũ trang tuyên truyền đã phát động quần
chúng, tổ chức một cuộc mít tinh tại trung tâm xã Hưng Đạo, Tuyên truyền, phổ
biến cho quần chúng cách mạng về chính sách Mặt trận Việt Minh, kêu gọi quần
chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Đêm 18 tháng 4 năm 1945, một
đội vũ trang giải phóng do đồng chí Dương Quốc Vinh chỉ huy đã tiến về châu lỵ
Bình Gia, cùng thời gian trên đội vũ trang giải phóng Bình Gia do đồng chí Hà
Khai Lạc và đồng chí Hà Tân Cương chỉ huy từ Văn Mịch đã hành quân về châu lỵ,
kịp thời phối hợp với đội vũ trang giải phóng châu Bắc Sơn, phát động quần
chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở Bình Gia.
Ông được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng có công với nước, Huân chương độc lập
hạng nhì.
|
|
41
|
Hoàng Minh Thảo
|
Hoàng Minh Thảo sinh năm
(1921-2008), năm 1930 ông theo cha lên Thất Khê (Tràng Định - Lạng Sơn) kiếm
kế sinh nhai bằng nghề thợ may, ông đã học hết tiểu học hệ 6 năm tại Thất
Khê. Năm 1941 ông tham gia Việt Minh và là một trong năm người được lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc cử đi học Quân sự ở Liễu Châu, Trung Quốc. Cuối năm 1944 ông
tham gia gây dựng cơ sở chính trị và xây dựng lực lượng du kích ở biên giới Lạng
Sơn. Tháng 01 năm 1945 ông tham gia Ban phụ trách công tác biên giới của Tổng
bộ Việt Minh, ông đã chỉ huy đội du kích tiêu diệt đồn Pò Mã. Ngày 03/3/1945
ông gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương và tham gia giành Chính quyền ở huyện
Tràng Định - Lạng Sơn.
|
|
42
|
Hoàng Văn Kiểu
|
Hoàng Văn Kiểu (1921-2006),
sinh tại xã Hội Hoan, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Ông người dân tộc Tày,
cán bộ lão thành cách mạng, vào Đảng cộng sản Việt Nam ngày 20/6/1942. Trải
qua các chức vụ Ủy viên trung ương đảng các khóa III và IV, Trưởng ban cán sự
Đảng khu Lao - Hà - Yên, phó bí thư khu ủy khu tự trị Việt Bắc, Bí thư khu ủy
khu tự trị Tây Bắc, chính ủy quân khu Tây Bắc, Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp, Trưởng
ban Dân tộc trung ương Đảng kiêm Chủ nhiệm ủy ban dân tộc của Chính phủ, Phó
chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, Chủ tịch Ủy
ban kháng chiến tỉnh Lạng Sơn.
|
|
43
|
La Thăng
|
La Thăng (1923-2014), tức La
Văn Học là nhà hoạt động cách mạng, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn. Quê quán:
xã Đại Đồng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Ông tham gia cách mạng từ tháng
3/1945; nguyên cán bộ huyện Đông Bắc, phụ trách các xã Hùng Sơn, Quốc Khánh,
Trung Thành, Đào Viên, Quốc Việt; cán bộ tuyên truyền vận động quần chúng ở
huyện Tiên Yên, tỉnh Hải Ninh cũ (nay là tỉnh Quảng Ninh);
Sau đó ông trải qua các chức
vụ trong công tác Đảng và chính quyền tại tỉnh Lạng Sơn: Bí thư Huyện ủy Đông
Bắc, tỉnh Lạng Sơn; Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Tràng Định, Trưởng Chi
nhánh Ngân hàng tỉnh, Phó Ban Kinh tế tỉnh, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Lạng
Sơn; Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh ủy Lạng Sơn; Ủy viên Kiểm tra Khu ủy Việt Bắc, Phó Ban thanh
tra chính quyền Khu tự trị Việt Bắc, Khu ủy viên, Giám đốc Sở Thủy lợi Khu tự
trị Việt Bắc; Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Ủy
viên Trung ương Đảng các khóa V, VI, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn (1983 - 1991).
Ông đã được tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến
hạng Nhất, Nhì; Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.
|
|
44
|
Bế Chu Lang
|
Sinh năm 1925, dân tộc Tày, quê
quán tại xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, Nguyên Phó Chính ủy
Trung đoàn 176, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 1980 - 1985.
|
|
45
|
Lương Ích Lập
|
Sinh năm 1927, dân tộc Tày,
quê quán huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Là đại biểu Quốc hội khóa IV, V. Khi thực
hiện sáp nhập tỉnh Cao Lạng, ông đã được phân công giữ chức vụ Chủ tịch ủy
ban hành chính tỉnh Cao Lạng (1977 - 1978).
|
|
46
|
Hồ Quang Thành
|
Để có chỉ đạo trực tiếp của Đảng
sát với tình hình địa phương, ngày 03/11/1946 Hội nghị thành lập Chi bộ Đảng
Cộng sản huyện Hữu Lũng được tổ chức tại gác 2 nhà ông Ký Chất (Chợ Mẹt hiện
nay), đồng chí Hồ Quang Thành được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng đầu tiên của
huyện Hữu Lũng, tất cả các đồng chí đảng viên dự Hội nghị đã tuyên thệ dưới cờ
vinh quang của Đảng, nguyện hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng,
vì tương lai hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập, tự do của dân tộc
|
|
47
|
Dương Quốc Vinh
|
Thực hiện chủ trương của Cứu
quốc quân về đẩy mạnh việc tuyên truyền giác ngộ, tập hợp quần chúng, chuẩn bị
khởi nghĩa giành chính quyền, cuối tháng 2 năm 1945, đồng chí Dương Quốc Vinh
cán bộ Cứu quốc quân được phân công đến Bình Gia để gây dựng phong trào, giúp
đỡ quần chúng, đồng chí Dương Quốc Vinh đã nhanh chóng giác ngộ, tập hợp được
1 số quần chúng trung kiên làm nòng cốt cho phát triển phong trào quần chúng
cách mạng trên địa bàn các xã gần trung tâm huyện lỵ.
Đêm 18 tháng 4 năm 1945, 1 đội
vũ trang giải phóng do đồng chí Dương Quốc Vinh chỉ huy đã tiến về châu lỵ
Bình Gia, cùng thời gian trên đội vũ trang giải phóng Bình Gia do đồng chí Hà
Khai Lạc và đồng chí Hà Tân Cương chỉ huy từ Văn Mịch đã hành quân về châu lỵ,
kịp thời phối hợp với đội vũ trang giải phóng châu Bắc Sơn, phát động quần
chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở Bình Gia. Sáng ngày 19 tháng 4
năm 1945, sau khi tiến công Đồn Bình Gia, giành thắng lợi hoàn toàn, hàng
nghìn quần chúng cách mạng đã tham gia mít tinh mừng thắng lợi của cách mạng
tại Trung tâm Thị trấn Bình Gia, trước đông đảo quần chúng cách mạng, đồng chí
Dương Quốc Vinh thay mặt Ban chỉ huy Khởi nghĩa đã tuyên bố xóa bỏ chính quyền
thực dân phong kiến, biểu dương tinh thần cách mạng của nhân dân…kêu gọi nhân
dân đứng lên tiếp tục bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.
|
|
48
|
Lê Đình Chinh
|
Lê Đình Chinh (1960-1978) là
chiến sĩ Công an Nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) đầu tiên hy
sinh trong chiến tranh biên giới Việt - Trung 1978-1979, tại mặt trận huyện
Cao Lộc trong khi thi hành nhiệm vụ ngăn cản quân Trung Quốc tràn qua biên giới
Việt Nam.
Lê Đình Chinh quê ở xã Hoằng
Quang, huyện Hoằng Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa. Ngày 30 tháng 8 năm 1978,
Lê Đình Chinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Tên anh được nhiều địa phương trên đất nước Việt Nam đặt tên đường, trường học,
trung học, nông trường. Một số sáng tác viết về Lê Đình Chinh có thể kể đến
như bài hát Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh (Nhạc sĩ Phạm Tuyên), Bài
ca tuổi trẻ Lê Đình Chinh (Nhạc sĩ Bảo Chung).
|
|
49
|
Đặng Văn Việt
|
Đặng Văn Việt (1920 - 2021)
là một trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là trung đoàn trưởng đầu
tiên của Trung đoàn 174 - một trong 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Ông từng được người Pháp mệnh danh là "Hùm xám đường
4" do thành tích chỉ huy Trung đoàn 174 giành được nhiều chiến tích
trong Chiến dịch Biên giới thu đông 1950. Tên ông gắn liền với các địa danh
trên trục đường số 4 địa phận huyện Văn Lãng như Bó Củng - Lũng Vài.
|
|
50
|
Đường Văn Thông
|
Đường Văn Thông (Bí danh Đường
Kỳ Tân) sinh (1915-1985), nguyên quán thôn Khéo Mèo, xã Xuân Tiễu, huyện Long
Châu, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, tham gia cách mạng năm 1936, vào Đảng cộng sản
Việt Nam 25/9/1936, là Bí thư chi bộ đảng đầu tiên tại Bắc Sơn, người đặt nền
móng về việc phát triển các tổ chức đảng tại Bắc Sơn tiến tới thành lập châu ủy
Bắc Sơn để lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa vũ trang. Ông được Nhà nước
tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huân chương chiến thắng hạng ba,
Bảng gia đình vẻ vang.
|
|
51
|
Đường Văn Tư
|
Đường Văn Tư (Bí danh Đường
Quảng Long) sinh ngày 24/01/1902 mất ngày 25/8/1976, nguyên quán thôn Khéo
Mèo, xã Xuân Tiễu, huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Tham gia cách
mạng năm 1934, vào Đảng cộng sản Việt Nam ngày 25/9/1936, Là thành viên của
chi bộ Đảng đầu tiên trực tiếp hoạt động và phát triển phong trào cách mạng tại
các xã phía Nam của huyện Bắc Sơn, tiến tới thành lập châu ủy Bắc Sơn để lãnh
đạo nhân dân đứng lên đấu tranh vũ trang. Trực tiếp tham gia cuộc Khởi nghĩa
Bắc Sơn 27/9/1940, tham gia đội du kích Bắc Sơn, tham gia đội Cứu quốc quân
1. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng có
công với nước, Huân chương độc lập hạng nhì.
|
|
52
|
Nguyễn Văn Phòng
|
Nguyễn Văn Phòng (bí danh Mai
Huyền) sinh ngày 15/10/1914 mất ngày 01/10/1985, Nguyên quán thôn Tràng Sơn,
xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Tham gia cách mạng năm 1934, vào Đảng
cộng sản Việt Nam ngày 25/9/1936, là thành viên của chi bộ Đảng đầu tiên trực
tiếp hoạt động và phát triển phong trào cách mạng tại địa bàn xã Vũ Lăng tới
thành lập châu ủy Bắc Sơn để lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa vũ trang.
Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng có công
với nước, Huận chương độc lập hạng nhì.
|
|
53
|
Nhạc Sơn
|
Đồng chí Nhạc Sơn tên khai
sinh là Phương Dính Slừ, không rõ năm sinh và năm mất, dân tộc Nùng, sinh sống
tại xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng
4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện. Tại hội nghị thành lập
chi bộ đầu tiên ở rừng hồi Pò Deng, xã Tân Đoàn (tháng 5/1946), đồng chí được
cử giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Đồng chí đã lãnh đạo chi bộ, phân công đảng
viên đi đến các địa phương trong huyện để tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp
những quần chúng trung kiên trong các Hội cứu quốc và Mặt trận Việt Minh vào
Đảng.
|
|
54
|
Nông Trọng Bình
|
Đồng chí Nông Trọng Bình tên
khai sinh là Nông Đình Vạn, sinh năm 1924, không rõ năm mất, dân tộc Nùng,
sinh sống tại thôn Khòn Cải, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng
chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những đảng viên đầu tiên của huyện
Văn Quan. Đồng chí giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ huyện Điềm He năm 1946; đã tham
gia trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần chúng ưu tú
vào Đảng; lãnh đạo xây dựng, phát triển tổ chức đảng, lãnh đạo, động viên
Nhân dân các dân tộc trong huyện đẩy mạnh công cuộc “chống giặc đói, chống giặc
dốt và chống giặc ngoại xâm”.
|
|
55
|
Phương Nháy
|
Đồng chí Phương Nháy, bí danh
là Hoan Oánh (1922 -1998), dân tộc Nùng, sinh sống tại thị trấn Văn Quan, huyện
Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một trong những
đảng viên đầu tiên của huyện Điềm He (nay là huyện Văn Quan); đồng chí đã có
những đóng góp trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những quần
chúng ưu tú vào Đảng.
|
|
56
|
Nguyễn Đức
|
Thượng tướng Nguyễn Văn Đức
(1923-2002). Đồng chí Nguyễn Văn Đức, quê quán: xã Minh Đức, huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc; năm tham gia cách mạng: 1939; năm vào Đảng: 1945. Quá trình
giữ các chức vụ: Phó Bí thư Huyện ủy Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc (1946); Bí thư
Huyện ủy Trấn Yên và Than Uyên, tỉnh Yên Bái (1948); Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy,
Chính trị viên Tỉnh đội Yên Bái (1951); Quyền Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái
(1954); Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn (1963-1975); Chánh Văn phòng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao (1977); Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên (1979); Thứ trưởng Bộ Nội vụ
(1986 - 1991), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V, VI. Trong thời
gian giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, đồng chí đã có nhiều đóng góp quan
trọng trong công tác chỉ đạo phong trào thủy lợi và phát triển các lĩnh vực
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Những phần thưởng cao quý đồng
chí đã được nhận: Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân
chương Độc lập hạng Nhất và nhiều phần thưởng khác.
|
|
57
|
Trung Thành
|
Đồng chí Trung Thành tên khai
sinh là Nông Văn Chính (1925 - 2021), dân tộc Tày, sinh sống tại xã Tân Đoàn,
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một
trong những đảng viên đầu tiên của huyện Điềm He (nay là huyện Văn Quan); đồng
chí đã có những đóng góp trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những
quần chúng ưu tú vào Đảng.
|
|
58
|
Thành Công
|
Đồng chí Thành Công tên khai sinh
là Lê Kỳ Khoay (1922 - 1991), dân tộc Nùng, sinh sống tại thôn Ba Xã, xã Tân
Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đồng chí kết nạp Đảng tháng 4/1946, là một
trong những đảng viên đầu tiên của huyện Điềm He (nay là huyện Văn Quan); đồng
chí đã có những đóng góp trong công tác tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp những
quần chúng ưu tú vào Đảng.
|
|
V.3
|
Danh nhân nước ngoài,
có cống hiến và có thời gian làm việc, chiến đấu tại tỉnh Lạng Sơn (02 tên)
|
|
1
|
Nguyễn Văn Lập
|
Kostas Saratidis Nguyễn Văn Lập
(1927-2021) người gốc Hy Lạp, bị bắt tham gia quân đội viễn chinh Pháp sang
Việt Nam với danh nghĩa đồng minh giải giáp quân đội phát xít Nhật (2/1946).
Nhận thức rõ bộ mặt thật và tội
ác của thực dân Pháp đối với Nhân dân Việt Nam, tháng 6/1946, tại Bình Thuận
ông tìm cách móc nối và gia nhập Mặt trận Việt Minh. Ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương năm 1949. Sau Hiệp nghị Giơnevơ 1954, ông tập kết ra miền
Bắc, tích cực tham gia xây dựng CNXH ở miền Bắc, công tác tại mỏ than Na
Dương (Lạng Sơn), mỏ thiếc Cao Bằng, Nhà máy in Tiến Bộ (Hà Nội), luôn hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 1958, ông kết hôn với một người phụ nữ Hà Nội và
sinh được 04 người con. Năm 1965, ông và gia đình chuyển về Hy Lạp sinh sống,
song vẫn luôn hướng về Việt Nam với nhiều hoạt động thiết thực: Thành lập Hội
Việt kiều yêu nước ở Hy Lạp, vận động quy góp quỹ ủng hộ đồng báo bị lũ lụt,
Quỹ nạn nhân chất độc màu da cam, Quỹ trái tim cho em… góp phần xây dựng tình
hữu nghị Việt Nam - Hy Lạp. Ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng
Nhất (1955), Huân chương Hữu nghị (2010), công nhận quốc tịch Việt Nam
(2010), phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (2013).
|
|
|
|
2
|
Takano Isao
|
Takano Isao (1943-1979):
còn có tên khác là Takano Isayo, là một nhà báo người Nhật Bản. Ông là một
trong những nhà báo quốc tế có mặt tường thuật tại chỗ trong Chiến tranh biên
giới Việt-Trung 1979 và bị trúng đạn tử thương khi đang tác nghiệp tại khu vực
đường Quang Trung, phường Chi Lăng, thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng
Sơn). Phần mộ của ông hiện vẫn còn ở Nghĩa trang liệt sĩ Hoàng Đồng, tỉnh Lạng
Sơn. Sau khi hy sinh, Takano Isao được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký quyết định
truy tặng Huân chương Hữu nghị. Nhạc sĩ Phó Đức Phương cũng đã sáng tác nhạc
phẩm “Takano - nhân chứng quả cảm” để tưởng nhớ ông. Ông còn là một dịch giả
và từng chuyển thể các tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam như Áo trắng
của nhà văn Nguyễn Văn Bổng và Mẹ vắng nhà của nhà văn Nguyễn Thi
sang tiếng Nhật.
|
|
|
|
Tổng cộng: 440 tên.
Quyết định 1121/QĐ-UBND năm 2023 phê duyệt Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 1121/QĐ-UBND ngày 21/07/2023 phê duyệt Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
858
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|