|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Quyết định 710/QĐ-UBND Ngân hàng tên đường phố công trình công cộng Điện Biên
Số hiệu:
|
710/QĐ-UBND
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Điện Biên
|
|
Người ký:
|
Mùa A Sơn
|
Ngày ban hành:
|
14/08/2015
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
710/QĐ-UBND
|
Điện
Biên, ngày 14 tháng 08 năm 2015
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
Căn cứ Luật tổ chức
HĐND và UBND ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số
91/2005/NĐ-CP, ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ ban hành Quy chế đặt tên,
đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số
36/2006/TT-BVHTT, ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Văn hóa Thông tin, Hướng dẫn
thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công
cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của
Chính phủ;
Xét đề nghị của Hội
đồng tư vấn đặt tên, đổi tên, đường phố và công trình công cộng trên địa bàn
tỉnh Điện Biên,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều
1. Ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh
Điện Biên (có Ngân hàng kèm theo).
Điều
2.
Giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan
chức năng:
- Tổ chức tuyên truyền,
phổ biến về giá trị, ý nghĩa của việc ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công
trình công cộng trên địa bàn tỉnh.
- Định kỳ 02 năm một
lần tổ chức sưu tầm, lựa chọn tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường, phố và công
trình công cộng.
Các Sở, ban, ngành,
đoàn thể tỉnh; các tổ chức, đơn vị và UBND các huyện, thị xã, thành phố được
giao nhiệm vụ quản lý các tuyến đường, phố, công trình công cộng có trách nhiệm
nghiên cứu, lựa chọn dữ liệu trong Ngân hàng tên đường, phố và công trình công
cộng đã được UBND tỉnh phê duyệt để tiến hành đặt tên, đổi tên theo trình tự,
thủ tục quy định.
Điều 3. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Chánh Văn phòng UBND
tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh; Thành viên Hội đồng tư vấn
đặt tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng tỉnh Điện Biên; Thủ trưởng các
Sở, Ban, ngành tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố; các cơ quan,
đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Mùa A Sơn
|
NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN
(Ban hành kèm theo Quyết định: 710 /QĐ-UBND ngày 14/8/2015
của UBND tỉnh)
I. Căn cứ xây dựng
Ngân hàng tên đường phố và công trình công cộng
Nghị định số 91/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005
của Chính phủ ban hành quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công
cộng;
Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT, ngày 20/3/2006
của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn một
số điều của quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Việc đặt tên, đổi tên đường, phố và công
trình công cộng nhằm góp phần thực hiện tốt công tác quản lý đô thị, quản lý
hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong các hoạt động kinh
tế, văn hóa - xã hội; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống lịch sử - văn
hóa dân tộc, nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, tình
hữu nghị đoàn kết quốc tế.
II. Mục đích
1. Sưu tầm, tập hợp có hệ thống, ngắn
gọn, tương đối đầy đủ và khoa học về tiểu sử (quê hương, thân thế, sự nghiệp) của
các danh nhân, tướng lĩnh, anh hùng là người con của Điện Biên hoặc đã sống và
cống hiến cho tỉnh Điện Biên nói riêng và dân tộc nói chung.
2. Tạo sự thống nhất, khoa học trong công
tác đặt và đổi tên đường phố, công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Góp phần phục vụ công tác quản lý đô thị, quản lý hành chính, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội.
3. Thông qua việc xây dựng và sử dụng
Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trong công tác đặt và đổi tên đường
phố, công trình công cộng góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử,
văn hóa, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ, Đảng viên và
nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên;
4. Đáp ứng nguyện vọng chung của nhân
dân trong tỉnh, góp phần quan trọng xây dựng Điện Biên phát triển kinh tế, văn hóa
- xã hội, ổn định về chính trị, vững mạnh về quốc phòng an ninh.
III. Yêu cầu
1. Đối với danh nhân
a) Là người có những đóng góp lớn, tiêu
biểu trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã
hội qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam để lại cho thế hệ sau những tác phẩm, những
công trình khảo cứu, những tư tưởng có giá trị khoa học và thực tiễn góp phần
hình thành truyền thống tốt đẹp của Điện Biên và đất nước;
b) Là những người được nhân dân truyền
tụng, tôn vinh, thờ phụng từ đời này đời sang đời khác với nhiều hình thức khác
nhau.
c) Tôn vinh những người con ưu tú của
vùng đất Điện Biên nói riêng và dân tộc nói chung được lịch sử, dân tộc, nhân dân
ghi nhận và lưu danh.
2. Đối với địa danh
Là những địa danh lịch sử, những tên gọi
đã trở thành truyền thống trong tiềm thức của nhân dân.
3. Đối với sự kiện
Các sự kiện tiêu biểu nổi bật của tỉnh
Điện Biên và của cả nước.
IV. Nguồn tư liệu
- Lịch sử Việt Nam, tập I, Nhà Xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971;
- Những sự kiện lịch sử Đảng tập 1, 2,
3, Nhà Xuất bản Sự thật năm 1976;
- Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà Xuất
bản Từ điển bách khoa, năm 2005;
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu tập 1,
2 Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia tập 1 năm 1999, tập 2 năm 2004;
- Từ điển Văn hóa Việt Nam, Nhà Xuất bản
Văn hóa - Thông tin, 1993;
- Kỷ yếu phong trào Thi đua yêu nước thời
kỳ đổi mới tỉnh Điện Biên lần thứ II (2001-2005), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên
soạn tháng 6/2005;
- Kỷ yếu Hội thảo Thái học Việt Nam lần
thứ V, năm 2009;
- Đề xuất của các Sở, ban, ngành đoàn
thể tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố.
V. Nội dung của
Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng chia làm hai phần
Phần A: Đường, phố và công trình công
cộng đã được đặt tên trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Phần B: Dữ liệu Ngân hàng tên đường, phố
và công trình công cộng tỉnh Điện Biên
I. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu và một
số địa danh tiêu biểu của đất nước
II. Các sự kiện lịch sử, cách mạng tiêu
biểu trong lịch sử Việt Nam
III. Các địa danh lịch sử, cách mạng,
di tích, danh thắng, danh nhân, cán bộ tiền khởi nghĩa , lão thành cách mạng tỉnh
Điện Biên
IV. Sự kiện, địa danh, các anh hùng trong
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
V. Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu
và anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Điện Biên
PHẦN A
ĐƯỜNG, PHỐ VÀ
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
I. Những công
trình đã được đặt tên trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ (đô thị loại III)
1. Đường được đặt tên theo quyết định
số 87/QĐ-UB ngày 26/2/1997 của UBND tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên)
1.1. Đường Nguyễn Hữu Thọ
Địa phận thuộc liên phường,
điểm đầu từ ngã tư cầu Mường Thanh cũ đến điểm cuối là Cảng hàng không Điện
Biên Phủ.
1.2. Đường Tô Vĩnh Diện
Địa phận thuộc phường Him Lam, chiều
dài: 524m, chiều rộng 10,5m từ đường Võ Nguyên Giáp đến đường số 33 (110m
đến điểm cuối đường Tô Vĩnh Diện).
1.3. Đường Hoàng Văn Thái
Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm
đầu kéo dài từ ngã tư đường Võ Nguyên Giáp cạnh đồi A1 đến ngã tư
Sân vận động tỉnh.
1.4. Đường Trường Chinh
Địa phận thuộc liên phường, điểm đầu nối
từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối ngã tư Sân vận động tỉnh.
1.5. Đường Bế Văn Đàn
Địa phận thuộc phường Mường Thanh và Tân
Thanh, điểm đầu kéo dài từ Đường Võ nguyên Giáp đến điểm cuối cầu Mường
Thanh cũ.
1.6. Đường Tôn Thất Tùng
Kéo dài từ đường Hoàng Văn Thái
đến điểm cuối bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh.
1.7. Đường Lò Văn Hặc
Địa phận thuộc phường Mường Thanh,
Thanh Bình, kéo dài từ đường Trần Đăng Ninh đến ngã tư thuộc tổ dân phố
5,6,7 phường Thanh Bình và đến điểm cuối trụ sở UBND phường Thanh Bình.
1.8. Đường 13/3
Địa phận thuộc phường Him Lam, kéo
dài từ đường Võ Nguyên Giáp (đường vào bản Him Lam 1, cạnh sân quảng trường
thành phố) đến điểm cuối hết khu dân cư Biên Phòng.
1.9. Đường Trần Văn Thọ
Địa phận thuộc phường Him Lam, kéo
dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến quốc lộ 12.
1.10. Đường Sùng Phái Sinh
Địa phận thuộc phường Tân Thanh, điểm
đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối đường 27m.
1.11. Đường Lê Trọng Tấn
Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm
đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối đường Trần Văn Thọ.
1.12. Đường Hoàng Công Chất
Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm
đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối ngã tư trường tiểu
học Hà Nội - Điện Biên Phủ.
1.13. Đường Trần Can
Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm đầu từ Sở Xây dựng đến điểm
cuối ngã ba nối vào Sân vận động.
1.14. Đường Phan Đình Giót
Địa phận thuộc phường
Mường Thanh, điểm đầu kéo dài từ UBND tỉnh đến điểm cuối chợ trung tâm 3.
1.15. Đường Trần
Đăng Ninh
Địa phận thuộc phường Tân Thanh và Thanh
Bình điểm đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối Bến xe
khách tỉnh.
1.16. Đường Nguyễn Chí Thanh
Địa phận thuộc phường
Mường Thanh và Tân Thanh, điểm đầu kéo dài từ đường Trần Đăng Ninh đến
điểm cuối Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng tỉnh.
2. Đường, công trình được đặt tên theo Quyết định số 05/2014/QĐ-UBND và Quyết định số
06/2014/QĐ-UBND ngày 15/4/2014 của UBND tỉnh Điện Biên
2.1. Đường Võ Nguyên Giáp
Địa phận thuộc
liên phường, đường Võ Nguyên Giáp có chiều dài 6.965,4m, mặt đường bê tông nhựa
rộng 32m. Điểm đầu của đường từ cầu Huổi Phạ-lý trình 71+286 và điểm cuối là
cầu bê tông giáp ranh với huyện Điện Biên-lý trình 78+251,4.
2.2. Quảng trường
7/5
Thuộc địa bàn phường
Mường Thanh, Quảng trường 7/5 gắn liền với Trung tâm Hội nghị Văn hóa tỉnh.
Thành phố được chia thành
07 phường: Mường Thanh, Him Lam, Tân Thanh, Nam Thanh, Thanh Bình, Noong Bua,
Thanh Trường và 02 xã; các phường chia thành các tổ dân phố được đánh theo số
tự nhiên.
II. Các huyện, thị xã còn lại trên địa bàn tỉnh
- Xếp loại đô thị các
huyện, thị xã còn lại trong tỉnh
+ Thị xã Mường Lay là
đô thị loại IV (chưa được công nhận).
+ Thị trấn Điện Biên
Đông là đô thị loại V.
+ 04 thị trấn huyện lỵ
cấp đô thị loại V (chưa được công nhận): Mường Ảng, Mường Chà, Tuần Giáo và Tủa
Chùa
+ 03 huyện là Điện Biên,
Nậm Pồ và Mường Nhé chưa có thị trấn.
Hầu hết chưa đặt tên
đường, phố trong thị trấn, thị xã; thường được chia thành tổ dân phố theo số và
tổ dân phố theo tên thường gọi, cụ thể:
- Thị trấn Tủa Chùa chia
thành các tổ dân phố: Thành Công, Đồng Tâm, Thống Nhất, Thắng Lợi 1, Thắng Lợi
2, Quyết Thắng.
- Thị trấn Điện Biên
Đông: Đặt tên tổ dân phố theo tên gọi truyền thống Na Son từ Na Son 1 đến Na Son
5, các tổ dân phố còn lại đặt tên theo số.
- Thị trấn Tuần Giáo
đặt tên thành các khối: Huổi Củ, Thắng Lợi, Tân Tiến, Tân Giang, Tân Thủy, Trường
Xuân, Đoàn Kết, 20/7, Thống Nhất, Đồng Tâm, Sơn Thủy.
- Các thị trấn còn lại
của các huyện chia và đặt tên tổ dân phố theo số.
Phần B
DỮ LIỆU NGÂN
HÀNG TÊN ĐƯỜNG PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TỈNH ĐIỆN BIÊN
I. Danh từ có ý
nghĩa tiêu biểu và một số địa danh tiêu biểu của đất nước
1. Độc lập: Là quyền
bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia bởi chính người dân sinh sống ở
đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Khái niệm “Độc lập” có ý nghĩa tương phản
với “Nô dịch” (sự khuất phục).
2. Đồng tâm: thể hiện
sự đoàn kết cùng hướng về một hướng.
3. Giải phóng: Là làm
cho được tự do, thoát khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế,
ràng buộc; là thoát khỏi tình trạng bị nước ngoài nô dịch, chiếm đóng.
4. Hòa bình: Là trạng
thái xã hội không có chiến tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh
chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Hòa
bình đối lập với chiến tranh.
5. Thanh niên: Là lực
lượng to lớn, là nguồn lực dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện
tại và là người chủ tương lai của đất nước.
6. Thành công: Sự thắng
lợi, thành quả đạt được sau quá trình nỗ lực, cố gắng.
7. Thống nhất: Sự kiện
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước và dân tộc ta, đánh dấu sự thắng
lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giang sơn thu về một
mối, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác
Hồ đã lựa chọn cho toàn dân tộc.
8. Tự do: Là trạng thái
một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong
các hoạt động chính trị, xã hội.
9. Hà Nội: Trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thủ đô của đất nước, là thành phố đã kết
nghĩa với tỉnh Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu) vào ngày
01/10/1967.
10. Lai Châu: Tỉnh Lai Châu tách ra
thành 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu.
11. Thái bình: là trạng thái một dân
tộc, một xã hội, không có loạn lạc, chiến tranh, đất nước yên ổn, nhân dân được
sống trong hòa bình.
12. Hoàng Sa (có nghĩa là cát vàng
hay bãi cát vàng): Là một đơn vị hành chính thuộc thành phố Đà Nẵng.
13. Trường Sa: Là hệ thống các đảo
thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa.
II. Các sự kiện
lịch sử, cách mạng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam
TT
|
Tên
sự kiện
|
Thời
gian, địa điểm diễn ra sự kiện
|
Tóm
tắt nội dung sự kiện
|
Tên
dự kiến đặt
|
Ghi
chú
|
1
|
Thành lập Nhà nước Âu Lạc
|
Khoảng nửa sau thế kỷ III trước CN
|
Do sự suy yếu của triều đại Hùng Vương,
vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, Thục Phán - thủ lĩnh người Âu Lạc
đã lãnh đạo nhiều đội quân đánh đổ triều đại Hùng Vương, lập nên nước Âu Lạc.
Thục Phán xưng là An Dương Vương, rời đô xuống Cổ Loa. Như vậy sự ra đời của
nhà nước Âu Lạc không chỉ hợp nhất các thành phần dân tộc mà lãnh thổ của
người Lạc Việt và Âu Việt cũng được thống nhất và phát triển cao hơn về mọi
mặt so với quốc gia Văn Lang.
|
- Âu Lạc
- Cổ Loa
|
|
2
|
Hội nghị Bình Than
|
- Năm 1282
- Địa bàn: Trên sông Đuống đổ vào sông
Lục Đầu (nay là xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh)
|
Đứng trước nguy cơ xâm lược lần thứ
2 của quân Nguyên Mông, nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Tháng 11 năm
1282, vua Trần ra Bình Than mở hội nghị các vương hầu quan lại. Đây là hội
nghị quân sự vô cùng quan trọng để bàn kế sách đánh giặc, trong đó có sự kiện
Hoài Văn Hầu - Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì uất ức không được tham dự vì
tuổi còn nhỏ.
|
Bình Than
|
|
3
|
Chiến thắng trận Chương Dương (trong
cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên Mông)
|
- Năm 1285
- Địa bàn: Tại bến Chương Dương (nay
thuộc Thường Tín, Hà Nội)
|
Thắng trận Hàm Tử - Tây Kết, Trần Quốc
Tuấn mang toàn quân ra Bắc đánh Thoát Hoan để lấy lại Thăng Long. Bằng kế sách
ngăn chặn không cho Toa Đô hợp binh với Thoát Hoan, trong khi đó đại quân của
Thoát Hoan ở Thăng Long cũng đang trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt, các
chiến thuyền đều đóng ở Chương Dương. Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và
Trần Quốc Toản tấn công quân Nguyên ở Chương Dương; quân giặc bị bất ngờ nên
đã tan tác bỏ chạy. Trên đà chiến thắng đó quân ta tiến vào Thăng Long, quân
của Thoát Hoan không chống cự được buộc phải rút khỏi kinh thành Thăng Long.
|
Chương Dương
|
|
4
|
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn
|
- Năm 1940
- Địa bàn: tại Lạng Sơn
|
Khi quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, ngày
22/9/1940, quân đội Pháp trên đường thua chạy đã rút lui qua châu Bắc Sơn.
Ngày 27/9/1940, Đảng bộ châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã lãnh đạo nhân dân nổi
dậy tước khí giới của quân Pháp, giải tán chính quyền địch, thành lập chính
quyền cách mạng. Ngày 3/10/1940 tại rừng Tân Hương chính quyền của ta đã
quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn.
|
Bắc Sơn
|
|
5
|
Sự kiện Ngô Quyền đánh thắng quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng
|
Năm 938
|
Tháng 10 năm 938, Ngô
Quyền tiến quân ra Bắc. Kiều Công Tiễn hoảng sợ cầu cứu vua Nam Hán. Cuối tháng
11 năm 938, đoàn thuyền Nam Hán vượt biển Quảng Châu, tiến dần tới cửa sông
Bạch Đằng. Theo lệnh Ngô Quyền, quân dân ta đã đóng cọc gỗ đầu bịt sắt nhọn
ngang sông Bạch Đằng, nơi hiểm yếu gần cửa biển thành một trận địa ngầm. Quân thủy, bộ của ta mai phục ở phía trong. Khi nước triều xuống, bãi
cọc nhô lên, quân ta được lệnh cũng nhất tề xông ra đánh địch. Đội hình địch tan
tác, nhiều thuyền bị vỡ, bị đắm, tướng sĩ hoảng loạn, phần bị giết, phần chết
đuối, phần lớn quân Nam Hán bị tiêu diệt trong đó có cả chủ tướng Hoằng Thao.
Trận chiến Bạch Đằng
(938) là một trận quyết chiến chiến lược lớn trong lịch sử chiến tranh Việt
Nam, một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Kết thúc hơn
1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ phát triển quốc gia
phong kiến độc lập.
|
Bạch Đằng
|
|
6
|
Phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi
phát động
|
Từ tháng 7/1885 đến năm 1896.
|
Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi khởi nghĩa
ở kinh thành Huế và sau đó ban chiếu Cần Vương. Phong trào thu hút được một
số quan lại trong triều đình và văn thân, tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy
giờ. Phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ tháng 7/1885 đến năm
1896.
|
Cần Vương
|
|
7
|
Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang
|
- Năm 1427
- Địa bàn: Tại Lạng Sơn
|
Sau một loạt thất bại nặng nề của địch,
nhà Minh cử viện binh chia làm 2 đạo quân, một đạo quân do Liễu Thăng và một
đạo quân do Mộc Thạch chỉ huy tiến sang Đại Việt. Sau khi Liễu Thăng cầm đầu
10 vạn quân vượt biên giới tiến vào vùng Lạng Sơn, quân ta vừa đánh vừa rút
lui để nhử địch vào trận địa mai phục ở Ải Chi Lăng (Lạng Sơn); tại đây toàn
bộ đội quân tiên phong của địch bị tiêu diệt gọn; Liễu Thăng bị chém chết bên
sườn núi Mã Yên; tàn quân rút về thành Xương Giang nhưng căn cứ này cũng đã
bị quân ta chiếm giữ từ 10 ngày trước. Cuối cùng chúng phải đóng quân tại
cánh đồng Xương Giang, tại đây, ngày 3/11/1427 quân địch đã bị quân ta bao
vây tiêu diệt gọn.
|
- Chi Lăng
- Xương Giang
|
|
8
|
Chiến dịch Hồ Chí Minh
|
- Từ ngày 26/4 đến ngày 30/4/1975
- Địa bàn: tại Sài Gòn
|
Ngày 26/4/1975, với 5 cánh quân, ta
đã bao vây và nổ súng tấn công Sài Gòn. Ngày 29/4/1975, quân ta tổng công kích
trên các mặt trận. 10h 45 phút ngày 30/4/1975, các đơn vị của Quân đoàn II
tiến thẳng vào Dinh Độc Lập bắt sống toàn bộ chính quyền Trung ương Sài Gòn.
11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ Tổng
thống chính quyền Sài Gòn, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
|
- Chiến Thắng
- 30/4
|
|
9
|
Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) đặt tên
nước là Đại Cồ Việt
|
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, dựng
đô ở Hoa Lư
|
Đinh Bộ Lĩnh sau khi thống nhất đất
nước, lên ngôi Hoàng đế, năm 968 ông đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Hai năm sau
ông bỏ niên hiệu của các hoàng đế phong kiến phương Bắc, tự đặt niên hiệu riêng
là Thái Bình. Đó là những biểu hiện mới của tinh thần tự chủ, quyết tâm giành
độc lập hoàn toàn cho dân tộc và cũng là sự phủ định quyền bá chủ của các
hoàng đế phương Bắc.
|
Đại Cồ Việt
|
|
10
|
Sự kiện Lý Công Uẩn rời Đô ra Thăng
Long
|
Năm 1010
|
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp (Tiên
Sơn, tỉnh Bắc Ninh) làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ dưới triều Tiền Lê.
Làm vua lập ra triều Lý - triều đại phong kiến độc lập tự chủ đầu tiên của
nước ta, năm 1010 Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) quyết định rời đô từ Hoa Lư về Đại
La và đổi tên là Thăng Long. Mục đích, ý nghĩa của việc này được thể hiện rõ
ràng, đầy đủ trong chiếu rời đô của Lý Thái Tổ. Việc Lý Thái Tổ rời đô ra Thăng
Long đã phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền,
đồng thời chứng tỏ lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập.
|
- Đại La
- Thăng Long
|
|
11
|
Đổi tên nước là Đại Việt
|
Năm 1054
|
Sau khi rời đô, củng cố và xây dựng
bộ máy chính quyền, năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Nước Đại Việt lúc
đó tuy đất hẹp, dân thưa nhưng là một nước độc lập hoàn toàn. Tên nước cũng
thể hiện một niềm tự tôn và ý thức bình đẳng của cả dân tộc Việt Nam với các
dân tộc xung quanh.
|
Đại Việt
|
|
12
|
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
|
- Từ ngày 13/3 đến ngày 7/5/1954
- Địa bàn: tại thung lũng Mường Thanh,
huyện Điện Biên
|
Ngày 13/3/1954, quân ta được lệnh nổ
súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 3 đợt chiến đấu, ngày
7/5/1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã
tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Caxtơri. Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên
Phủ đã toàn thắng buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp
định Giơnevơ, trao trả độc lập cho đất nước ta.
|
- Điện Biên Phủ
- 7/5
|
|
13
|
Hội nghị Diên Hồng
|
- Năm 1288
- Địa bàn: Tại điện Diên Hồng Thăng
Long (Hà Nội)
|
Đất nước đứng trước nguy cơ một cuộc
xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Trong không khí khẩn trương chuẩn bị kháng
chiến, hội nghị Diên Hồng được tổ chức. Đây là hội nghị thể hiện tinh thần
đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm “Đánh” của triều đình và quân dân nhà Trần
quyết tâm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
|
Diên Hồng
|
|
14
|
Ngày Quốc khánh
|
- Ngày 2/9/1945
- Địa bàn: tại Thủ đô Hà Nội
|
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình
- Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
|
- 2/9
- Ba Đình
|
|
15
|
Chiến thắng Ngọc Hồi, Khương Thượng
|
- Năm 1789
- Địa bàn: Thăng Long - Hà Nội
|
Tháng 11 năm 1788, quân Thanh ồ ạt tiến
vào nước ta, chiếm được Thăng Long, ngày 22-12-1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng
đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, sau khi lên ngôi Quang trung đã chỉ huy
binh sĩ đánh chiếm các đồn tiêu biểu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật
Tảo, Hà Hồi; sau khi thất thủ các đồn trên, địch đã lập tức tăng viện, củng
cố đồn Ngọc Hồi - một vị trí then chốt ở mặt Nam Thăng Long. Ngày mùng 5 tết
Kỷ Dậu (30-1-1789), đội tượng binh của Quang Trung bất gờ tiến công và hạ đồn;
phối hợp với cánh quân của Quang Trung đô đốc Đặng Tiến Đông tấn công như vũ
bão vào đồn Khương Thượng - Đống Đa bị bất ngờ quân giặc đã thua trận.
|
Đống Đa
|
|
16
|
Phong trào “Đồng Khởi” Bến Tre
|
- Năm 1960
- Tại Bến Tre
|
Ngày 17/1/1960, cuộc “đồng khởi” nổ
ra ở ba xã “điểm” là Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp, rồi nhanh chóng lan
tỏa ra toàn tỉnh Bến Tre. Hàng vạn nhân dân đã ào ạt xuống đường, vũ trang giáo
mác, truy lùng bọn tề độc ác, đập tan bộ máy cai trị, giải phóng các ấp. Sau
đó, phong trào “đồng khởi” lan rộng ra khắp một vùng rộng lớn ở Nam Bộ; thắng
lợi của phòng trào đồng khởi dẫn đến sự thành lập của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 20/12/1960.
|
Đồng Khởi
|
|
17
|
Chiến thắng Hàm Tử - Tây Kết (kháng
chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2)
|
- Năm 1285
- Địa bàn: Tại Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên ngày nay
|
Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt
dưới sự lãnh đạo của triều đại nhà Trần đã toàn thắng, thể hiện "Hào khí
Đông A" của Đại Việt, Nhà Trần
lần thứ hai đánh đuổi được quân Nguyên Mông, cuộc kháng chiến dành thắng lợi
gắn liền với hai địa danh Hàm Tử, Tây Kết.
|
- Hàm Tử
- Tây Kết
|
|
18
|
Khởi nghĩa Lam Sơn
|
- Năm 1418- 1427
- Địa bàn: từ Lam Sơn, Thanh Hóa mở
rộng vào Nghệ An rồi tiến ra Bắc.
|
Năm 1.416 tại núi rừng Lam Sơn (Thọ
Xuân - Thanh Hoá) Lê Lợi cùng với 18 người thân tín làm lễ tuyên thệ đuổi giặc
cứu nước. Đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau những năm tháng hoạt động, xây
dựng căn cứ, tập hợp lực lượng phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng
quy mô cả nước, tổ chức nhiều trận đánh vang dội, đến ngày 3/1/1428 quân xâm
lược Minh bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Đất nước giành lại được độc lập.
|
Lam Sơn
|
|
19
|
Dựng Văn Miếu, Quốc Tử Giám và mở khoa
thi đầu tiên
|
- Năm 1070 và 1075
- Địa bàn: Tại Thăng Long
|
Nhà Lý chăm lo củng cố, xây dựng chính
quyền và phát triển đất nước trên tất cả các phương diện. Cũng từ đây nhà Lý
bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo và tuyển chọn nhân tài
cho quốc gia. Năm 1070 triều đình dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám. Có thể
nói đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam; làm nơi học tập cho con em
tầng lớp quý tộc quan lại. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn
nhân tài, từ đây Lý đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển chế độ giáo dục và
thi cử trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam về sau.
|
Quốc Tử Giám
|
|
20
|
Đại hội Quốc dân Tân Trào
|
- Ngày 16, 17/8/1945
- Địa bàn: tại Tân Trào, Tuyên Quang
|
Ngày 14,15/8 Hội nghị toàn quốc của
Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã đưa ra nội dung Nghị quyết gồm 11 phần,
Nghị quyết đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền về nhân dân. Ngày 16, 17/8/1945 Đại hội quốc dân đã được tổ chức
ở Tân Trào và thống nhất chủ trương Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
|
Tân Trào
|
|
21
|
Phong trào
Tây Sơn
|
- Năm 1771 - 1802
- Địa bàn: từ đất Tây Sơn (Bình Định,
Gia Lai, Kom Tum) phát triển khắp cả nước.
|
Tây Sơn là phong trào khởi nghĩa chống
chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII và cũng là một triều đại phong
kiến Việt Nam từ năm 1771 đến năm 1802. Thủ lĩnh phong trào là 3 anh em nhà
Nguyễn Huệ (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ), quê ở ấp Tây Sơn, huyện
Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định. Do đó phong trào còn được
gọi là phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn; với
danh nghĩa là phù Lê diệt Trịnh, thống nhất đất nước, đánh thắng quân Xiêm
xâm lược với các trận Rạch Gầm - Xoài Mút, đại phá quân Thanh mùa xuân năm Kỷ
Dậu 1789 giữ yên bờ cõi.
|
Tây Sơn
|
|
22
|
Thành lập Nhà nước Văn Lang của các
vua Hùng
|
Khoảng thế kỷ VII - VI tr CN
|
Thời kỳ kim khí phát triển, đỉnh cao
là văn hoá Đông Sơn, hình thành nhà nước Văn Lang. Do nhu cầu trong cuộc sống
(trị thuỷ, chống xâm lấn, trao đổi kinh tế, văn hoá, huyết thống…) giữa các
bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt nên Thủ lĩnh của Bộ lạc Văn Lang đã đứng lên thống
nhất tất cả các Bộ lạc, dựng lên nước Văn Lang. Nước Văn Lang của các vua
Hùng (Hùng Vương) là Nhà nước đầu tiên trong lịch sử của dân tộc.
|
Văn Lang
|
|
23
|
Khởi nghĩa Lý Bí, dựng nước Vạn Xuân
|
Năm 542 khởi nghĩa, năm 544 dựng nước
|
Lý Bí, một thời gian làm quan cho nhà
Lương. Trước sự tàn bạo của bọn thống trị, ông bỏ về quê xây dựng lực lượng,
liên kết với nhiều thủ lĩnh các vùng miền đứng lên khởi nghĩa và đánh thắng
quân Lương, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ châu Giao và châu Đức (tương đương
toàn bộ miền Bắc cho đến đèo Ngang hiện nay). Đầu năm 544 Lý Bí dựng nước,
lên ngôi hoàng đế đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Việc dựng nước Vạn Xuân khẳng
định dân tộc Việt Nam sau gần năm thế kỷ bị đô hộ là một dân tộc độc lập, là
chủ nhân của đất nước và vận mệnh của mình.
|
Vạn Xuân
|
|
24
|
Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông năm
1947
|
Năm 1947
|
Chiến dịch Việt Bắc thu đông là một
chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng
chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Sau
75 ngày đêm chiến đấu, quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Việt Bắc trở thành
thủ đô kháng chiến.
|
Việt Bắc
|
|
25
|
Phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh
|
- Năm 1930 - 1931
- Địa bàn: tại Nghệ Tĩnh
|
Đây là phong trào đấu tranh của lực
lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930 - 1931 chống lại
thực dân Pháp. Phong trào được mở đầu bằng cuộc biểu tình ngày 1/5/1930 của
công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và nông dân thuộc 5 xã ven thành phố Vinh,
làm cho bộ máy chính quyền thực dân Pháp và bộ máy chính quyền địa phương của
nhà Nguyễn lâm vào tình trạng rối gien.
|
Xô Viết - Nghệ Tĩnh
|
|
Tổng
số 32 tên
|
III. Các địa danh lịch sử, cách mạng,
di tích, danh thắng, danh nhân, cán bộ tiền khởi nghĩa, lão thành cách mạng gắn
với tỉnh Điện Biên
1. Các sự kiện tiêu biểu có ý nghĩa
ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Điện Biên
TT
|
Tên
sự kiện
|
Thời
gian diễn ra sự kiện
|
Tóm
tắt nội dung sự kiện
|
Tên
dự kiến đặt
|
Ghi
chú
|
1
|
Thành lập tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh
Điện Biên và Lai Châu)
|
28/6/1909
|
Ngày 28/6/1909, toàn quyền Đông Dương
ra Nghị định số 1532 tách các châu: Quỳnh Nhai, Điện Biên, Tuần Giáo, Châu
Lai, Luân Châu của tỉnh Sơn La để thành lập tỉnh Lai Châu.
|
28/6
|
|
2
|
Thành lập đội xung phong Quyết Tiến
|
1948
|
Năm 1948 thành lập Ban xung phong Tây
Bắc mở đường lên Điện Biên Phủ; đội xung phong Quyết Tiến, một trong 4 đội võ
trang tuyên truyền chủ yếu của Liên Khu 10 được thành lập để thực hiện nhiệm
vụ mở đường.
|
Quyết
Tiến
|
|
3
|
Thành lập Đảng bộ tỉnh Lai Châu (nay
là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)
|
10/10/1949
|
Ngày 10/10/1949, Ban cán sự Đảng tỉnh
Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và Lai Châu) được thành lập.
|
10/10
|
|
4
|
Ngày thành lập Đảng bộ huyện Tuần Giáo
và huyện Điện Biên
|
01/8/1950
|
Ngày 01/8/1950 là ngày thành lập Đảng
bộ huyện Tuần Giáo và huyện Điện Biên.
|
01/8
|
|
5
|
Ngày Giải phóng huyện Tuần Giáo
|
20/11/1952
|
Ngày 20/11/1952, huyện
Tuần Giáo được bộ đội chủ lực của ta giải phóng trong chiến dịch Tây Bắc.
|
20/11
|
|
6
|
Ngày giải phóng thị xã Mường Lay
|
12/12/1953
|
Ngày 12/12/1953, là ngày giải phóng
thị xã Mường Lay thoát khỏi chế độ của thực dân phong kiến.
|
12/12
|
|
7
|
Ngày thành lập Đảng bộ huyện Mường Lay
(nay là huyện Mường Chà)
|
25/1/1954
|
Ngày 25/1/1954, là ngày thành lập Đảng
bộ huyện Mường Lay (nay là huyện Mường Chà).
|
25/1
|
|
8
|
Thành lập huyện Tủa Chùa
|
18/10/1955
|
Ngày 18/10/1955, Thủ tướng Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Nghị định số 606-TTg về thành lập châu Tủa
Chùa trực thuộc Khu tự trị Thái - Mèo trên cơ sở tách ra từ châu Mường Lay
|
18/10
|
|
9
|
Thành lập Đảng bộ huyện Tủa Chùa
|
28/9/1955
|
Ngày 28/9/1955 là ngày thành lập Đảng
bộ huyện Tủa Chùa
|
28/9
|
|
10
|
Ngày tái thành lập tỉnh Lai Châu (nay
là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)
|
27/10/1962
|
Ngày 27-10-1962, tại kỳ họp thứ V, Quốc
hội khóa II ra Nghị quyết đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây
Bắc và thành lập lại hai tỉnh trong Khu là: Lai Châu, Sơn La và một tỉnh mới
Nghĩa Lộ.
|
27/10
|
|
11
|
Ngày thành lập thị xã Mường Lay
|
8/10/1971
|
Ngày 8/10/1971, Hội đồng Chính phủ ra
Quyết định số 189-CP về thành lập Thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay).
|
8/10
|
|
12
|
Ngày thành lập Đảng bộ Thị xã Mường
Lay
|
17/12/1971
|
Ngày 17/12/1971 là ngày thành lập Đảng
bộ Thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay)
|
17/12
|
|
13
|
Thành lập thị xã Điện Biên Phủ (nay
là thành phố ĐBP)
|
18/4/1992
|
Ngày 18/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra
Quyết định số 130/QĐ-HĐBT về thành lập Thị xã Điện Biên Phủ trên cơ sở thị trấn
huyện Điện Biên và hai xã Thanh Minh và Noong Bua.
|
18/4
|
|
14
|
Thành lập huyện Điện Biên Đông
|
7/10/1995
|
Ngày 7-10-1995,
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 59-NĐ/CP về
thành lập huyện Điện Biên Đông trên cơ sở tách ra từ huyện Điện Biên.
|
7/10
|
|
15
|
Thành lập Đảng bộ huyện Điện Biên
Đông
|
01/01/1996
|
Ngày 01/01/1996
là ngày thành lập Đảng bộ huyện Điện Biên Đông
|
1/1
|
|
16
|
Thành lập huyện Mường Nhé
|
14/1/2002
|
Ngày 14-1-2002, Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 08-NĐ/CP về việc điều chỉnh địa
giới hành chính huyện Mường Tè, huyện Mường Lay để thành lập huyện Mường Nhé.
|
14/1
|
|
17
|
Thành lập Đảng bộ huyện Mường Nhé
|
09/9/2002
|
Theo Quyết định 570-QĐ/TU ngày 09/9/2002
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lai Châu cũ (nay là Tỉnh Điện Biên) về việc thành
lập Đảng bộ huyện Mường Nhé.
|
09/9
|
|
18
|
Thành lập thành phố Điện Biên Phủ
|
26/9/2003
|
Ngày 26-9-2003, Chính phủ ra Nghị định
số 110/2003/NĐ-CP về thành lập Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu.
|
26/9
|
|
19
|
Đổi tên huyện Mường Chà
|
02/03/2005
|
Ngày 02/03/2005, Chính phủ ra Nghị định
số 25/2005/NĐ-CP về việc đổi tên huyện Mường Lay và thị trấn Mường Lay thành
huyện Mường Chà và thị trấn Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
|
2/3
|
|
20
|
Thành lập huyện Mường Ảng
|
14/11/2006
|
Ngày 14-11-2006, Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 135/2006/NĐ-CP về thành lập
huyện Mường Ảng trên cơ sở tách ra từ huyện Tuần Giáo.
|
14/11
|
|
21
|
Thành lập Đảng bộ huyện Mường Ảng
|
28/3/2007
|
Theo Quyết định số 546-QĐ/TU của Tỉnh
uy Điện Biên thành lập Đảng bộ huyện Mường Ảng trực thuộc Đảng bộ tỉnh Điện
Biên.
|
28/3
|
|
22
|
Thành lập huyện Nậm Pồ
|
25/8/2012
|
Ngày 25/8/2012,
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 45-NQ/CP về
thành lập huyện Nậm Pồ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mường Nhé
và huyện Mường Chà.
|
25/8
|
|
23
|
Thành lập Đảng bộ huyện Nậm Pồ
|
6/6/2013
|
Theo Quyết định
số 2527-QĐ/TU của tỉnh Ủy Điện Biên V/v thành lập Đảng bộ huyện Nậm Pồ, ngày
6/6/2013 trực thuộc Đảng bộ tỉnh Điện Biên.
|
6/6
|
|
2. Danh mục tên các danh nhân địa phương
trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội,
cán bộ tiền khởi nghĩa của Điện Biên qua các thời kỳ
TT
|
Họ
tên
|
Quê
quán
|
Tóm
tắt thân thế sự nghiệp
|
Tên
dự kiến đặt
|
Ghi
chú
|
24
|
Hoàng Công Chất
|
Xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
|
Là thủ lĩnh nông dân thế kỷ XVIII chống
lại triều đình phong kiến mục nát, ông đã liên kết với
các thủ lĩnh địa phương là tướng Ngải và tướng Khanh cùng nhau đánh đuổi giặc
Phẻ để giải phóng hoàn toàn Mường Thanh vào năm 1754 và
phát triển lực lượng ra khắp miền Tây Bắc, đồng thời ông đã chia ruộng cho
dân nghèo. Tại đây quân khởi nghĩa đã lấy thành Tam Vạn (tiếng Thái gọi là
Sam Mứn) do người Lự xây dựng trước đó làm đại bản doanh. Sau đó nhận thấy
thành Tam Vạn ở địa thế bất lợi, ông cho xây thành Bản Phủ còn gọi là thành
Chiềng Lề (nay thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên) làm căn cứ. Từ Mường
Thanh, quân khởi nghĩa đánh ra xung quanh, làm chủ 10 châu của phủ An Tây
(ngày nay thuộc địa bàn tỉnh Điện Biên, Lai Châu
và một phần tỉnh Vân Nam - Trung Quốc).
|
Hoàng
Công Chất
|
|
25
|
Mông Quốc Cần
|
|
Là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Lạng Sơn. Do
Liên khu ủy Việt Bắc điều động, bổ sung vào Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu làm
Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh. Đồng chí mất tại căn cứ du kích Háng Tông Tòng,
huyện Tuần Giáo (tháng 7-1951).
|
Mông
Quốc Cần
|
|
26
|
Giàng Tả Chay
|
Huyện Điện Biên Đông
|
Tháng 10-1918, ông tập hợp đồng bào
dân tộc Mông, Khơ Mú, Lào… đứng lên khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực
dân Pháp; trước tình hình đó, quân Pháp đã phải điều
quân từ Lai Châu, Sơn La, Yên Bái đến để đàn áp phong trào, tìm cách tiến sâu
vào căn cứ của nghĩa quân ở Pu Nhi (Điện Biên), Long Hẹ (Thuận Châu, Sơn La).
Được sự giúp đỡ, che chở của nhân dân các dân tộc và dựa vào địa hình rừng
núi hiểm trở; nghĩa quân đã cơ động đánh du kích, vừa tránh các trận giao
tranh lớn để bảo toàn lực lượng, vừa chủ động tấn công địch vào những lúc
chúng sở hở. Phong trào ngày càng phát triển mạnh mẽ, lan rộng ra khắp vùng
cao của Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và Thượng Lào. Sau 5 năm hoạt động (1918
- 1922), cuộc khởi nghĩa của Giàng Tả Chay bị thất bại.
|
Giàng
Tả Chay
|
|
27
|
Bùi Đức Chung
|
|
Ngày 01/8/1950, Ban Cán sự Đảng Lai
Châu quyết định tách chi bộ Lai Châu thành 4 chi bộ là là Chi bộ Văn phòng Ban
cán sự Đảng, chi bộ Quỳnh Nhai, chi bộ Tuần Giáo và Điện Biên. Chi bộ Điện
Biên do đồng chí Bùi Đức Chung là bí thư, việc ra đời của chi bộ Điện Biên là
một sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với đồng bào và nhân dân các dân
tộc huyện Điện Biên. Ngày 30/9/1951 quan Pháp đã huy động 500 tên lên càn
quét bản Háng Sung xã Quang Trung (nay là xã Sa Dung, huyện Điện Biên Đông)
là cơ sở của huyện Điện Biên, trong trận này đồng chí Bùi Đức Chung, trưởng
ban cán sự, bí thư chi bộ huyện đã anh dũng hi sinh tại bản Thẩm Mỹ, xã Quang
Trung, huyện Điện Biên.
|
Bùi
Đức Chung
|
|
28
|
Lạng Chượng
|
|
Là người có công khai phá đất Mường
Thanh. Thế kỷ XI, XII, người Thái (ngành Thái đen)
theo ông từ Mường Ôm, Mường Ai xuống chiếm Mường Lò và từ Mường Lò thời gian
sau đó, những cư dân này theo thủ lĩnh Lạng Chượng tràn qua Than Uyên, Văn
Bàn... và cuối cùng làm chủ cả một vùng từ Mường Lò (Nghĩa Lộ) qua Mường La (Sơn La), tới Mường Thanh (Điện Biên).
|
Lạng
Chượng
|
|
29
|
Hoàng Bắc Dũng
|
|
Tháng 6-1950, đồng chí được Liên khu
Việt Bắc điều động vào Lai Châu làm Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Lai
Châu. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính kiêm Trưởng Ban cán sự
Đảng tỉnh (từ tháng 12-1952 đến tháng 4-1954). Đồng chí Hoàng Bắc Dũng là Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu (nay là Ủy ban nhân dân tỉnh)
đầu tiên.
|
Hoàng
Bắc Dũng
|
|
30
|
Lò Văn Hặc
|
Bản Hoong Lếch Cang, xã Thanh Chăn,
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên,
|
Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945,
ông làm chánh tổng châu Mường Thanh; sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tin
và đi theo tiếng gọi của Việt Minh, của Đảng. Ông đã tích cực vận động một số
quan lại, công chức có tinh thần yêu nước, có tình cảm với cách mạng để tổ
chức được hai cuộc mít tinh vào tháng 10 và tháng 11/1945. Ông có thời gian
hoạt động bí mật tại Lào và Thái Lan. Cuối năm 1950, được Trung ương điều
động về Lai Châu hoạt động; Ông đã tham gia Ban Cán sự Lai Châu, lãnh đạo địa
phương xây dựng, phát triển lực lượng. Tháng 9-1953, ông được giao làm Phó
Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu, năm 1954 ông là Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu. Sau đó ông còn giữ các trọng
trách: Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Thái - Mèo, (sau đổi là Khu tự
trị Tây Bắc), là đại biểu Quốc hội từ khóa III đến khóa VII, Ủy viên Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Quốc hội, Phó Ban Dân
tộc của Chính phủ.
|
Lò
Văn Hặc
|
|
31
|
Nguyễn Bá Lạc
|
|
Nguyễn Bá Lạc (Bí danh Trần Quốc Mạnh).
Theo Quyết nghị số 34/NS-LK10, ngày 7-10-1949 của Ban Thường vụ Liên khu ủy
10, đồng chí Nguyễn Bá Lạc là Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Đến tháng
5-1950, làm Phó Trưởng ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Trưởng Ty Công an Lai
Châu (tháng 1-1953). Khu ủy viên Khu tự trị Tây Bắc (1955-1962); Bí thư Tỉnh
ủy Lai Châu khóa I (1963-1970). Đồng chí Nguyễn Bá Lạc là Bí thư Tỉnh ủy và
Trưởng Ty Công an đầu tiên của tỉnh Lai Châu.
|
Nguyễn
Bá Lạc
|
|
32
|
Nông Văn Lạc
|
|
Đội trưởng đội cán sự Lai Châu 2 tức
Ban Cán sự Đảng Lai Châu 2 (tháng 9-1951). Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Lai
Châu (tháng 11-1951). Trưởng Ban Tổ chức - Tuyên huấn - Kiểm tra của tỉnh,
phụ trách hai huyện Quỳnh - Hồ và Tuần - Lai (tháng 2-1952). Trưởng ban Dân
vận tỉnh Lai Châu (năm 1953).
|
Nông
Văn Lạc
|
|
33
|
Mùa Sống Lử
|
|
Là một trong 3 đảng viên dân tộc Mông
đầu tiên được kết nạp tại hang Mường Tỉnh (xã Sa Dung, huyện Điện Biên Đông).
Ông là chỉ huy lính của quan người Mông Vàng Lìa, được quan Mông phong làm
châu đoàn, thống quán nhưng không có quyền gì. Được cách mạng giác ngộ từ năm
1950 được giao phụ trách bộ đội địa phương huyện từ năm 1952-1954 là Phó Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Điện Biên. Có sự vận động của Ông nhiều
quan lại người Mông đã tham gia cách mạng.
|
Mùa
Sống Lử
|
|
34
|
Sùng Giống Lềnh
|
|
Tháng 7 năm 1950, chi bộ đảng được thành
lập ở Sa Dung, cùng với sự lớn mạnh của chính quyền và các tổ chức quần chúng,
lo sợ mất Sa Dung, quân Pháp đã nhiều lần tổ chức lực lượng từ Mường Thanh
lên nhằm đè bẹp căn cứ cách mạng của ta nhưng đều gặp thất bại, trong số
những lần càn đó, đồng chí Sùng Giống Lềnh đã bị quân pháp bắt và tra tấn dã
man đến chết.
|
Sùng
Giống Lềnh
|
|
35
|
Lầu Nỏ Sa
|
|
Tháng 7/1949, đội xung phong Quyết Tiến
đã chuyển phần lớn lực lượng sang vùng cao huyện Điện Biên hoạt động. Tại đây
đội đã bắt liên lạc được với thống quán xã Sa Dung là đồng chí Lầu Nỏ Sa.
Được phân công làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Sa Dung, đồng chí và gia
đình đã tận tình giúp đỡ bộ đội tiếp tế hậu cần và đảm bảo liên lạc bí mật
cho bộ đội. Năm 1952, đồng chí bị địch sát hại và được công nhận là liệt sỹ.
|
Lầu
Nỏ Sa
|
|
36
|
Hoàng Tinh
|
|
Khu ủy viên Khu tự trị Tây Bắc; Chỉ
huy trưởng công trình Đại thủy nông Nậm Rốm (năm 1963). Ủy viên Ban Chấp hành
Tỉnh ủy Lai Châu khóa I (1963-1970); Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa III (1975-1977);
Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa IV (1977-1980) và khóa V (1980-1983).
|
Hoàng
Tinh
|
|
37
|
Hoàng Đông Tùng
|
|
Đội trưởng đội vũ trang tuyên truyền
Lai Châu (tháng 7-1949). Bí thư chi bộ đội vũ trang tuyên truyền Lai Châu
(tháng 10-1949). Theo Quyết nghị số 34/NS-LK10, ngày 7-10-1949 của Ban Thường
vụ Liên khu ủy 10 đồng chí Hoàng Đông Tùng là ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh
Lai Châu. Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Lai Châu (tháng 12-1950). Phụ trách huyện
Quỳnh Nhai (năm 1950). Theo sự phân công của Ban Cán sự Đảng tỉnh, đồng chí
phụ trách công tác quân sự của tỉnh. Đồng chí Hoàng Đông Tùng là Tỉnh đội trưởng
đầu tiên của tỉnh Lai Châu.
|
Hoàng
Đông Tùng
|
|
38
|
Tạ Nhật Tựu
|
|
Đồng chí Tạ Nhật Tựu (Bí danh Hoàng
Hoa Thưởng). Theo Quyết nghị số 34/NS-LK10, ngày 7-10-1949 của Ban Thường vụ Liên
khu ủy 10 đồng chí Tạ Nhật Tựu là ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Đội
trưởng đội công tác huyện Điện Biên (tháng 12-1949). Phụ trách huyện Điện Biên
(năm 1950). Phụ trách hai huyện Quỳnh Nhai và Sìn Hồ (tháng 7- 1951). Phụ
trách tờ nguyệt san "Lai Châu kháng chiến" (tháng 8-1951). Trưởng
Ban cán sự Đảng liên huyện Quỳnh Nhai - Sìn Hồ (tháng 8-1951). Chính trị viên
Tỉnh đội Lai Châu (tháng 2-1952). Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh
Lai Châu (tháng 12-1952).
|
Tạ
Nhật Tựu
|
|
39
|
Tướng Khanh và tướng Ngải
|
|
Là 02 thủ lĩnh ở vùng đất Mường Thanh
đã phối hợp với tướng Hoàng Công Chất chỉ huy nghĩa quân địa phương cùng nhau
đánh đuổi giặc Phẻ giải phóng hoàn toàn Mường Thanh vào
năm 1754.
|
-
Tướng Khanh
-
Tướng Ngải
|
|
40
|
Nguyễn Văn Xã
|
|
Phó Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa I (1963-1970);
Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa II (1970-1975) và khóa III (1975-1977).
|
Nguyễn
Văn Xã
|
|
3. Các di tích, danh thắng được xếp
hạng trên địa bàn tỉnh
TT
|
Tên
di tích, địa danh
|
Loại
hình di tích
|
Tóm
tắt về di tích, địa danh
|
Cấp
và ngày xếp hạng
|
Tên
dự kiến đặt
|
41
|
Thành Bản Phủ
|
Lịch sử
|
Di tích lịch sử văn hóa Thành Bản Phủ
(hay còn gọi là thành Chiềng Lề) thuộc địa phận xã Noọng Hẹt,
huyện Điện Biên. Thành được nghĩa quân Hoàng Công Chất và nhân dân các dân
tộc xây dựng trong 4 năm từ 1758 - 1762. Đây là một công trình kiến trúc quân
sự đắp bằng theo kiểu ô vuông, thành rộng 80 mẫu, tường thành cao 5m mặt thành
rộng 4 - 5m, chân thành rộng 10m, các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc có cổng ra
vào, có chòi canh gác.
|
Cấp quốc gia, ngày xếp hạng 09/2/
1981
|
Bản
Phủ
Chiềng
Lề
|
42
|
Tháp Chiềng Sơ
|
Kiến trúc nghệ thuật
|
Tháp Chiềng
Sơ thuộc xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ XV-XVI. Tháp là công trình kiến trúc nghệ
thuật thể hiện rõ sự tài ba và sáng tạo nghệ thuật của nhân dân hai nước Việt
- Lào, khẳng định được lịch sử về tình đoàn kết gắn bó lâu đời giữa hai dân
tộc anh em Việt Lào. Tháp được kiến trúc theo hình nậm rượu, dưới to và phần
trên nhỏ dần. Tháp cao 10,5m, bốn mặt xung quanh chân Tháp được đặt 2 chú voi
ở đằng trước và 2 chú chó ở đằng sau. Tháp được xây dựng bằng gạch và vôi vữa
mật.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng 14/4/2011
|
Chiềng
Sơ
|
43
|
Tháp Mường Luân
|
Kiến trúc nghệ thuật
|
Tháp Mường Luân, thuộc xã Mường Luân,
huyện Điện Biên, tiếng địa phương còn gọi là “Thát Mướng Luân” được xây dựng khoảng thế kỷ XVI. Tháp cao 15m, có kiến trúc theo
hình vuông, dưới to, trên nhỏ dần. Tháp có cấu tạo hai phần rõ rệt gồm bệ
tháp và thân tháp. Với các họa tiết cách điệu chìm nổi có hình hoa sen, chim
bay, hoa lá, rồng cuốn, sử dụng vật liệu phong phú như gạch, vôi, mạch mía để
xây dựng.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng 09/2/1981
|
Mường
Luân
|
44
|
Hang Mường Tỉnh
|
Lịch sử
|
Hang Mường Tỉnh, thuộc xã Sa Dung, huyện
Điện Biên Đông. Nơi đây vào những năm 1945- 1954 đã diễn ra nhiều sự
kiện cách mạng quan trọng góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Hang Mường
Tỉnh gồm có 3 ngăn chính. Đi qua cửa hang hẹp sẽ là ngăn ngoài cùng với diện
tích khoảng 600m2, cao khoảng 20m. Ở ngăn này vòm hang không có nhiều tạo
hình phong phú nhưng điểm nổi bật là có không gian khá rộng lớn với nền đất
bằng phẳng. Đây là nơi lý tưởng để Đảng ta lựa chọn làm nơi tổ chức các cuộc
họp có sức chứa được hàng trăm người và giữ được bí mật.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng 14/4/2011
|
Mường
Tỉnh
|
45
|
Hang Thẩm Khương
|
Khảo cổ học
|
Hang Thẩm Khương, thuộc xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, là một trong
số các di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hóa Hòa Bình, được phát hiện đầu tiên
ở Lai Châu (nay là Điện Biên) và được chọn là điểm nghiên cứu sâu rộng nhất.
Qua khai quật các nhà khảo cổ học đã thấy được cấu tạo của tầng văn hóa dày
1,2m, chia làm 3 lớp với những đặc điểm của mỗi lớp khác nhau. Trong các tầng
văn hóa đã phát hiện bếp nguyên thủy, mộ táng và rất nhiều công cụ bằng đá,
xương răng động vật cùng một số hiện vật bằng đồng....Tại cửa cũng phát hiện
được 4 ngôi mộ cổ chôn cùng một số đồ dùng sinh hoạt như rìu đồng, giáo đồng.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng 10/3/2014
|
Thẩm
Khương
|
46
|
Động Pa Thơm
|
Danh lam thắng cảnh
|
Động Pa Thơm, thuộc địa phận 2 xã Na Ư và Pa Thơm, còn có các tên gọi khác như Thẩm
Nang Lai (hang nhiều nàng), động Tiên Hoa. Động Pa Thơm nằm ở lưng
chừng núi. Chính giữa lối vào là một khối đá khổng lồ giống như đầu voi đang
rủ xuống. Chiều sâu động khoảng hơn 350m chạy theo hướng Nam. Động có 9 vòm
lớn nhỏ, có nhiều nhũ đá hình thù hết sức sống động, màu sắc huyền ảo, vách
động là những khối nhũ đá như những dòng thác lớn đang chảy; động Pa Thơm là
một kỳ quan thiên nhiên, địa danh du lịch hấp dẫn của tỉnh Điện Biên.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng
22/01/2009
|
Pa
Thơm
|
47
|
Thành Sam Mứn
|
Kiến trúc nghệ thuật
|
Thành Sam Mứn hay còn gọi là thành Tam Vạn, nằm ở phía
Nam cánh đồng Mường Thanh, thuộc xã Pom Lót, huyện Điện Biên, đây là một toà thành được đắp bằng đất với diện tích gần 400ha, hai phía
tây, nam dựa vào thế núi sông bao bọc, hướng đông, bắc xây dựng tường thành,
có hào, có hàng tre (tre bông) bao bọc. Lối vào thành có một cửa lớn nằm trên
trục đường chính ở phía Bắc (nay là đường quốc lộ 279) được gọi là cửa tu
đin (Cửa đất) hay nhất chính đạo (đường chính giữa), hai bên cửa thành là tường
thành được đắp bằng đất cao 5m, mặt thành rộng 5m, chân thành rộng 10m và
chạy dài về hai phía đông - tây. Ngoài cửa tu đin thành Sam Mứn còn có hai
cửa phụ nằm ở phía bắc và phía đông.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng
22/01/2009
|
Sam
Mứn
Tam
Vạn
|
48
|
Hang Xá Nhè
|
Danh lam thắng cảnh
|
Hang Xá Nhè, thuộc xã Xá Nhè, huyện
Tủa Chủa. Hang dài 700m, gồm 5 khoang lớn nhỏ khác nhau, mỗi khoang có một vẻ
đẹp kì bí riêng. Khoang bên ngoài có hình vòm cung với những khối nhũ đá rủ xuống
lấp lánh với đường nét mềm mại, uyển chuyển.. Khoang thứ 2 với những khung
cảnh giả tưởng, cách điệu như cảnh làng quê mộc mạc với sông suối, ao hồ,
ruộng bậc thang…; Khoang 3 nổi bật với 2 cột trụ đá to lớn mọc sừng sững giữa
trung tâm động; các khoang còn lại với cảnh đẹp tự nhiên do thiên nhiên ban
tặng có sức hút lớn đối với du khách.
|
Cấp quốc gia ngày xếp hạng 10/3/2014
|
Xá
Nhè
|
49
|
Hang Mùn Chung
|
Danh lam thắng cảnh
|
Tiếng địa phương có
tên là Thẩm Hán, Huổi Loóng, nằm trên 1 quả núi có tên Pom Loi,
xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo. Hang được bài trí với núi non, sông nước
hợp thành, dài khoảng 400m được uốn mình theo hình vòng cung, chia làm 2 ngăn.
Trong hang là các khối đá lớn, nhỏ mang dáng dấp, hình thù nhiều loài vật,
trần động có nhiều nhũ thạch tạo cho người xem
liên tưởng trước sự sắp đặt của thiên nhiên.
|
Cấp tỉnh ngày xếp hạng 16/4/2014
|
Mùn
Chung
|
50
|
Đại thủy nông Nậm Rốm
|
Lịch sử văn hóa
|
Năm 1963 công trình Đại thủy nông Nậm
Rốm, huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Đện Biên) được xây dựng với
mục đích dâng, chuyển cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản,
phục vụ nước sinh hoạt. Công trình đại thủy nông Nậm Rốm có quy mô lớn đứng thứ nhất các tỉnh miền núi Tây Bắc, đứng
thứ 2 toàn miền Bắc (sau công trình thủy nông Bắc Hưng Hải), xây dựng
theo kiểu đập tràn tự do, cấu tạo Ô - Phi - Xi - Rốp (tên người nghiên cứu
thiết kế xây dựng đập), tưới tiêu nước theo phương thức tự chảy. Công trình gồm hai hệ thống kênh chính, chạy dài từ thành
phố Điện Biên Phủ xuống huyện Điện Biên. Công trình do hơn 2.000 thanh niên
xung phong tình nguyện xây dựng bằng hình thức thủ công, tận dụng sức người
là chính.
|
Cấp tỉnh ngày xếp hạng 23/5/2014
|
Nậm
Rốm
|
51
|
Khu du kích, di tích Pú Nhung
|
Lịch sử
|
Tháng 12-1945, quân Pháp chiếm lại Lai
Châu, xã Pú Nhung được chọn là một trong những căn cứ hoạt động cách mạng của
Đội Xung phong Quyết Tiến và Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu, mặc dù chỉ có vũ
khí thô sơ như: Cung, nỏ, tên thuốc độc, bẫy đá, súng tự tạo của du kích, người
Mông xã Pú Nhung đã đoàn kết cùng các dân tộc anh em trong huyện kiên cường
đứng lên chiến đấu. Đội du kích Pú Nhung dưới sự chỉ huy của người đội trưởng
Sùng Phái Sinh kiên cường dũng cảm tiêu diệt địch ở đồn bản Chăn, đồn Phiêng
Pi... Cũng tại đây người thiếu niên dân tộc Mông - Vừ A Dính làm liên
lạc cho cách mạng, bị địch bắt, tra tấn dã man đã một lòng một dạ kiên trung
không khai báo cơ sở cách mạng, cán bộ Đảng và bị thực dân Pháp xả súng bắn
chết.
Ngày 31-7-1998, Chủ tịch nước phong
tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho Ban Công an xã Pú
Nhung.
|
Cấp tỉnh ngày xếp hạng 27/7/2010
|
Pú
Nhung
|
52
|
Thành Vàng Lồng
|
Kiến trúc nghệ thuật
|
Thành Vàng Lồng do
đồng bào dân tộc Mông xây dựng ở thế kỷ thứ XVIII, thành nằm cách trung tâm xã
Tả Phìn 600m. Đây là tòa thành cổ, có quy mô lớn, cấu trúc thuộc loại độc đáo
nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Mông ở Điện Biên, được xây
dựng theo kiểu hình vòng tròn, chu vi rộng 440m. Thành cao trung bình 2m, bề
mặt rộng 1m. Vật liệu xây dựng chủ yếu là đá với phương thức ghè, đẽo thô sơ
hoàn toàn bằng thủ công, kỹ thuật ghép tinh xảo. Các phiến đá to, nhỏ xếp chồng
lên nhau tạo thành mặt phẳng, người ngựa cũng có thể đi lại trên mặt thành.
|
Cấp tỉnh ngày xếp hạng 29/4/2014
|
Vàng
Lồng
|
53
|
Dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mỹ
|
Lịch sử văn hóa
|
Di tích dân quân Thanh An bắn rơi máy
bay Mỹ là hệ thống đường hào nằm trên đồi ông Khụt, bản Chiềng Chung, xã Thanh
An, huyện Điện Biên. Di tích là hệ thống giao thông hào cấu tạo hình chữ S
dài khoảng 90 - 100m, rộng 0,8 - 1m, nằm trên đồi rộng khoảng 2 héc ta. Đây
là địa điểm khá thuận lợi, có tầm nhìn bao quát toàn bộ khu vực trung tâm huyện,
bản làng trong xã. Phía Tây Bắc quan sát được một phần địa phận xã Thanh
Xương, khu trung tâm huyện Điện Biên. Phía Nam quan sát toàn bộ khu vực trại
giống xã Thanh An, xã Sam Mứn, xã Noong Luống. Ngày 15/3/1966, Dưới sự chỉ
đạo của huyện đội huyện Điện Biên, tổ dân quân xã Thanh An đã bắn rơi chiếc
máy bay F4H của đế quốc Mỹ bằng súng bộ binh.
|
Cấp tỉnh ngày xếp hạng 23/5/2014
|
Thanh
An
|
4. Các địa danh lịch sử, cách mạng
kháng chiến của tỉnh Điện Biên
TT
|
Tên
di tích, địa danh
|
Loại
hình di tích
|
Tóm
tắt về di tích, địa danh
|
Cấp
và ngày xếp hạng
|
Tên
dự kiến đặt
|
54
|
A Pa Chải
|
|
A Pa Chải (theo
tiếng Hà Nhì có nghĩa là vùng đất bằng phẳng, rộng lớn) là điểm cực Tây trên đất
liền của Việt Nam, vùng giáp
biên 2 nước Trung Quốc và Lào thuộc xã Sín Thầu, huyện
Mường Nhé, cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 250 km. Nơi này được mệnh danh là "Một con gà gáy
cả ba nước đều nghe thấy". Nằm ở độ cao 1864 m so với mực nước biển, là
địa bàn tập trung chủ yếu người dân tộc Hà Nhì và một
số dân tộc thiểu số khác.
|
|
A
Pa Chải
|
55
|
Bản Lướt, xã Mường Kim, huyện Than Uyên,
tỉnh Lai Châu
|
|
Tại đây vào ngày 2-12-1949, Ban cán
sự Đảng tỉnh Lai Châu (nay là Đảng bộ hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên) đã triệu
tập Hội nghị để thành lập chi bộ gồm 20 đảng viên (18 chính thức, 2 dự bị).
Là địa điểm Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu đóng quân từ tháng 10-1949 đến
tháng 5-1950.
|
|
Bản
Lướt
|
56
|
Mường Thanh
|
|
Mường Thanh tức Điện Biên Phủ ngày nay
có gốc trong tiếng Thái là Mường Then hay Mường Theng. Mường Then có nghĩa là
Mường trời, hầu hết dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ở Lào và cả ở Thái Lan
đều nhận Mường Thanh là đất tổ của mình.
|
|
-
Mường Thanh
-
Mường Then
|
57
|
Khu du kích vùng cao Sa Dung huyện Điện
Biên (nay thuộc huyện Điện Biên Đông)
|
|
Khu du kích vùng cao huyện Điện Biên
(nay thuộc huyện Điện Biên Đông). Thực hiện Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng
tỉnh Lai Châu, khu du kích vùng cao huyện Điện Biên được xây dựng gồm một số
xã như Pu Nhi, Sa Dung, Phì Nhừ... đây cũng là các cơ sở cách mạng được bộ
đội Tây Tiến, Đội xung phong Quyết Tiến xây dựng khi vào hoạt động. Cũng tại
đây, Chi bộ Đảng huyện Điện Biên đã giác ngộ và kết nạp được 3 quần chúng ưu
tú người dân tộc Mông vào tổ chức Đảng, trở thành những đảng viên người dân
tộc Mông đầu tiên của Đảng bộ huyện và của tỉnh Lai Châu. Các xã vùng cao thuộc
khu du kích đã trở thành nơi cung cấp người, lương thực, thực phẩm góp phần
làm nên chiến thắng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Xã Sa Dung đã được
Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”
ngày 8-11-2000.
|
|
Sa
Dung
|
58
|
Đèo Pha Đin
|
|
Đèo có độ dài 32 km, thuộc quốc lộ số
6, là cửa ngõ vào tỉnh Điện Biên. Điểm cao nhất của đèo là 1.648 mét so với
mực nước biển, với một bên là vách núi, một bên là vực sâu. Là nơi tiếp giáp
giữa đất và trời, theo ngôn ngữ của người Thái, cũng là nơi bắt đầu của hành
trình kéo pháo cao xạ bằng sức người của bộ đội ta trong chiến dịch dẫn đến
thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.
|
|
Pha
Đin
|
59
|
Pom Loi
|
|
Pom Loi (hay đoi) nghĩa là đồi liệm.
Khi Lạng Chượng chết đem khâm liệm tại đồi này; người dân địa phương gọi đồi
này Pom Loi (Đồi khâm liệm).
Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta
đặt tên là Đồi Cháy, tên gọi này vẫn được sử dụng đến bây giờ.
|
|
-
Pom Loi
-
Đồi Cháy
|
60
|
Đèo Tằng Quái
|
|
Đèo Tằng Quái dài 11km, nằm trên Quốc
lộ 279, giáp ranh giữa huyện Mường Ảng và huyện Điện Biên. Theo tiếng địa
phương nghĩa là “đoạn đường có nhiều trâu bò đi qua”
|
|
Tằng
Quái
|
61
|
Hồ Pá Khoang
|
|
Thuộc địa phận xã Mường
Phăng (huyện Điện Biên), cách thành phố Điện Biên Phủ 32km đường ôtô theo
hướng Đông Bắc; theo tiếng Thái Pa Khoang tức là rừng trúc. Trước chiến dịch
Điện Biên Phủ, dưới tán rừng nguyên sinh Mường Phăng, các đơn vị sơn pháo của
lực lượng pháo binh non trẻ Việt Nam (thuộc Đại đoàn công pháo 351, do Chính
uỷ Phạm Ngọc Mậu chỉ huy), đã đem những “con voi sắt” qua đây. Ngày nay Pá
Khoang trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, Pá Khoang còn giữ vai trò vô
cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước tưới tiêu
chủ yếu cho cánh đồng Mường Thanh
|
|
Pá
Khoang
|
62
|
Bản Tông Khao
|
|
Bản Tông Khao (bản Cánh đồng trắng)
xã Thanh Nưa - huyện Điện Biên - tỉnh Điện Biên.
Tông nghĩa là cánh đồng, khao là trắng
- bản Cánh đồng trắng, được nghe truyền lại giằng: Thời xa xưa bọn giặc Phẻ
lấy những cháu bé biết lật, biết bò bỏ vào cánh đồng này, ngăn nước dâng lên
ngập, các cháu uống nước đầy bụng chết phơi nắng trắng xóa cả cánh đồng nơi
đây. Về sau, người ta lập bản gọi là bản Tông Khao.
|
|
Tông
Khao
|
63
|
Háng Tông Tòng
|
|
Thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo,
tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên). Là địa điểm Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu
chọn làm nơi đóng quân để chỉ đạo phong trào cách mạng của tỉnh trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp từ tháng 6-1950.
|
|
Háng
Tông Tòng
|
64
|
U Va
|
|
Trong tâm thức của dân tộc Thái, Điện
Biên là thánh địa còn Uva là chốn linh thiêng trong thánh địa ấy. Theo truyền
thuyết, Uva có sợi dây khau cát - là nơi nối liền giữa trời với đất. Từ đây,
linh hồn con người có thể bay được về trời.
|
|
U
Va
|
Tổng
số 68 tên
|
IV. Sự kiện, địa danh, anh hùng trong
chiến thắng Điện Biên Phủ
1. Các di tích chiến trường Điện Biên
Phủ
TT
|
Tên
sự kiện, địa danh
|
Tóm
tắt nội dung sự kiện, địa danh
|
Tên
dự kiến đặt
|
Ghi
chú
|
1
|
Bia tưởng niệm Hận thù Noong Nhai
|
Nơi tưởng niệm các nạn nhân tử nạn trong
trận ném bom của Thực dân Pháp vào trại tập trung Noong Nhai ngày 25 tháng 4
năm 1954, khi cuộc chiến tại Điện Biên Phủ đang diễn ra vô cùng ác liệt.
|
Noong
Nhai
|
|
2
|
Bản Kéo
|
Bản Kéo thuộc cụm cứ điểm Anne
Marie nằm ở phía Tây Bắc của Tập đoàn cứ điểm, nằm ở vòng ngoài trên hai mỏm của
đồi Bản Kéo là Anne Marie 1 và Anne Marie 2. Cùng với đồi Độc Lập, đồi Bản
Kéo có nhiệm vụ ngăn chặn sự tấn công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện
Biên Phủ. Sau khi chiếm được Him Lam và Độc Lập, ta nhận thấy có khả năng
giải quyết cứ điểm này không cần tới một trận đánh nên dùng truyền đơn binh
vận kêu gọi lính Thái đầu hàng. Từ ngày 15 tháng 3, tiếng loa nói bằng tiếng
Thái và tiếng Kinh của bộ đội ta từ trên các điểm cao xung quanh Bản Kéo, kêu
gọi lính ra hàng, cùng với những tờ truyền đơn. Ta không cần nổ súng đã chiếm
được hai cứ điểm trên đồi Bản Kéo, kết thúc đợt tấn công thứ nhất, mở cánh
cửa phía Bắc vào trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
|
Bản
Kéo
|
|
3
|
Đồi A1
|
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ A1 là
điểm cao cuối cùng trong dãy phòng ngự phía Đông, được coi là tấm lá chắn cuối
cùng che chở cho trung tâm Mường Thanh của Thực dân Pháp; mục tiêu đánh chiếm
của Quân đội ta trong đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, trong đó Đồi A1 là cứ điểm quan trọng bậc nhất, trận đánh đồi A1 là một
trong những trận đánh then chốt của chiến dịch và để giành được chiến thắng
hơn 2000 cán bộ chiến sĩ đã ngã xuống.
|
A1
|
|
4
|
Đồi C1, C2
|
Đồi C1 và C2 cùng với A1, E1, D
tạo thành tấm lá chắn thép che chở cho phân khu trung tâm. 17 giờ ngày 30/3/1954,
sau khi pháo binh bắn chế áp, mở màn đợt tấn công thứ 2 vào Tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ, các cao điểm phía Đông trong đó có C1, C2 chìm trong lửa đạn
của Việt Minh. Cuộc chiến đấu tại hai quả đồi này diễn ra vô cùng ác liệt. Ta
chiếm được đồi C1 vào đêm ngày 01 tháng 5 năm 1954, còn tại Đồi C2, sau khi
tiêu diệt được cứ điểm A1, ta mới chiếm được quả đồi, trở thành trận chiến
kéo dài nhất trong chiến dịch.
|
-
C1
-
C2
|
|
5
|
Hồng Cúm
|
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ di tích
này bao gồm cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm), sân bay dự bị và trận địa pháo,
nằm cách phân khu trung tâm khoảng 5km có nhiệm vụ bảo vệ cho trung tâm Tập
đoàn cứ điểm ở hướng Nam; đây là cụm cứ điểm cuối cùng bị tiêu diệt sau khi
ta đã chiếm được hầm chỉ huy của Thực dân Pháp.
|
Hồng
Cúm
|
|
6
|
Đồi D
|
Đồi D nằm trong cụm Dominique
và bao gồm 3 ngọn đồi D1, D2, D3, Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm này
thành vị trí tiền tiêu của dãy đồi phía Đông. Do vị trí và nhiệm vụ của đồi D
là trực tiếp khống chế khu trung tâm của De Castries và sân bay Mường Thanh.
Đánh chiếm dãy cao điểm phía Đông trong
đó có cao điểm D1 là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong đợt tấn công thứ hai.
Đơn vị đảm nhiệm tiêu diệt đồi D là Tiểu đoàn 130, 166, 154 thuộc Trung đoàn
209, Đại đoàn 312.
Kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ đồi D1 vinh dự được đặt Tượng đài chiến thắng và là công trình văn
hóa, nghệ thuật mang đậm giá trị lịch sử, tính nhân văn và tâm linh sâu sắc
để tri ân những anh hùng liệt sỹ.
|
-
D1
-
D2
-
D3
|
|
7
|
Đồi Độc Lập
|
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cứ điểm
Độc Lập nằm ở phân khu Bắc nằm án ngữ đường Lai Châu vào Điện Biên, là mục
tiêu đánh chiếm trong đợt tấn công đầu tiên của ta vào tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ.
Rạng sáng ngày 15 tháng 3, ta tấn công
vào cứ điểm Độc Lập. Sau 3 giờ chiến đấu, quân ta nhanh chóng chiếm được cứ
điểm này.
|
Độc
Lập
|
|
8
|
Đồi E
|
Đồi E gồm 3 quả đồi E1, E2, E3 nằm trong
cụm Dominique, là một trong 5 cao điểm phòng ngự phía Đông, thuộc phân khu
trung tâm, có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tấn công ở hướng Đông Bắc vào Điện
Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Thực dân Pháp chỉ xây dựng trận địa
phòng ngự trên E1 và cùng với các cao điểm phía Đông, đồi E1 là bức bình
phong bảo vệ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ta tổ chức đánh chiến đồi E trong
đợt tấn công thứ hai vào trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, được giao
nhiệm vụ này là Đại đoàn 312. Sau 20 ngày chiến đấu ta đã làm chủ được đồi E
Hiện nay trên đồi E2 được xây dựng công
trình Trung tâm Văn hóa Cựu chiến binh, là món quà Hội Cựu chiến binh Việt
Nam tặng tỉnh Điện Biên nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.
|
-
E1
-
E2
-
E3
|
|
9
|
Trung tâm đề kháng Him Lam
|
Là nơi diễn ra trận mở màn của chiến
dịch Điện Biên Phủ. Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở đầu cuộc tấn công vào
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ từ hướng Bắc lúc 17 giờ 30 phút ngày 13 tháng
3 năm 1954 vào Trung tâm đề kháng Him Lam. Sau gần 5 giờ chiến đấu, đến 22
giờ cùng ngày, ta đã làm chủ được cứ điểm này, tiêu diệt và bắt sống 500 tên
địch, thu nhiều vũ khí của chúng.
|
-
Him Lam
-
13/3
|
|
10
|
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
tại Mường Phăng
|
Nơi đặt cơ quan chỉ huy của Bộ chỉ huy
chiến dịch Điện Biên Phủ từ ngày 31 tháng 1 năm 1954 đến 15 tháng 5 năm 1954,
đứng đầu là Đại tướng Tổng tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Võ Nguyên Giáp, tại xã
Mường Phăng, huyện Điện Biên ngày nay.
|
Mường
Phăng
|
|
11
|
Đường kéo pháo bằng tay
|
Là con đường kéo pháo bằng tay duy nhất
được thực hiện trong vòng 20 giờ với chiều dài 15km, chiều rộng 3m vượt qua
đỉnh Pu Pha Sông, hiện nay thuộc xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên. Trên con đường
này từ nửa cuối tháng 1 đến đầu tháng 2 năm 1954 ta đã thực hiện việc kéo
pháo vào và kéo pháo ra theo phương châm tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch
Điện Biên Phủ.
|
Pu
Pha Sông
|
|
2. Các anh hùng được phong tặng trong
chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
TT
|
Họ
tên
|
Quê
quán
|
Năm
sinh
|
Đơn
vị
|
Thành
tích, thời gian phong tặng
|
Tên
dự kiến đặt
|
Ghi
chú
|
12
|
Nguyễn
Bạch
|
Vĩnh
Phúc
|
1924
|
Cục
Công binh
|
Lập thành tích trong việc đào hầm ngầm
và điểm hỏa khối bộc phá 960kg tiêu diệt hầm ngầm cố thủ và nhiều lực lượng
địch trên cứ điểm A1.
Được phong tặng anh hùng ngày
23/2/2010
|
Nguyễn
Bạch
|
|
13
|
Nguyễn
Ngọc Bảo
|
Ninh
Bình
|
1927
|
Cục
Quân báo
|
Là chiến sĩ trinh sát; hi sinh khi đang
làm nhiệm vụ trinh sát xác định vị trí hầm ngầm cố thủ trên Đồi A1.
Được phong tặng anh hùng ngày 30/8/1995
|
Nguyễn
Ngọc Bảo
|
|
14
|
Trần
Can
|
Nghệ
An
|
1931
|
F312
|
Người cắm lá cờ đầu tiên trên cứ điểm
Him Lam, mưu trí, dũng cảm, luôn xung phong đi đầu, tiêu diệt nhiều địch.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Trần
Can
|
|
15
|
Trần
Văn Cam
|
Phú Thọ
|
1936
|
Trung đội trưởng Đội 40 TNXP
|
Là chiến sĩ phá bom mìn gan dạ, dũng
cảm, có nhiều sáng kiến trong việc phá bom, mở đường vào Điện Biên Phủ.
Được phong tặng anh hùng ngày
23/7/2014
|
Trần
Văn Cam
|
|
16
|
Dương
Quảng Châu
|
Hưng
Yên
|
1929
|
F
308
|
Mưu trí, tiêu diệt nhiều địch, bị thương
vẫn hăng hái tham gia lao động sản xuất cùng nhân dân đắp đê, chống lũ,
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Dương
Quảng Châu
|
|
17
|
Bùi
Đình Cư
|
Phú Thọ
|
1927
|
F351
|
Là chiến sĩ pháo binh, mưu trí trong
chiến đấu, điều khiển pháo bắn chính xác vào các cứ điểm Him Lam và Độc Lập.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Bùi
Đình Cư
|
|
18
|
Bế
Văn Đàn
|
Cao Bằng
|
1931
|
F316
|
Lấy thân mình làm giá súng, giúp đồng
đội tiêu diệt địch tại trận đánh ở Mường Pồn tháng 12/1953, hi sinh khi vẫn
ghì chặt giá súng trên vai.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/5/1955
|
Bế
Văn Đàn
|
|
19
|
Tô Vĩnh
Diện
|
Thanh
Hóa
|
1924
|
F312
|
Lấy thân mình cứu pháo, không để pháo
rơi xuống vực trong quá trình kéo pháo ra, về vị trí tập kết.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Tô
Vĩnh Diện
|
|
20
|
Hoàng
Khắc Dược
|
Nam Định
|
1917
|
F304
|
Là chiến sĩ nuôi quân chịu khó, liêm
khiết, sẵn sàng bớt khẩu phần ăn cho đồng đội.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Hoàng
Khắc Dược
|
|
21
|
Lê
Văn Dỵ
|
Hà Nội
|
1926
|
F316
|
Chiến đấu dũng cảm, phát huy sáng kiến
đào hầm ngầm tại đồi C1, tiêu diệt nhiều địch.
Được phong tặng anh hùng ngày
08/7/2008
|
Lê
Văn Dỵ
|
|
22
|
Phan
Đình Giót
|
Hà Tĩnh
|
1922
|
F312
|
Lấy thân mình bịt hỏa điểm lợi hại nhất
của địch, tạo thời cơ cho đơn vị tiến lên trong trận đánh tại Him Lam.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Phan
Đình Giót
|
|
23
|
Đặng
Đình Hồ
|
Nghệ
An
|
1925
|
F304
|
Là chiến sĩ gan dạ, bị thương những
vẫn chiến đấu, dùng bộc phá mở đường cho đồng đội tiến lên trong trận chiến tại
cứ điểm C1; ngoài ra còn có tinh thần học tập, rèn luyện tốt.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Đặng
Đình Hồ
|
|
24
|
Trần
Đình Hùng
|
Bắc
Giang
|
1931
|
F308
|
Là Khẩu đội trưởng DKZ, chiến đấu thông
minh, phát huy sáng kiến, tiêu diệt nhiều địch tại phân khu trung tâm Mường
Thanh.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Trần
Đình Hùng
|
|
25
|
Trịnh
Văn Huyền
|
Hà Nội
|
1930
|
Đội trưởng Đội phá bom, Đội 34 TNXP
|
Có thành tích trong việc đánh trả máy
bay địch, phá bom nổ chậm, lấp và sửa đường. Ngoài ra còn có nhiều sáng kiến
cải tạo đường ngầm qua suối và nuôi lợn, gà “cơ động” trên vai theo đường
hành quân.
Được phong tặng anh hùng ngày
23/7/2014
|
Trịnh
Văn Huyền
|
|
26
|
Lâm Viết
Hữu
|
Lạng
Sơn
|
1926
|
F316
|
Gan dạ, dũng
cảm, chiến đấu ngoan cường, lập nhiều thành tích trong tiêu diệt cứ điểm Đồi
A1.
Được phong tặng anh hùng ngày 22/12/2009
|
Lâm
Viết Hữu
|
|
27
|
Chu
Văn Khâm
|
Vĩnh
Phúc
|
1925
|
Tổng
cục hậu cần
|
Là chiến sĩ
phá bom mìn, gương mẫu, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong chiến
dịch Điện Biên Phủ, chỉ trong 1 tháng đã chỉ huy tiểu đội phá gỡ được 35 quả
bom nổ chậm, riêng đồng chí tự tay phá gỡ được 18 quả, trong đó có một số quả
nguy hiểm và khó phá, thông đường cho công tác vận chuyển.
Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955
|
Chu
Văn Khâm
|
|
28
|
Phùng
Văn Khầu
|
Cao Bằng
|
1930
|
F351
|
Mưu trí, sáng tạo, khắc phục khó khăn
trong chiến đấu, giữ vững trận địa trên đồi E1, tiêu diệt hàng trăm tên địch.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/5/1955
|
Phùng
Văn Khầu
|
|
29
|
Tạ Quốc
Luật
|
Thái
Bình
|
1925
|
F
312
|
Hăng hái tham gia công tác mở đường,
chiến đấu dũng cảm, đặc biệt đã dẫn đầu đơn vị xông vào bắt sống tướng Đờ cát
tơ rì và tham mưu của chúng vào chiều 07/5.
Được phong tặng anh hùng ngày
16/12/2004
|
Tạ
Quốc Luật
|
|
30
|
Đinh
Văn Mẫu
|
Phú Thọ
|
1924
|
F
312
|
Là chiến sĩ nuôi quân, dũng cảm, biết
khắc phục khó khăn, phát huy nhiều sáng kiến, đưa cơm đến tay từng đồng đội
chiến đấu ngoài trận địa dưới bom đạn quân thù.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Đinh
Văn Mẫu
|
|
31
|
Chu
Văn Mùi
|
Bắc
Giang
|
1928
|
F308
|
Là chiến sĩ thông tin, vừa bị thương,
nhịn đói, nhịn khát phải uống nước giải của chính mình nhưng vẫn bám trụ trận
địa, sử dụng máy thông tin xác định vị trí cho pháo bắn chính xác vào quân
địch tại cứ điểm A1.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/5/1955
|
Chu
Văn Mùi
|
|
32
|
Hoàng
Văn Nô
|
Cao Bằng
|
1932
|
F316
|
Là chiến sĩ dũng cảm cắm lưỡi lê vào
đầu súng, đánh giáp lá cà với địch, hi sinh khi đi truy bắt địch đầu năm 1954
Được phong tặng anh hùng ngày
28/4/2000
|
Hoàng
Văn Nô
|
|
33
|
Hà
Văn Nọa
|
Hải
Dương
|
1928
|
F312
|
Chiến đấu dũng cảm, luôn dẫn đầu đơn
vị tổ chức thọc sâu đánh vào các đường ngầm, lô cốt địch tại Him Lam, đồi E,
đồi D, tiêu diệt nhiều địch.
Được phong tặng anh hùng ngày
16/12/2004
|
Hà
Văn Nọa
|
|
34
|
Đặng
Đức Song
|
Hải
Dương
|
1934
|
F316
|
Chiến đấu dũng cảm tại cứ điểm C1, khắc
phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, tinh thần đồng đội cao.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Đặng
Đức Song
|
|
35
|
Lưu Viết
Thoảng
|
Bắc
Giang
|
1926
|
Cục
công binh
|
Gan dạ, dũng cảm, có nhiều sáng kiến
và thành tích trong việc phá bom, đặt thuốc nổ; dẫn đầu đơn vị đưa khối thuốc
nổ 960kg vào hầm ngầm của địch tại đồi A1.
Được phong tặng anh hùng ngày
07/5/1956
|
Lưu
Viết Thoảng
|
|
36
|
Nguyễn
Văn Thuần
|
Quảng
Ninh
|
1916
|
F312
|
Lập nhiều thành tích trong các chiến
dịch trước đó, chiến đấu nhiệt tình, hăng hái góp phần thắng lợi trên cứ điểm
đồi E1.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Nguyễn
Văn Thuần
|
|
37
|
Cao Xuân
Thọ
|
Thanh
Hóa
|
1926
|
Đội trưởng Đội phá bom, Đội 40 TNXP
|
Nhiều lần lặn suối phá bom, cùng đồng
đội phá hơn 100 quả bom, mìn các loại.
Được phong tặng anh hùng ngày
23/7/2014
|
Cao
Xuân Thọ
|
|
38
|
Nguyễn
Tiến Thụ
|
Bắc
Ninh
|
1934
|
Đội phó
Đội phá bom, Đội 40 TNXP
|
Là chiến sĩ phá bom, có nhiều sáng kiến
phá các loại bom, mìn, mở những tuyến đường chiến lược quan trọng, đảm bảo
giao thông luôn được thông suốt
Được phong tặng anh hùng ngày
23/7/2014
|
Nguyễn
Tiến Thụ
|
|
39
|
Lộc Văn
Trọng
|
Cao Bằng
|
1905
|
Tổng
cục hậu cần
|
Là chiến sĩ lái xe gan dạ, biết vượt
khó, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ, hoàn thành việc tải đạn và hàng hóa lên
Điện Biên.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Lộc
Văn Trọng
|
|
40
|
Phan
Tư
|
Nghệ
An
|
1931
|
Cục
công binh
|
Là chiến sĩ công binh có nhiệm vụ phá
bom, phá thác, trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã phá 30 thác đảm bảo giao thông
thông suốt cho thuyền, bè để vận chuyển vũ khí, hàng hóa.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Phan
Tư
|
|
41
|
Nguyễn
Văn Ty
|
Bắc
Giang
|
1931
|
F308
|
Chiến sĩ bộc phá gan dạ, dũng cảm, nhiều
lần bị thương những vẫn chiến đấu hết mình, góp phần vào chiến thắng trên cứ
điểm Độc Lập.
Được phong tặng anh hùng ngày
31/8/1955
|
Nguyễn
Văn Ty
|
|
Tổng
số 46 tên
|
V. Danh nhân, tướng lĩnh, anh hùng
lực lượng vũ trang, Bà Mẹ Việt Nam anh hùng
1. Các danh nhân trong lịch sử Việt
Nam
STT
|
Họ và tên
|
Tóm tắt thân thế, sự nghiệp
|
Tên
dự kiến đặt
|
1.
|
Chu Văn An
|
Chu Văn An (1292-1370),
quê quán xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội là một nhà giáo, thầy thuốc, đại
quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
Ông đỗ Thái học sinh nhưng
không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung. Ông có công lớn trong
việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông mời
ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy
cho Thái tử Trần Vượng. Đến đời Dụ Tông, ông
dâng Thất trảm sớ xin
chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng
Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học,
viết sách cho tới khi mất.
|
Chu
Văn An
|
2.
|
Đào Duy Anh
|
Đào Duy Anh (1904-1988), quê Khúc Thuỷ,
Hà Đông, Hà Nội. Năm 1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ Huỳnh Thúc
Kháng ra báo “Tiếng dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau Cách mạng tháng
8, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ, Giáo sư Đại
học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam
được ghi tên vào Bộ từ điển Larousse với tư cách là một Nhà bách khoa toàn
thư của thời hiện đại. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.
|
Đào
Duy Anh
|
3.
|
Nguyễn Bặc
|
Nguyễn Bặc (924- 980), là người động
Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Ninh Bình), Ông có nhiều công lao trong việc đánh dẹp
loạn 12 sứ quân giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ quân. Năm 968, Đinh Bộ
Lĩnh lên ngôi vua (Hoàng Đế Đinh Tiên Hoàng), ông được phong làm Định Quốc
công, trông coi việc nội chính. Năm Đinh Dậu, Định Quốc công Nguyễn Bặc được
vua Khải Định sắc phong là Hộ Quốc Tướng Công Trác Võ Thượng Đẳng Phúc Thần.
|
Nguyễn
Bặc
|
4.
|
Nguyễn Bính
|
Nguyễn Bính (1918-1966), là một
nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình, nhưng
mang một sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với Xuân Diệu, ông được
mệnh danh là “Vua thơ tình”. Ông là một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của
thi ca Việt Nam hiện đại và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật năm 2000.
|
Nguyễn
Bính
|
5.
|
Lương Văn Can
|
Lương Văn Can (1854-1927),
người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, đỗ cử nhân không ra làm quan,
là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động được chín
tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ kết án ông 10 năm biệt xứ sang
Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.
|
Lương
Văn Can
|
6.
|
Đội Cấn
|
Trịnh Văn Cấn
(1881-1918), quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) làm
đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị giam ở đó) giác
ngộ, phát động khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30-8-1917; bị Pháp đàn áp rút quân
vào rừng Vĩnh Yên, thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.
|
Đội
Cấn
|
7.
|
Trần Văn Cẩn
|
Trần Văn Cẩn (1910-1994),
quê Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham
gia tích cực các hoạt động hội họa phục vụ kháng chiến và giảng dạy; từng là
Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ
thuật Đức; để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em Thúy, Gội đầu, Xuống đồng …;
Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Trần
Văn Cẩn
|
8.
|
Huy Cận
|
Huy Cận (1919-2005), quê ở Ân Phú, huyện
Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của
phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban thanh tra đặc
biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III. Năm 2001, ông được bầu
là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông còn là thứ trưởng Bộ Văn
hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được Nhà nước phong tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và Huân chương Sao Vàng (2005)
|
Huy
Cận
|
9.
|
Nguyễn Đức Cảnh
|
Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), quê ở Thái
Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngày 28/7/1929,
thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 03/02/1930 là đại biểu Đông Dương
Cộng sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối 1930 được bầu
vào Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt xử chém.
Nguyễn Đức Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống hiến
đối với sự ra đời của tổ chức công đoàn và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
|
Nguyễn
Đức Cảnh
|
10.
|
Văn Cao
|
Văn Cao (1923-1995),
quê gốc ở huyện Vụ Bản, Nam Định nhưng sống ở Hải Phòng, là nhạc sĩ, họa sĩ,
nhà thơ nổi tiếng, tác giả Quốc ca Việt Nam. Ông sáng tác nhiều ca khúc cách
mạng nổi tiếng như Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Không
quân Việt Nam, Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà
Nội, Mùa xuân đầu tiên …
|
Văn
Cao
|
11.
|
Nam Cao
|
Nam Cao (1914-1951),
tên thật là Trần Hữu Tri, người làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam;
nhà văn hiện thực Việt Nam. Làm văn, viết báo từ năm 1936, tham gia Văn hóa
cứu quốc và gia nhập Việt Minh từ năm 1941; đi Nam tiến 1946 rồi lên chiến
khu Việt Bắc làm báo. Hy sinh trên đường vào công tác ở vùng địch hậu khu
III. Tác giả nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng: Chí Phèo, Sống mòn,
Đôi mắt, Chuyện biên giới.
|
Nam
Cao
|
12.
|
Lê Chân
|
Lê Chân quê xã An Biên, huyện Đông Triều
(Quảng Ninh). Nà đã tới An Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển trở thành
một trại ấp lớn là An Biên (nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang quân theo Hai
Bà Trưng để hợp sức đánh Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là
Thánh Chân Công chúa.
|
Lê
Chân
|
13.
|
Phan Bội Châu
|
Phan Bội Châu (1867 -1940),
quê xã Xuân Hòa, Nam Đàn, Nghệ An Năm 1900, ông
đỗ thủ khoa giải Nguyên trường Nghệ. Năm 1904, ông thành lập hội Duy Tân chủ
trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp. Năm
1905, ông tổ chức cho 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập.
Năm 1911, ông đã thành lập “Việt Nam quang phục hội”, mà tôn chỉ duy nhất là
“đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam”. Hội cử người về nước hoạt
động đã gây nên một số vụ bạo động vũ trang nhằm lay tỉnh hồn nước. Năm 1925,
Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc đem về nước, bị đưa ra tòa án đề binh Hà
Nội xét xử. Nhân dân cả nước đã bùng nổ phong trào “bãi khóa, bãi công, bãi
thị”. Thực dân Pháp buộc phải tha bổng, song chúng đem ông về Huế an trí,
sống trong cảnh “cá chậu, chim lồng”, ông vẫn vươn lên, hy vọng tiếp tục hoạt
động yêu nước. Ngày 29/10/1940, ông mất tại nhà tranh ở dốc Bến Ngự - Huế.
|
Phan
Bội Châu
|
14.
|
Mạc Đĩnh Chi
|
Mạc Đĩnh Chi (1272-1346),
quê ở Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; đỗ trạng nguyên đời Trần.
Ông thông minh, tài trí từ nhỏ, làm quan thanh liêm qua ba đời vua Trần, hai
lần đi sứ nhà Nguyên , nổi tiếng với bài phú Ngọc tỉnh liên ví mình như đóa
sen trong giếng ngọc.
|
Mạc
Đĩnh Chi
|
15.
|
Nguyễn Chích
|
Nguyễn Chích (1382-1448),
ông là người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là danh tướng trong
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là trọng thần giữ phần đất phía Nam của triều Lê
sơ, được cho theo họ vua, nên cũng gọi là Lê Chích. Cuối đời Trần, quân Minh
xâm chiếm nước ta, ông chiêu tập nghĩa quân hơn 1000 người, đắp lũy trong
vùng động Hoàng Nghêu làm căn cứ kháng chiến. Sau ông giúp Lê Lợi, làm Nội
thiếu úy, công trận rất nhiều, từng hiến nhiều kế sách rất hay, thu đạt thắng
lợi. Cuối năm 1427, ông cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đánh tan quân Mộc Thạnh
ở Lê Hoa.. Cho đến đời nhà Nguyễn, các triều vua vẫn tưởng niệm, liệt ông vào
công thần khai quốc nhà Hậu Lê.
|
Nguyễn
Chích
|
16.
|
Nguyễn Đình Chiểu
|
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), quê ở
Phong Điền, Thừa Thiên - Huế; tục gọi là Đồ Chiểu, xuất thân trong gia đình nhà
nho. Ông là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ
19. Ông làm nghề dạy học, làm thuốc và đem
ngòi bút yêu nước của mình phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa. Ông là người
thầy mẫu mực, là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị:
Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…
|
Nguyễn
Đình Chiểu
|
17.
|
Phó Đức Chính
|
Phó Đức Chính
(1908-1930), quê ở làng Đa Ngưu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên; một
trong những người cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc
khởi nghĩa tháng 2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Thông (Sơn Tây), nhưng
không thành. Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết án tử hình. Ông bị xử
chém cùng với thủ lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại Yên Bái ngày
17/6/1930.
|
Phó
Đức Chính
|
18.
|
Phan Huy Chú
|
Phan Huy Chú (1782-1840),
quê gốc Hà Tĩnh, chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có thực tài, hay chữ, mở trường dạy
học và soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ
nhà Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam
rồi bị cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền sang Nam Dương quần đảo. Tác giả
nhiều sách giá trị: Lịch triều hiến chương loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí,
Hoa thiều ngâm lục.
|
Phan
Huy Chú
|
19.
|
Võ Chí Công
|
Võ Chí Công (1912-2000), quê ở xã Tam
Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương
năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam. Từ 1945 - 1976 ông
tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Ban tổ chức
cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu 5, Phó bí thư Trung ương
cục, Phó chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 - 1991, ông được bầu làm Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1992, ông được Nhà
nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.
|
Võ
Chí Công
|
20.
|
Lương Định Của
|
Lương Định Của (1918-1975),
quê ở Sóc Trăng, tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở
thành tiến sĩ thứ 96 của Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện
Nghiên cứu canh nông, rồi ra chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống
hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền
khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm Viện trưởng Viện cây lương thực và thực
phẩm, được phong Anh hùng lao động.
|
Lương
Định Của
|
21.
|
Hồ Đắc Di
|
Hồ Đắc Di (1900-1984),
là bác sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm
hiệu trưởng trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Kháng chiến, ông theo
Chính phủ Cụ Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường Đại học Y của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc nhiều cán bộ y
tế giỏi. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu trưởng trường
Đại học Y khoa. Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Hồ
Đắc Di
|
22.
|
Đoàn Thị Điểm
|
Đoàn Thị Điểm (1705-1748),
hiệu “Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã
hay chữ, từng lên Thăng Long dạy cung nữ trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn
Kiều, tiến sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ).
Bà là tác giả Truyền kỳ tân phả và dịch giả Chinh phụ ngâm.
|
Đoàn
Thị Điểm
|
23.
|
Xuân Diệu
|
Tên khai sinh là Ngô
Xuân Diệu (1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; tham gia phong trào Việt
Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà
văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian; năm 1983 được bầu
là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ,
nhà văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được
xem là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học
xuất sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê
bình văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt về
các nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông
được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật và nhiều giải
thưởng cao quý khác.
|
Xuân
Diệu
|
24.
|
Hoàng Diệu
|
Hoàng Diệu (1832-1882),
quê ở Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà
Nội - Ninh Bình). Pháp đánh thành Hà Nội (25-4-1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc
chiến đấu tới cùng. Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết. Tượng
đồng của ông và Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành Hà Nội để ghi
nhớ hai ông đã hy sinh chống Pháp.
|
Hoàng
Diệu
|
25.
|
Nguyễn Thị Định
|
Nguyễn Thị Định (1920-1992), quê ở xã
Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng
chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng làm việc ở Bộ Tư lệnh
miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam (1965-1975).
Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng. Bà được Nhà nước truy tặng danh
hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
Nguyễn
Thị Định
|
26.
|
Trương Định
|
Trương Định (1820-1864) quê ở Gò
Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh chống Pháp giai
đoạn 1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành
Gia Định, ông đánh thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây Mai, Thị
Nghè... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương
Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ
chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công,
trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực
lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ
Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên
giới Campuchia.
|
Trương
Định
|
27.
|
Trần Hưng Đạo
|
Trần Hưng Đạo (1232-1300),
quê ở Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định,
còn gọi là Trần Quốc Tuấn hương Tức - Mặc, phủ Thiên - Trường, được phong ấp
ở hương Vạn-kiếp, thuộc huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng - Giang. Ông
có học vấn rất uyên bác, vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược,
cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo. Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước
ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau,
trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba
(1287 -88), ông lại được đề bạt làm tiết chế thông lĩnh toàn quân và đã giành
thắng lợi lẫy lừng. Trần Hưng Đạo đã đề ra đường lối quân sự ưu việt, có tính
chất nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rut lui chiến lược khỏi Kinh thành
Thăng - Long, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch - Đằng. Bên cạnh tư
tưởng quân sự kiệt xuất, ông còn có nhiều tác phẩm như Binh gia diệu lý yếu
lược (còn gọi là binh thư yếu lược) và Vạn-kiếp tông bí truyền thư, nhưng văn
bản nay đều đã gần như thất lạc. Tác phẩm thứ ba duy nhất còn giữ được của
ông là bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, vẫn quen gọi là Hịch tướng sĩ. Bài hịch
chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của
ông.
|
Trần
Hưng Đạo
|
28.
|
Nguyễn Đăng Đạo
|
Nguyễn Đăng Đạo (1651- 1719) quê xã Liên Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh,
ông được mệnh danh là lưỡng quốc trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử
Việt Nam được cả Việt Nam và Trung Quốc công nhận, ông có tài đối ứng và có
nhiều công lao trong việc xây dựng đất nước và giữ gìn ổn định trên biên giới
với các nước láng giềng.
|
Nguyễn Đăng Đạo
|
29.
|
Trần Thủ Độ
|
Trần Thủ Độ (1194-1264),
quê huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều Trần bằng cách buộc Lí Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân vật trụ cột của triều đình,
có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất với câu
nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; được truy tặng Thượng
phụ Thái sư Trung vũ Đại vương.
|
Trần
Thủ Độ
|
30.
|
Lê Quý Đôn
|
Lê Quý Đôn
(1726-1784), quê ở thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Ông là con tiến sĩ Lê Phú Thứ, nổi tiếng thần đồng, ông có trí nhớ lạ lùng,
tài ứng đối mau lẹ, 14 tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học, sau
đó đỗ đầu các kỳ thi Hội và thi Đình. Khi mất ông được truy phong là
thượng thư Bộ công. Về chính trị, Lê Qúy Đôn thi hành những cải cách, thiết
định lại pháp chế, chăm lo đời sống kinh tế, làm cho dân giầu - nước mạnh, xã
hội đạt đến mức thái bình - thịnh trị. Về văn hoá và văn học, Lê Qúy Đôn đọc
sách và chuyên tâm viết sách. Tài năng, đức độ, trí tuệ, phong cách của Lê
Quý Đôn xứng danh là nhà Bác học lớn của Việt Nam. Lê Quý Đôn đã để lại khối
lượng tác phẩm đồ sộ, bao quát hầu hết các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn
hoá, địa lý, nông học... Ở lĩnh vực nào, Lê Quý Đôn cũng nêu cao tinh thần
độc lập, sáng tạo và ý thức tự tôn - tự cường dân tộc.
|
Lê Quý Đôn
|
31.
|
Kim Đồng
|
Anh hùng Nông Văn Dền
(tức Kim Đồng, 1929 - 1943) quê ở Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng là người dân tộc Tày. Sinh trưởng trong chiếc nôi cách mạng, khi còn
nhỏ Kim Đồng đã sớm giác ngộ và vận động các bạn cùng lứa tuổi trong bản làm
nhiệm vụ liên lạc, chuyển công văn, tài liệu, đưa đón cán bộ, trinh sát nắm
tình hình địch để cung cấp cho cán bộ. Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim Đồng
được giao nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng. Địch
phát hiện và cho một lực lượng lớn bao vây hòng bắt sống các đồng chí lãnh
đạo của Đảng. Trước tình thế nguy hiểm, Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc hướng,
lừa địch tập trung lực lượng và hỏa lực về phía mình, đồng thời phát tín hiệu
báo cho các đồng chí cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi
ở tuổi 14 và trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi
theo. Tháng 5/1941, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội thiếu niên cứu
quốc Kim Đồng là một trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội
trưởng Đội thiếu niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện trí thông minh, lòng dũng
cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
|
Kim
Đồng
|
32.
|
Phạm Văn Đồng
|
Phạm Văn Đồng (1906-2000), quê ở xã
Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, năm 1926-1929, ông gia nhập Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau đó, ông
bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù ở Côn Đảo. Ông đảm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng: Bộ trưởng Tài chính, Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (1955 - 1976), Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
(1976-1987). Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương
khác của Liên Xô, Lào, Campuchia, Cuba…
|
Phạm
Văn Đồng
|
33.
|
Nguyễn Du
|
Nguyễn Du (1765-1820), xuất thân trong
một gia đình quý tộc tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhiều đời
làm quan dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Du đã để lại một di sản văn
chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được
sự hoàn thiện. Trong đó nổi tiếng nhất là kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường
tân thanh) gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184
câu viết theo thể song thất lục bát. Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc
với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện
thực mạnh mẽ, sắc bén. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn
học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu
Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.
|
Nguyễn
Du
|
34.
|
Khúc Thừa Dụ
|
Khúc Thừa Dụ, quê ở Ninh Giang, tỉnh
Hải Dương, năm 905 nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta suy yếu,
ông tự xưng là Tiết độ xứ, cùng với nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khúc
Thừa Dụ đã kết thúc cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến
phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là một trong những người
đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc.
|
Khúc
Thừa Dụ
|
35.
|
Lê Duẩn
|
Lê Duẩn (1907-1986), quê ở làng
Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1930, gia nhập
Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt, bị giam tại các
nhà tù: Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo. Từ 1946 - 1957, ông từng giữ các chức vụ: Bí
thư Xứ uỷ Nam Bộ và được phân công lãnh đạo cách mạng miền Nam. Năm 1982, ông
được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, giữ chức Tổng Bí thư
đến khi mất. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân
chương khác.
|
Lê
Duẩn
|
36.
|
Trịnh Hoài Đức
|
Trịnh Hoài Đức (1765-1825),
còn có tên là Hoài An, tự là Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, quê tỉnh Biên Hòa (nay
thuộc Đồng Nai), đỗ khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn, làm quan tới
chức Thượng thư Bộ hộ, Hiệp Tống trấn thành Gia Định, từng đi sứ sang triều
Thanh; là nhà văn, nhà địa lí, tác giả của Gia Định thành thông chí. Về sáng
tác, Trịnh Hoài Đức là một đại biểu xuất sắc trong nhóm “Gia Định Tam gia
thi” hay “Bình Dương thi xã” (cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh), có
tác dụng kích thích phát triển cho một vùng văn hóa. Ông còn để lại hai tập
thơ chữ Hán là Cấn Trai thi tập (1783-1819) và tập thơ đi sứ Trung Quốc Bắc
sứ thi tập.
|
Trịnh
Hoài Đức
|
37.
|
Văn Tiến Dũng
|
Văn Tiến Dũng (1917-2002), quê ở xã
Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ 1942 - 1943, ông đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bí
thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Uỷ viên Thường vụ Uỷ ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ; Tổng
Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài
Gòn - Gia Định; Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1978 -
1986). Ông được phong hàm Đại tướng năm 1974, được Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Sao Vàng (1992), Huân chương Hồ Chí Minh.
|
Văn
Tiến Dũng
|
38.
|
Lò Văn Giá
|
Lò Văn Giá (1919-1943), quê ở bản Cọ,
thị xã Sơn La, Tỉnh Sơn La trong một gia đình nông dân nghèo, dân tộc Thái.
Với lòng yêu nước, căm thù chế độ thực dân sâu sắc, thanh niên Lò Văn Giá sớm
đón nhận ánh sáng cách mạng của Đảng được lan tỏa từ Nhà tù Sơn La. Tháng 8 -
1943, chi bộ Nhà tù quyết định tổ chức vượt ngục cho một số tù chính trị cốt
cán để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Lò Văn Giá đã được chọn làm người
đưa đường cho cuộc vượt ngục của 4 đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương
Bằng, Nguyễn Văn Trân và Lưu Đức Hiểu. Khi quay lại Sơn La, Lò Văn Giá đã bị
thực dân Pháp bắt. Mặc dù bị tra tấn dã man, nhưng Lò Văn Giá vẫn nhất mực
không khai nên chúng đã lén lút thủ tiêu ông. Lò Văn Giá đã được Đảng, Nhà
nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày
20/12/1994.
|
Lò
Văn Giá
|
39.
|
Võ Nguyên Giáp
|
Võ Nguyên Giáp
(1911- 2013), nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Việt
Nam, nguyên Bí thư Quân uỷ Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng thường trực Chính
phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam, Đại biểu
Quốc hội từ khoá I - khoá VII; Đại tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam. Sinh ra
trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước ở Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ,
Quảng Bình. Năm 14 tuổi, đồng chí đã giác ngộ và sớm tham gia hoạt động cách
mạng. Năm 1930, đồng chí tham gia phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Năm 1940,
được kết nạp vào Đảng. Đầu những 40 của thế kỷ XX, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
dìu dắt, giao nhiệm vụ, đồng chí đã tích cực hoạt động cách mạng, bám dân,
bám địa bàn, xây dựng cơ sở, mở lớp huấn luyện quân sự tại căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.
Tháng 12/1944, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội
Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của QĐND Việt Nam.
Năm 1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng. Trên các cương vị là Uỷ
viên Ban Chấp hành TW, Thường vụ TW Đảng Cộng sản Đông Dương, thành viên Uỷ
ban khởi nghĩa toàn quốc, thành viên Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Tư
lệnh Việt Nam giải phóng quân, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào
thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong 9 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến
dịch quan trọng. Đặc biệt, năm 1954, đồng chí đã chỉ huy các đại đoàn của
Quân đội và các lực lượng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại
đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sau khi miền Bắc được giải
phóng, đồng chí đã tham gia cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân
tiến hành xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ, làm nên những thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến
dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một
mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với tài năng quân sự kiệt xuất và
những đóng góp vĩ đại cho quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được báo
chí thế giới ca ngợi là “vị tướng huyền thoại”, sánh cùng các vĩ nhân trong
suốt 2.000 năm qua.
|
Võ
Nguyên Giáp
|
40.
|
Trần Văn Giàu
|
Trần Văn Giàu (1911-2010), quê ở An
Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An ông là nhà hoạt động cách mạng, khoa
học, nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Ông được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Tổng
giám đốc Nha thông tin Bộ nội vụ, là người sáng lập ra giải thưởng Trần Văn
Giàu năm 2002. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Danh
hiệu Nhà giáo dân nhân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Giải thưởng Hồ Chí
Minh đợt I (1996).
|
Trần
Văn Giàu
|
41.
|
Nguyễn Giác Hải
|
Nguyễn Giác Hải (1022-?), quê ở huyện
Nam Trực, tỉnh Nam Định. Năm 25 tuổi, ông cắt tóc đi tu; tinh thông pháp đạo,
được vua Lý sủng thờ. Ngài có đóng góp vào hệ tư tưởng Việt Nam, đặc biệt
trong lĩnh vực giữa đạo và đời; được coi là ông tổ thứ 10 trong phái thiền Vô
- Ngôn - Thông.
|
Nguyễn
Giác Hải
|
42.
|
Dương Quảng Hàm
|
Dương Quảng Hàm (1898-1946),
quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông dạy
học 25 năm ở trường Trung học Bảo hộ (Bưởi). Sau Cách mạng tháng Tám làm Tổng
thanh tra Trung học vụ, Hiệu trưởng trường Chu Văn An. Giáo sư đi tiên phong
trong xây dựng nền văn học sử nước nhà. Tác giả bộ sách quý Việt Nam văn học
sử yếu (1942). Ông hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng
chiến ở Hà Nội (12/1946) và được truy tặng là liệt sĩ.
|
Dương
Quảng Hàm
|
43.
|
Trần Nguyên Hãn
|
Trần Nguyên Hãn (1420-1429): người
làng Sơn Động, huyện Lập Thạch (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), dòng dõi nhà Trần.
Ông vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, làm tướng lập nhiều
công lớn, thu phục vùng Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan tham gia
đánh thắng trận Xương Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ. Bình
công được phong Tả tướng quốc (1428). Sau bị vua Lê nghi ngờ, ông nhảy xuống
sông tự vẫn, 26 năm sau mới được Lê Nhân Tông minh oan.
|
Trần
Nguyên Hãn
|
44.
|
Từ Đạo Hạnh
|
Từ Đạo Hạnh (1072-1117), quê ở làng
An Lãng, Hà Nội tên thật Từ Lộ, ông là nhà sư thuộc thế hệ thứ 12 dòng thiền Nam
phương, môn phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ông đã sang Ấn Độ học đạo Phật. Ông được
xem là vị tiền bối của nghệ thuật hát chèo. Ông là người dựng chùa Đại Bi, xã
Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định để tu hành.
|
Từ
Đạo Hạnh
|
45.
|
Quốc sư Vạn Hạnh
|
Quốc sư Vạn Hạnh, quê ở Từ Sơn, Bắc
Ninh là vị thiền sư đời Tiền Lê. Ông thường quan tâm đến những biến cố chính trị,
quân sự đương thời. Vua Lê Đại Hành coi ông như cố vấn. Khi vua Lê Đại Hành
mất, ông đã giúp Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông được Lý Công Uẩn phong làm Quốc sư.
|
Quốc
sư Vạn Hạnh
|
46.
|
Tô Hiệu
|
Tô Hiệu
(1912-1944), quê làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên; tham
gia các phong trào yêu nước từ năm 1925. Năm 1930, bị bắt và bị đày ra Côn
Đảo; tại đây, ông trở thành đảng viên Cộng sản. Năm 1934 ra tù, hoạt động Mặt
trận Dân chủ ở Hà Nội, rồi ra vùng mỏ Cẩm Phả chỉ đạo phong trào công nhân;
được cử làm Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy Hải Phòng.
Tháng 12/1939, ông lại bị Pháp bắt, giam lại nhà tù Sơn La. Do bị tra tấn, tù
đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng, qua đời ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La, nêu
cao khí tiết của người Cộng sản.
|
Tô
Hiệu
|
47.
|
Lê Hoàn
|
Lê Hoàn (941-1005), quê
ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Ông không chỉ là một vị vua có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền
độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng
và kiến tạo đất nước đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều
kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả
năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên
phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội.
|
Lê
Hoàn
|
48.
|
Trần Hoàn
|
Trần Hoàn (1928-2003), tên thật là Nguyễn
Tăng Hích, còn có bút danh Hồ Thuận An. Ông nguyên là Bộ trưởng Văn hóa -
Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương. Ông tham gia hoạt động âm
nhạc trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp
sáng tác, ông để lại những tác phẩm nổi tiếng như: Một mùa xuân nho nhỏ, Chào
mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ
Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Ghi nhận những đóng góp to lớn của ông,
Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ
Chí Minh về Văn học nghệ thuật và nhiều Huân, Huy chương, giải thưởng cao quý.
|
Trần
Hoàn
|
49.
|
Đinh Tiên Hoàng
|
Đinh Tiên Hoàng (924-979), quê ở xã
Gia Phương, Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh,
nước Đại Cổ Việt trong lích sử Việt Nam. Ông là người có công đánh dẹp loạn
12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam
sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cổ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập,
tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.
|
Đinh
Tiên Hoàng
|
50.
|
Nguyễn Thái Học
|
Nguyễn Thái Học (1902-1930), quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh
Phúc năm 1927 tại Nam Đồng Thư xã (Hà Nội),
ông đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng theo chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên. Tức là phấn đấu: Dân tộc độc lập - Dân quyền
tự do - Dân sinh hạnh phúc. Đường lối chiến lược của Đảng là: Trước làm cách
mạng Quốc gia, sau làm cách mạng Thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn Việt
Nam Quốc dân Đảng đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp các tỉnh ở Bắc kỳ, do
tổ chức thiếu chặt chẽ nên cuộc vận động quần chúng của Việt Nam Quốc dân Đảng
gặp nhiều trở ngại. Trước tình hình đó Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của
mình chủ trương bạo động cách mạng với phương châm: “Không thành công thì thành
nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn
Thái Học, phong trào bạo động chống Pháp ở các tỉnh đã nổ ra mà đỉnh cao là
khởi nghĩa Yên Bái vào đêm 9, rạng ngày 10/2/1930. Việt Nam Quốc dân Đảng và
khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong bể máu. Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bị
giặc Pháp bắt và hành hình. Phong trào bị dập tắt. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã
được Chính phủ truy tặng Liệt sỹ và bằng Tổ quốc ghi công.
|
Nguyễn Thái Học
|
51.
|
Nguyễn Hiền
|
Nguyễn Hiền, quê xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là trạng
nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa thi của nước ta, ông có nhiều kế sách
hay phò vua, giúp nước, đối phó với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La.
Ông mộ dân đi khai hoang phục hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước,
tạo mùa màng thắng lợi, nhân dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng
rèn vũ khí, các võ đường rèn luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm
lược.
|
Nguyễn Hiền
|
52.
|
Nguyễn Huệ
|
Nguyễn Huệ (1752-1792), quê ở Tây Sơn,
Bình Định, năm 1771, ông cùng hai anh là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ phất cờ
khởi nghĩa. Năm 1777, nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn làm căn cứ
địa tiến công giải phóng Đàng Trong. Sau bốn lần giải phóng Gia Định, Nguyễn
Huệ đã tiêu diệt hai vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện tại Rạch Gầm, Xoài
Mút ngày 18-01-1785 đập tan chính quyền phong kiến ở Đàng Trong. Năm 1786,
Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Bắc Hà và mau chóng lật đổ tập đoàn phong kiến họ
Trịnh thống trị đã ba trăm năm, lập lại nhà Lê. Mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789, với
cuộc hành quân thần tốc, ông đập tan và quét sạch hai mươi vạn quân Thanh ra
khỏi bờ cõi, giải phóng Miền Bắc ra khỏi ách xâm lược. Nguyễn Huệ đã phá tan
mọi âm mưu câu kết của các thế lực phản động trong nước và nước ngoài, chuẩn
bị kế hoạch tiến đánh Nguyễn Ánh đang quấy phá ở Gia Định. Nguyễn Huệ là một
anh hùng dân tộc, không những ông là một thiên tài quân sự mà còn xuất sắc về
chính trị, ngoại giao, kinh tế...
|
Nguyễn
Huệ
|
53.
|
Phạm Hùng
|
Phạm Hùng (1912-1988), tên thật là Phạm
Văn Thiện, quê ở xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1930, ông
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945, ông được bầu làm Bí thứ
Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ. Từ 1956 - 1975, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí
thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bí thư Trung ương
Cục Miền Nam. Từ 1976 - 1987, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ
Nội vụ, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
|
Phạm
Hùng
|
54.
|
Phùng Hưng
|
Phùng Hưng, quê ở làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, trước sự tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, khoảng năm 766 - 791,
Phùng Hưng cùng với người em Phùng Hãi phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống
chính quyền đô hộ. Phùng Hưng lãnh đạo nghĩa quân làm chủ đất Đường Lâm và cả
một vùng rộng lớn, chiếm được thành phủ Tống Bình - cơ quan đầu não của bọn
đô hộ nhà Đường.
|
Phùng
Hưng
|
55.
|
Hồ Xuân Hương
|
Hồ Xuân Hương được
người đời mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sinh sống ở phường Khán Xuân, thành
Thăng Long vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Bà quê gốc ở làng Quỳnh
Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; giỏi thơ Nôm và có tài trào lộng, châm biếm, mang
phong cách riêng biệt khác người, nhiều bài thơ Nôm được truyền tục rộng rãi
trong dân gian.
|
Hồ
Xuân Hương
|
56.
|
Lê Văn Hưu
|
Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ
- Lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh - Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đỗ bảng
nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái
Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện
giám tu. Năm 1272 ông soạn xong bộ Đại-việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu
Hoàng. Đó là bộ sử ký qui mô đầu tiên của nước ta, đã được Trần Thánh Tông
ban chiếu khen. Nhưng đáng tiếc hiện nay bộ sách đã thất lạc, chỉ còn một ít
lời bình được Ngô Sĩ Liên ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một
sử gia có lòng yêu nước, có cách nhìn tiến bộ đối với nhiều sự kiện lịch sử
đương thời, bộ sử của ông đã đóng góp rất nhiều cho Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
của Ngô Sĩ Liên và đã để lại cho chúng ta nhiều nhận định quý báu về các sự
kiện lịch sử cũng như những đoạn bình luận giàu tính chất văn học.
|
Lê Văn Hưu
|
57.
|
Tố Hữu
|
Tố Hữu (1920-2002), quê ở xã Quảng Tho,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ông là một tác gia có vị trí đặc biệt
quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Năm 1938,
ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Ông đảm trách nhiều chức vụ: Phó Tổng thư
ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha tuyên truyền và văn nghệ thuộc Thủ
tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó chủ tịch Hội liên hiệp Văn học
nghệ thuật Việt Nam, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng…Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ
thuật (1996), Huân chương Sao Vàng (1994), Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái
Lan (1996).
|
Tố
Hữu
|
58.
|
Nguyễn Văn Huyên
|
Nguyễn Văn Huyên (1908-1975):
hiệu Huy Vân, sinh tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà
Đông (nay là Hà Nội); tiến sĩ văn khoa, cử nhân luật, giáo sư sử học, từng
làm Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ (1945), Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1946-1975);
Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; sáng lập Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam; để lại nhiều tác phẩm nghiên cứu văn, sử. Ông là người Việt Nam đầu
tiên đỗ tiến sĩ khoa văn trường đại học Xoóbon (Pháp).
|
Nguyễn
Văn Huyên
|
59.
|
Nguyễn Thị Minh Khai
|
Nguyễn Thị Minh Khai
còn có tên là Vịnh, quê gốc ở làng Mọc Quan Nhân (nay là phường Nhân Chính,
quận Thanh Xuân), sinh tại thành phố Vinh. Năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông
Dương, phụ trách vận động vùng Trường Thi - Bến Thủy rồi sang công tác ở văn
phòng Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản tại Hương Cảng, bị chính quyền Quốc
dân đảng Trung Quốc bắt giam (1931-1934). Năm 1935, là đại biểu Đại hội VII
Quốc tế Cộng sản ở Matxcơva, làm bạn đời với Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, 1936
về nước, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, chỉ đạo
khởi nghĩa Nam Kỳ và bị bắt, Pháp xử bắn bà tại Hóc Môn.
|
Nguyễn
Thị Minh Khai
|
60.
|
Trần Quang Khải
|
Trần Quang Khải
(1241-1294): Trần Quang Khải, con thứ ba của Thái Tông Trần Cảnh,
em ruột vua Trần Thánh Tông, làm tới chức Thượng tướng Thái sư; đảm nhận việc
ngoại giao trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, trực tiếp chỉ huy trận thắng
ở Chương Dương (1285); tác giả bài Tụng giá hoàn kinh sư nổi tiếng. Trần
Quang Khải có học lực cao, sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc, bộc lộ hào khí
của thời đại đất nước hưng thịnh, đồng thời lại chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ
phong phú, gắn bó với thiên nhiên. Tập thơ Lạc đạo tập chỉ còn sót lại hơn mười
bài, có bài nổi tiếng.
|
Trần
Quang Khải
|
61.
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947):
nhà chí sĩ, nhà văn, quê huyện Thăng Bình (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng
Nam, Đỗ hoàng giáp, không ra làm quan, đứng đầu phong trào Duy Tân ở Trung kỳ
đầu thế kỷ XX. Phong trào chống sưu thuế nổ ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn
Đảo 13 năm, trở về là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, làm báo Tiếng dân.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Bộ trưởng Nội vụ, quyền Chủ tịch nước khi
Bác Hồ sang Pháp, sáng lập và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam.
Tác giả các sách Thi tu tùng thoại, Thi tù thảo, Trung Kỳ cựu sưu ký.
|
Huỳnh
Thúc Kháng
|
62.
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491-1585),
quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, làm quan đến Tả Thị
lan Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau tám năm làm quan ông đã lui về ở ẩn,
lập am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông mở trường dạy học bên
cạnh sông Hàn, sông ấy còn có tên Tuyết Giang, vì thế học trò tôn xưng là Tuyết
Giang Phu Tử. Học trò của ông rất đông và rất nhiều người trở thành nhân tài
của nước như Trạng nguyên Giáp Hải, Phùng Khắc Khoan…Ông được phong tước
Trình Quốc Công, hàm thượng thư bộ lại hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch
Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi
(khoảng 170 bài). Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên
những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát luật đời bằng
những phạm trù triết học.
|
Nguyễn
Bỉnh Khiêm
|
63.
|
Phùng Khắc Khoan
|
Phùng Khắc Khoan
(1528-1613): người làng Bùng (Phùng Xã), huyện Thạch Thất, nay thuộc
Hà Nội; nổi tiếng thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, quen gọi là
Trạng Bùng. Năm 1550 vào Thanh phù Lê, diệt Mạc. Đỗ hoàng giáp (1580), làm
quan thượng thư Bộ Hội, Bộ Công triều Lê; đi sứ sang nhà Minh (1597), lý lẽ
cứng cỏi. Ông còn là nhà thơ, tác giả tập thơ Nôm Lâm tuyền văn, miêu tả các
loài cây cỏ. Ông đem nghề dệt dạy cho dân vùng quê ông.
|
Phùng
Khắc Khoan
|
64.
|
Nguyễn Khoái
|
Nguyễn Khoái (Chưa
rõ năm sinh, năm mất): Thế kỷ XIII, sinh trưởng ở đất Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên,
có sức khoẻ phi thường, được vua Trần giao trọng trách chỉ huy quân túc vệ,
tham gia các trận đánh giặc Mông-Nguyên ở Tây Kết, Hàm Tử, Bạch Đằng... có
tài thiện chiến trên bộ, dưới nước; lập chiến công lớn, giải phóng kinh đô Thăng
Long. Ông được vua Trần thưởng công và phong làm “Liệt hầu” - Là tước thời
Trần chỉ để dùng để ban cho người trong hoàng tộc.
|
Nguyễn
Khoái
|
65.
|
Nguyễn Khuyến
|
Nguyễn Khuyến (1835-1909):
hiệu Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tam
trường nên gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Làm quan triều Nguyễn ở nhiều nơi, sau
tới chức Học sĩ sung Quốc sử quán Toản tu. Triều Nguyễn đầu hàng Pháp, ông
cáo quan về quê. Nhà thơ hiện thực và trào lộng nổi tiếng, để lại nhiều thơ
hay.
|
Nguyễn
Khuyến
|
66.
|
Phùng Chí Kiên
|
Phùng Chí Kiên (1901-1941),
tên thật là Nguyễn Vĩ, quê xã Mỹ Quang Thượng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An,
được giác ngộ cách mạng rất sớm. Năm 1926 ông sang Quảng Châu dự huấn luyện do
Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi theo học trường Võ bị Hoàng Phố, gia nhập quân cách
mạng Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu (12/1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc
lãnh đạo. Năm 1931 học Đại học Phương Đông (Liên Xô). Năm 1934 tham gia chuẩn
bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Năm 1935 được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936 vận động thành lập
Việt Nam Độc lập đồng minh hội ở Trung Quốc.Năm 1941 cùng với Chủ tịch Hồ Chí
Minh về Pắc Bó, chỉ đạo căn cứ Bắc Sơn (Cao Bằng), chỉ huy trung đội cứu quốc
quân số 1. Ông bị Pháp bắt và giết hại ở Ngân Sơn tháng 8/1941, sau được truy
phong quân hàm cấp tướng.
|
Phùng
Chí Kiên
|
67.
|
Lý Thường Kiệt
|
Lý Thường Kiệt (1019-1105), họ Ngô tên
Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh tại Phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà Nội). Từ
nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu binh thư, luyện tập võ
nghệ. Ông có tài văn, võ. Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống bình
Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Lịch sử cũng đã lưu lại tư tưởng
quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng
đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông là tác giả bài thơ bất hủ
“Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta.
Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc. Bài
thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất.
|
Lý
Thường Kiệt
|
68.
|
Võ Văn Kiệt
|
Võ Văn Kiệt (1922-2008), quê ở xã Trung
Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu. Từ
1976 - 1982, ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân TP.HCM, Bí thư Thành
uỷ TP.HCM. Từ 1982 - 1988: Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh… Năm 1997, ông được Nhà nước trao
tặng Huân chương Sao Vàng.
|
Võ
Văn Kiệt
|
69.
|
Yết Kiêu
|
Yết Kiêu tên
thật là Phạm Hữu Thế quê ở huyện Thanh Hà, Hải Dương, do trải cuộc sống trên
sông nước từ nhỏ nên ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội "nhập thuỷ
như phúc bình địa hỹ" (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng)
đã lập nhiều chiến công đóng góp cho chiến thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã
được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày
xưa).
|
Yết Kiêu
|
70.
|
Trương Vĩnh Ký
|
Trương Vĩnh Ký (1837-1898), quê
ở huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Ông là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học,
nhà giáo dục học, khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Ông
được phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, là nhà bác học hàng đầu thế giới thế kỷ 19. Ông được
coi là "ông tổ nghề báo Việt Nam", sáng lập và là Tổng biên tập tờ Gia Định báo.
|
Trương
Vĩnh Ký
|
71.
|
Cù Chính Lan
|
Cù Chính Lan (1930-1952),
quê xã Quỳnh Lôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; trong chiến dịch Quang Trung
(1950) được nêu gương “Anh hùng tay không diệt giặc”. Chiến dịch Hòa Bình
(1951), anh dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường số 6 năm 1952, anh tham
gia đánh đồn Gô Tô, bị cụt hai tay và một chân vẫn anh dũng chỉ huy đến hơi
thở cuối cùng. Được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
Cù
Chính Lan
|
72.
|
Ỷ Lan
|
Nguyên phi Ỷ Lan (1044-1117), quê ở
Gia Lâm, Hà Nội, tên thật là Lê Thị Yến, là một trong những danh nhân có tài trị
nước của dân tộc. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, Ỷ Lan trở thành Hoàng thái
hậu nhiếp chính. Bà cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt lãnh đạo nhân dân đánh tan
quân Tống xâm lược, xây dựng đất nước yên bình, giàu mạnh.
|
Ỷ
Lan
|
73.
|
Lê Lai
|
Lê Lai quê ở xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc,
Thanh Hoá ông tính cương trực, dung mạo khác thường, có chí khí. Ông hy sinh khi
giả làm Lê Lợi để phá vòng vây cho chủ tướng và nghĩa quân Lam Sơn rút khỏi
núi Chí Linh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được truy tặng là Sùng
Trung đồng Đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần. Năm 1484, Lê Thánh
Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.
|
Lê
Lai
|
74.
|
Phạm Ngũ Lão
|
Phạm Ngũ Lão (1255-1320),
quê ở làng Phủ Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên;
một nông dân, ham học, có ý chí, tình nguyện tham gia quân đội đánh giặc
ngoại xâm, chỉ huy quân cấm vệ của Trần Hưng Đạo; lập nhiều chiến công trong
hai lần chống Nguyên - Mông (1285-1288), sau còn đi dẹp loạn quấy phá biên
giới Lão Qua và Chiêm Thành ở phía Nam, trở thành danh tướng đời Trần, được
phong tước Quan nội hầu.
|
Phạm
Ngũ Lão
|
75.
|
Ngô Sĩ Liên
|
Sống ở thế kỷ XV, người
làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà
Tây, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1442 thi đậu tiến sĩ, làm ở Hàn lâm
viện, rồi giữ chức Đô ngự sử. Năm 1480, dời Hồng Đức, theo lệnh của Lê Thánh
Tông, ông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Thực lục, trở thành nhà sử
học nổi tiếng ở nước ta.
|
Ngô
Sỹ Liên
|
76.
|
Nguyễn Văn Linh
|
Nguyễn Văn Linh (1915-1998), tên thật
là Nguyễn Văn Cúc, quê quán: Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên. Năm 1929, ông tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên lãnh đạo. Năm 1930, ông bị bắt và kết án tù chung thân, bị đày ra Côn
Đảo. Năm 1939, ông hoạt động ở Sài Gòn và tham gia Ban chấp hành Đảng bộ TP.
Sài Gòn. Từ 1945 - 1986, ông hoạt động chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ, Sài Gòn với
nhiều chức vụ: Bí thư Thành uỷ, Uỷ viên Xứ uỷ Nam Bộ, Thường vụ Xứ uỷ Nam Bộ,
Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Năm 1986, ông được
bầu làm tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác.
|
Nguyễn
Văn Linh
|
77.
|
Cao Lỗ
|
Cao Lỗ quê quán: xã Cao Đức, Gia Bình,
Bắc Ninh, là một vị tướng tài của Thục Phán An Dương Vương. Ông giỏi võ nghệ,
là người chế ra nỏ Liên Châu (Nỏ thần) và được An Dương Vương giao nhiệm vụ
thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Ông được tôn là vị tổ sư
nghề rèn của Việt Nam.
|
Cao
Lỗ
|
78.
|
Mai Thúc Loan
|
Mai Thúc Loan quê quán Hà Tĩnh, người
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà
Đường ở Việt Nam vào
đầu thế kỉ thứ 8. Ông xưng đế và đóng kinh đô ở thành Vạn An. Sau
đó, ông cùng nghĩa quân quanh vùng, liên kết với cả các nước Chăm Pa, Chân
Lạp chống giặc tại địa phương và tiến quân ra Bắc tiến công thành phủ Tống
Bình. Bọn đô hộ nhà Đường bỏ thành chạy tháo thân về nước.
|
Mai
Thúc Loan
|
79.
|
Phan Đăng Lưu
|
Phan Đăng Lưu (1902-1941),
quê ở Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là nhà hoạt
động cách mạng nổi tiếng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông được bầu làm Uỷ viên thường vụ tổng bộ
phụ trách tuyên huấn Tân Việt Cách mạng Đảng, có những đóng góp xuất sắc vào
các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì, đồng thời viết nhiều
sách lí luận chính trị, văn học. Năm 1939, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương.
|
Phan
Đăng Lưu
|
80.
|
Hồ Quý Ly
|
Hồ Quý Ly (1336-1407), là một vị vua
Việt Nam, người đã tiến thân từ một đại thần dưới thời nhà Trần để khởi đầu
nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện
nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống
lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.
|
Hồ
Quý Ly
|
81.
|
Đặng Thai Mai
|
Đặng Thai Mai (1902-1984),
quê Lương Điền, huyện Thanh Chương, Nghệ An, dạy ở trường Quốc học (Huế), sau
ra Hà Nội mở trường Thăng Long, lập Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo công
khai của Đảng. Sau cách mạng, ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc
hội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt
Nam. Ông là nhà nghiên cứu văn học, sử học, triết học… có nhiều tác phẩm giá
trị. Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Đặng
Thai Mai
|
82.
|
Phạm Sư Mạnh
|
Phạm Sư Mạnh quê quán làng Thạnh Hiệp,
Kinh Môn, Hải Dương, là nho sĩ nổi tiếng triều Trần, tên thật là Phạm Độ, tự
Nghĩa Phu, hiệu Uý Trai,. Ông đỗ Thái học đời Trần Minh Tông, từng giữ chức:
Chưởng bạ thư kiêm tham chính viện Khu mật, Nhập nội hành khiển tri Khu mật
viện sự, Hành khiển Tả ti lang trung, Nhập nội nạp ngôn.
|
Phạm
Sư Mạnh
|
83.
|
Hồ Tùng Mậu
|
Hồ Tùng Mậu (1896-1951),
quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự,
tham gia cách mạng từ sớm, hoạt động ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Viết báo
Thanh niên. Năm 1926 vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu, bị
bắt ba lần, tham gia hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản. Năm 1931 bị bắt
giải về nước giam ở Tây Nguyên. Ông vượt trại về hoạt động ở miền Trung. Ông
đã giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu IV, Tổng
Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Ông hy
sinh trên đường đi công tác ở Thanh Hóa.
|
Hồ
Tung Mậu
|
84.
|
Hồ Chí Minh
|
Tên khai sinh là Nguyễn
Sinh Cung, còn có tên là Nguyễn Tất Thành, con trai thứ hai của cụ Nguyễn
Sinh sắc và bà Hoàng Thị Loan; quê làng Kim Liên, nay là xã Nam Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đổi tên là Nguyễn Ái Quốc (cùng nhiều bí danh khác) để
hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Cuối cùng lấy tên là Hồ Chí Minh. Lúc nhỏ
học chữ Hán, được gần gũi các nhà chí sĩ Duy Tân, sau vào học Trường Quốc học
Huế, dạy học Trường Dục Thanh ở Phan Thiết, vào Sài Gòn rồi ra đi tìm đường
cứu nước vào ngày 05/6/1911 trên tàu La Touch Treville. Người hoạt động cách
mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhưng lâu nhất là ở các nước Pháp, Nga,
Trung Quốc. Từ sau Đại chiến II, người bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp
(1920), lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921) và chủ bút báo Người
cùng khổ (Le Paria). Năm 1923, sang Liên Xô, về Trung Quốc thành lập Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á
Đông (1924). Năm 1927, trở sang Liên Xô rồi về Thái Lan (1928), Hương Cảng
(1930), hợp nhất 03 Đảng Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau là Đảng
Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, về nước thành lập Mặt trận Việt Minh. Đến ngày
19/8/1945, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thắng lợi, thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), được bầu là Chủ tịch nước cho đến khi mất (02/9/1969).
Hồ Chí Minh là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Ở trong
nước, Người đã chỉ đạo tài tình công cuộc giải phóng dân tộc và hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Người là hiện thân cho sự đoàn kết toàn dân
tộc Việt Nam, đồng thời cũng là hiện thân của sự đoàn kết các dân tộc bị áp bức
trên thế giới. Người là nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc, là nhà văn hóa
lớn, được UNESCO tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt
suất - danh nhân văn hóa thế giới”. Ngay từ khi tại thế, Hồ Chí Minh đã đi
vào tình cảm của nhân dân trong nước và trên thế giới như một nhân vật huyền
thoại. Người cũng là một nhà thơ lớn với tác phẩm bất hủ Nhật ký trong tù
(Ngục trung nhật ký) viết bằng chữ Hán, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên
thế giới.
|
Hồ
Chí Minh
|
85.
|
Đào Cam Mộc
|
Đào Cam Mộc quê xã
Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, danh nhân sống vào cuối thời nhà Tiền
Lê, đầu nhà Lý. Ông là người thông minh, có sức khỏe hơn người lại có chí
lớn. Làm quan Chi hậu nhà Tiền Lê. Khi vua Lê Ngọa Triều mất, ông và thiền sư
Vạn Hạnh cùng với các quan Trần Cảo, Đào Thạc Phụ suy tôn và nhất tề đưa quan
Thân vệ Lý Công Uẩn lên ngôi báu, lập ra nhà Lý. Ông không chỉ có công đầu
đưa Lý Công Uẩn lên làm vua mà còn là người chỉ đạo cuộc dời đô từ Hoa Lư về
thành Đại La. Ông được vua Lý Thái Tổ gả con gái đầu là công chúa An Quốc và
phong tước Nghĩa Tín Hầu. Ông mất tại Cổ Loa, được vua Lý truy tặng chức Thái
sư Á vương.
|
Đào
Cam Mộc
|
86.
|
Hàm Nghi
|
Hàm Nghi (1871-1943),
là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối
cùng trong Lịch sử Việt Nam. Cùng với
các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.
|
Hàm
Nghi
|
87.
|
Trần Đại Nghĩa
|
Trần Đại Nghĩa (1913-1997),
tên thật là Phạm Quang Lễ, quê tỉnh Vĩnh Long; học ở Pháp, theo lời kêu gọi
của Bác Hồ, tình nguyện về nước tham gia kháng chiến, được phong Thiếu tướng,
Cục trưởng Cục Quân giới, sáng chế ra súng không giật SKZ, Bazoca; là Viện sĩ
nước ngoài Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước,
Anh hùng Lao động, Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Trần
Đại Nghĩa
|
88.
|
Nguyễn Bá Ngọc
|
Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B (năm
học 1964- 1965) trường phổ thông cấp I xã Quảng Trung. huyện Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hóa. Ngày 04/4/1965 máy bay Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng
Trung. Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to, bên nhà Khương, Khương là bạn của
Ngọc. Không chút ngần ngừ Ngọc nhào lên, chạy sang nhà Khương thì thấy bạn
của mình đã bị thương. Ngọc vội vừa bế vừa dìu 2 em của Khương xuống hầm. Ngọc
bò gần tới nơi trú ẩn thì giặc lại thả bom bi và em đã bị 1 viên bi bắn vào
lưng. Cứu được 2 em nhỏ rồi Ngọc mới tái mặt, lả đi, vết thương quá nặng, Ngọc
đã hy sinh vào lúc 2 giờ sáng ngày 5/4/1965 ở bệnh viện.
|
Nguyễn
Bá Ngọc
|
89.
|
Đặng Văn Ngữ
|
Đặng Văn Ngữ (1910-1967),
giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà khoa học xuất sắc để lại nhiều công
trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành ký sinh trùng. Ông là giáo sư
chủ nhiệm bộ môn Sinh học, Đại học Y khoa, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực nghiệm chống sốt rét cho quân
Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân.
|
Đặng
Văn Ngữ
|
90.
|
Ngô Thì Nhậm
|
Ngô Thì Nhậm (1746-1803),
nhà văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì,
Hà Nội. Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra
Bắc Hà, trọng dụng cử ông trấn giữ Thăng Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh
xâm lược, ông hiến kế lui quân về Tam Điệp bảo toàn lực lượng, đợi đại quân
Tây Sơn ra, cùng tiến đánh giải phóng kinh thành - mùa xuân Kỷ Dậu 1789.
Triều Tây Sơn mất, ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại; Ông để lại nhiều tác phẩm
giá trị về văn, sử, triết, ngoại giao.
|
Ngô
Thì Nhậm
|
91.
|
Đỗ Nhuận
|
Đỗ Nhuận (1922-1991), quê quán xã Thái
Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc
cách mạng, là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Opera. Ông là Tổng thư ký đầu
tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm 1943, ông tham gia hoạt động
cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các nhà lao: Hải Dương, Hoả Lò,
Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam. Ông có nhiều tác
phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát “Chiến thắng Điện Biên”… Ông được
Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh,
Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
|
Đỗ
Nhuận
|
92.
|
Trần Đăng Ninh
|
Trần Đăng Ninh là một nhà hoạt động
cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng,
Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần, Quân đội
Nhân dân Việt Nam) giai đoạn 1950-1955. Ông được Nhà nước tặng thưởng các Huân
chương Độc lập hạng nhất, Quân công hạng nhì, Chiến thắng hạng nhất, truy
tặng Huân chương sao Vàng năm 2003.
|
Trần Đăng Ninh
|
93.
|
Hải Thượng Lãn Ông
|
Hải Thượng Lãn Ông là biệt hiệu của
danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng
Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, từng chữa
bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn
như: Hải Thượng
y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự.
|
Hải
Thượng Lãn Ông
|
94.
|
Lê Hồng Phong
|
Tên thật là Lê Huy
Doãn, quê xã Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được Nguyễn Ái Quốc
giới thiệu học trường Hoàng Phố - Trung Quốc, tốt nghiệp Sĩ quan lục quân,
sang Liên Xô học trường Không quân Lêningrat, Đại học Phương Đông, phụ trách
Ban Hải ngoại của Đảng, đại biểu dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản được bầu làm
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội I Đảng Cộng sản
Đông Dương, ông được cử là người đứng đầu Ban
Chấp hành Trung ương. Về Sài Gòn lãnh đạo phong trào, bị địch bắt, ông
bị đày ra Côn Đảo và hy sinh.
|
Lê Hồng Phong
|
95.
|
Trần Phú
|
Trần Phú, quê huyện
Đức Thọ, Hà Tĩnh; đỗ đầu Cao đẳng Tiểu học (1922), dạy ở trường Tiểu học Cao
Xuân Dục, tham gia hội Phục Việt (sau đổi là Tân Việt), được cử sang Quảng
Châu (1926) rồi sang học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Tháng 4/1930,
về nước được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (hội
nghị ở Hương Cảng tháng 10/1930), soạn thảo bản Luận cương Chính trị đề ra
đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tháng 4/1931, bị địch bắt, tra tấn dã man
và mất tại nhà thương Chợ Quán khi mới 27 tuổi (06/9/1931).
|
Trần Phú
|
96.
|
Phan Đình Phùng
|
Phan Đình Phùng (1847-1895),
người làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ năm 1877, làm
quan Ngự sử triều Nguyễn. Năm 1883 bị cách chức vì không ủng hộ Tôn Thất
Thuyết phế vua Dục Đức lập Hiệp Hòa. Ông về quê theo Hàm Nghi mộ quân Cần
Vương, lãnh chức Hiệp thống quân vụ. Nghĩa quân của ông hoạt động khắp vùng
núi Hương Sơn, Hương Khê, duy trì cuộc kháng chiến gần 10 năm, đánh Pháp, Ông
mất tại căn cứ Núi Quạt, trong dãy Trường Sơn.
|
Phan
Đình Phùng
|
97.
|
Vũ Trọng Phụng
|
Vũ Trọng Phụng (1912-1939):
quê gốc ở huyện Mĩ Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất
chúng, với các tác phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc
sảo như: Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố, Làm đĩ …
|
Vũ
Trọng Phụng
|
98.
|
Nguyễn Tri Phương
|
Nguyễn Tri Phương (1800-1873), quê ở
Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; hồi trẻ, ông làm thơ
lại ở huyện Phong Điền, tiến đến làm thơ lại ở Bộ hộ, sau được người tiến cử
và vua Minh Mạng đã thu dụng ông. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy
hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy
quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã phá hủy một số lớn đồn lũy
của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Ông xây dựng đồn
Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25-10-1861, Pháp công phá đồn, ông bị thương, em
trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều đình cách
chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày 19-11-1873, quân
Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm hy
sinh tại trận, ông bị trọng thương. Giặc Pháp chiếm thành Hà Nội, chúng bắt
được ông trong lúc bị thương nặng, lính Pháp biết về ông nên cố cứu chữa,
nhưng ông đã từ chối và nói rằng: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống,
sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng và
mất vào 20-12-1873. Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri
Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước.
|
Nguyễn
Tri Phương
|
99.
|
Lạc Long Quân
|
Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN),
là nhân vật truyền thuyết Việt Nam. Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà
nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam
theo truyền thuyết "bọc trăm trứng".
|
Lạc
Long Quân
|
100.
|
Cao Bá Quát
|
Cao Bá Quát (1808-1855),
tự Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân,
làm Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương
(nay là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn
1300 bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người đời tôn ông là “Thánh
Quát”.
|
Cao
Bá Quát
|
101.
|
Ngô Quyền
|
Ngô Quyền (899-944),
quê quán làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, là một tướng tài và con rể của Dương
Đình Nghệ. Trong cuộc đấu tranh chống triều đình Nam Hán do Dương Đình Nghệ
lãnh đạo nhằm giành độc lập dân tộc vào những năm 930-931, ông đã góp một
phần công sức rất quan trọng. Sau khi đã thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng
là Tiết độ sứ (931), và cử ông trông coi châu Ái. Cuối năm 938, Ngô Quyền kéo
quân từ châu Ái ra Bắc diệt giặc và lập một chiến công lừng lẫy trên sông
Bạch Đằng, quét sạch đội thủy quân Nam Hán do Vạn vương Hoằng Thao, con vua
Nam Hán dẫn đầu.
|
Ngô
Quyền
|
102.
|
Võ Thị Sáu
|
Võ Thị Sáu (1935-1952), tên thật: Nguyễn
Thị Sáu, quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là
anh hùng Lực lượng vũ trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội viên Công an
Xung phong quận Đất Đỏ. Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức căm thù
thực dân Pháp, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như giao
liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5.1948, tham gia phá
tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14.7.1949, cùng đồng đội phá cuộc mít
tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt nhiều
lính Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 5.1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển đến
Khám Chí Hoà, Sài Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết
người công an cách mạng. Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn
động dư luận xã hội lúc đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã
khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người
chiến sĩ cách mạng. Võ Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23.1.1952 và
được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.
|
Võ
Thị Sáu
|
103.
|
Trương Hán Siêu
|
Trương Hán Siêu, quê
huyện Yên Ninh (nay là Thành phố Ninh Bình), Ninh Bình; được Trần Hưng Đạo
nuôi dưỡng và tiến cử, sau làm tới chức Hành khiển, Tả Tham tri Chính sự; trở
thành nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng thời Trần, là tác giả Hoàng Triều đại
điển, Bạch Đằng giang phú …
|
Trương
Hán Siêu
|
104.
|
Nguyễn Văn Siêu
|
Nguyễn Văn Siêu (1799-1872),
tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện
Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên,
rồi về dạy học, lập trường Phương Đình. Ông giỏi văn chương, học rộng, được
người đời gọi là Thần Siêu, cùng với Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi
tiếng thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị và có công tạo đền Ngọc
Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều những câu đối và đại tự do ông
viết.
|
Nguyễn
Văn Siêu
|
105.
|
Nguyễn Sơn
|
Nguyễn Sơn (1908-1956)
là một trong những người được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam
đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào
năm 1955 nên còn được gọi là "Lưỡng quốc tướng quân". Năm 1925, ông
gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành
một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong
thời gian đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu tham gia vào cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân Quảng Châu và học Trường Quân sự Hoàng Phố.
Tháng 8/1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc từ đó tham gia vào cuộc
khởi nghĩa vũ trang do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1934, ông được
bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa. Tháng
11 năm 1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ như: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
miền Nam Việt Nam, Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng
trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham
mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1948, ông được Nhà nước phong quân
hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Ông mất năm 1956 và sau đó
được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
|
Nguyễn
Sơn
|
106.
|
Lý Quốc Sư
|
Lý Quốc Sư (1065-1141), quê quán: Gia
Viễn, Ninh Bình, là pháp danh của thiền sư Nguyễn Minh Không. Quốc sư đã có
công lớn chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông. Ngài là ông tổ nghề y, đúc đồng,
thủ công nghiệp, trồng lúa nước, đã có công truyền nghề cho dân vùng Nam
Định, được nhân dân Nam Định ghi nhớ công ơn, lập đền thờ.
|
Lý
Quốc Sư
|
107.
|
Duy Tân
|
Vua Duy Tân (1900-1945) là vị
vua thứ 11 của nhà Nguyễn. Năm 1916, lúc Châu Âu có đại chiến, ông bí mật liên lạc với
các lãnh tụ Việt Nam
Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao
Vân, ông dự định khởi
nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày ngày 6 tháng 5 và đến ngày
3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong
cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống Phát xít Đức.
Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông mất ở Cộng hòa Trung Phi.
|
Duy
Tân
|
108.
|
Tống Duy Tân
|
Tống Duy Tân (1837- 1892), quê quán:
xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà yêu nước kháng Pháp.
Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh Hoá, sau
làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hoá, có lúc
ông từ quan về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất thủ, ông hưởng ứng
phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập căn cứ và trở
thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân của ông bị
Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra Bắc, lúc chạy
vào Hồng Lĩnh; một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách ghi là Lễ) làm
phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành quyết ông vào
ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất ông có câu đối:
"Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn truyền".
|
Tống
Duy Tân
|
109.
|
Lê Trọng Tấn
|
Là Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông có
công lớn trong trận Điện Biên Phủ, Đại đoàn
312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13 tháng 3 năm
1954) trận mở đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ và sau 56 ngày đêm quân
đội ta đã cắm là cờ chiến thắng trên nóc Hầm Đờ Cát Tơ Ri vào ngày 07/5/1954.
|
Lê
Trọng Tấn
|
110.
|
Hà Huy Tập
|
Hà Huy Tập (1902-1941)
quê ở Hà Tĩnh, tham gia cách mạng, học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva,
tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ nhất ở Ma Cao được bầu là
Ủy viên Trung ương Đảng rồi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông về Sài
Gòn lãnh đạo phong trào cách mạng, năm 1938, ông bị Pháp bắt giam. Sau cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (11-1940) ông bị Pháp bắt lần thứ hai, chúng xử
bắn ông và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu,
Võ Văn Tần…Hà Huy Tập tích cực đấu tranh tuyên truyền cho Đảng Cộng sản. Ông
đã viết Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản Đông Dương bằng tiếng Pháp, ký
tên là Hồng Thế Công (1932). Năm 1937, ông viết cuốn Tơ-rốt-xki và phản cách
mạng, ký tên Thanh Hương. Ông cộng tác với báo La lutte (1937).
|
Hà
Huy Tập
|
111.
|
Nguyễn Cơ Thạch
|
Nguyễn Cơ Thạch (1921-1998), quê quán
xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân
chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị giam tại nhà lao Nam
Định, Hòa Bình, Sơn La (1040-1945). Năm 1943 ông được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng, Bí thư cho Đại
tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành
chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên
khu (1949-1954) và nhiều chức danh cấp cao khác. Ông được nhà nước tặng thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…
|
Nguyễn
Cơ Thạch
|
112.
|
Phạm Ngọc Thạch
|
Phạm Ngọc Thạch (1909-1968),
quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; tốt
nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp (1934), năm 1936, ông là hội viên duy
nhất ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở
bệnh viện tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm 1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng
sản và tham gia phong trào cách mạng, phong trào Mặt trận Bình dân, khởi
nghĩa tháng Tám được cử vào Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954
ra Bắc, làm Bộ trưởng Y tế (1958), Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tác giả của vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực
tế phục vụ chiến trường, năm 1968 ông trở về Nam và mất trong vùng giải phóng
miền Đông Nam Bộ vì bệnh sốt rét ác tính ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên môn có giá trị về bệnh lao. Các luận văn
viết bằng tiếng nước ngoài của ông đã được đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest
(1961), New Delhi (1957), Moscow (1958) và Paris (1968).
|
Phạm
Ngọc Thạch
|
113.
|
Hoàng Văn Thái
|
Hoàng Văn Thái (1915-1986),
tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Ông
tham gia phong trào nông dân Tiền Hải từ năm 1936, được kết nạp vào Chi bộ
Cộng sản đầu tiên của huyện Tiền Hải. Sau Cách mạng tháng Tám, được giao phụ
trách Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 5. Phó Bí
thư Trung ương Cục, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền, trực tiếp chỉ huy nhiều trận
đánh quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
|
Hoàng
Văn Thái
|
114.
|
Hoàng Hoa Thám
|
Hoàng Hoa Thám (1836 -1913), quê ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; năm 16 tuổi, ông tham
gia khởi nghĩa của Đại Trận (1870-1875). Khi Pháp chiếm Bắc Ninh (3-1884)
Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh,
rồi nghĩa quân của Hoàng Đình Kinh (1882-1888), sau đó ông đứng dưới cờ nghĩa
Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài. Tháng 4-1892,
Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại và Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao
của phong trào Yên Thế. Trong ba năm (1893-1895) giặc Pháp đã tập trung lực
lượng để đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Hoàng Hoa Thám bằng chiến thuật du
kích tài tình đã đã gây cho giặc những tổn thất nặng nề. Hoàng Hoa Thám đã
chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27-6-1908 của binh lính yêu nước ở Hà Nội (gọi
là vụ Hà thành đầu độc), sự kiện làm chấn động khắp cả nước. Cuối tháng
12-1912, Lương Tam Kỳ, một tên trùm thổ phỉ đã đầu hàng Pháp, cùng với bọn
chỉ điểm sát hại Hoàng Hoa Thám ngày 10-2-1913.
|
Hoàng
Hoa Thám
|
115.
|
Tôn Đức Thắng
|
Tôn Đức Thắng (1888-1980), quê ở xã
Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Năm 1927, ông tham gia Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, bị thực dân Pháp bắt và đầy ra Côn Đảo. Năm 1930,
ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1946 - 1980, ông giữ nhiều chức
vụ quan trọng: Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch Đoàn
chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Trưởng ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nội
Vụ, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam. Ông được tặng thưởng Huân chương
Sao Vàng (1958), Huân chương Xu khe bato - huân chương cao quý nhất của Mông
Cổ (năm 1978). Ông cũng là người đầu tiên được nhận giải thưởng Hoà bình Quốc
tế Lênin.
|
Tôn
Đức Thắng
|
116.
|
Cao Thắng
|
Cao Thắng (1864-1893),
quê ở làng Yên Đức, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tham gia khởi nghĩa Hương
Khê do Phan Đình Phùng chỉ huy năm 1885, ông hy sinh trong một trận đánh đồn
Pháp ở Thanh Chương (Nghệ An). Ông được cụ Phan Đình Phùng tin cẩn giao trách
nhiệm chỉ huy quân sự. Nhờ có Cao Thắng, nghĩa quân trưởng thành nhanh chóng,
mở rộng địa bàn, thanh thế vang dội ở 4 tỉnh miền Trung. Đặc biệt, Cao Thắng
đã tìm mọi cách chế tạo được súng trường để trang bị cho nghĩa quân. Súng của
Cao Thắng chế tạo làm cho các sĩ quan Pháp và kỹ sư Âu châu phải kinh ngạc.
|
Cao
Thắng
|
117.
|
Nguyễn Chí Thanh
|
Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), quê ở
Thừa Thiên Huế là một tướng lĩnh kiệt xuất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông
là người đề xuất chiến thuật đánh áp sát của Quân giải phóng miền Nam với phương
châm “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại
tướng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), ông được
bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Bộ chính trị và Ban bí
thư. Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung
ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Ông mất năm 1967.
|
Nguyễn
Chí Thanh
|
118.
|
Tô Hiến Thành
|
Tô Hiến Thành
(1102-1179), người làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội), làm quan
Thái úy thời vua Lý Anh Tông (1138-1175); giỏi cả văn, võ. Chỉ huy quân dẹp
loạn và bọn xâm lấn ở biên giới phía tây, phía nam. Ông là người trung trực,
thanh liêm nổi tiếng, có công khai phá vùng Tống Sơn - Nga Sơn (Thanh Hóa).
|
Tô
Hiến Thành
|
119.
|
Bà Huyện Thanh Quan
|
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên
thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, Hà Đông, Hà Nội. Bà nổi tiếng
về tài làm thơ. Thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh
Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho công chúa và các
cung nhân. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê và đưa bốn con nhỏ
từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Tác phẩm bà đã để lại gồm 6 bài
thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Quốc, qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu,
Cảnh Hương sơn.
|
Bà
Huyện Thanh Quan
|
120.
|
Nguyễn Gia Thiều
|
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798):
người làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, từ bé học trong phủ chúa Trịnh,
thông minh, hiểu nhiều ngành nghệ thuật: nhạc họa, kiến trúc… 18 tuổi làm
Hiệu úy rồi thăng Tổng binh, trấn thủ Hưng Hóa, được phong tước hầu. Tây Sơn
thống nhất đất nước, ông về làng ẩn dật rồi mất. Tác giả Cung oán ngâm khúc
nổi tiếng.
|
Nguyễn
Gia Thiều
|
121.
|
Nguyễn Hữu Thọ
|
Ông làm Quyền Chủ tịch
nước từ tháng 4 năm 1980 cho đến tháng 7 năm 1981. Năm 1981, ông là Chủ tịch Quốc
hội cho đến năm 1987. Ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước khóa
VII, VIII.
|
Nguyễn
Hữu Thọ
|
122.
|
Lê Đức Thọ
|
Lê Đức Thọ (1911-1990),
tên thật là Phan Đình Khải, quê làng Dịch Lễ, nay thuộc xã Nam Vân, Nam Định.
Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, bị Pháp bắt tù đày ở Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn
La, Hòa Bình… ra tù, ông tham gia phát động cao trào cách mạng tiến tới tổng
khởi nghĩa. Kháng chiến toàn quốc, ông công tác ở miền Nam, giữ cương vị chủ
chốt trong Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam. Năm 1955 ông được bổ sung
vào Bộ Chính trị, phụ trách công tác tổ chức của Trung ương Đảng, Giám đốc
trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tham gia Quân ủy Trung ương, sau trở lại miền Nam
công tác. Ông là cố vấn đặc biệt của phái đoàn Chính phủ ta tại hội nghị
Paris, ký hiệp định với Mỹ giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Năm 1975, ông
vào Nam chỉ đạo cuộc tổng tiến công mùa xuân và chiến dịch Hồ Chí Minh thống
nhất đất nước.
|
Lê
Đức Thọ
|
123.
|
Hoàng Văn Thụ
|
Hoàng Văn Thụ (1906-1944):
bậc tiền bối cách mạng, dân tộc Tày, quê xã Nhân Lý, huyện Văn Yên, nay là
Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, tham gia cách mạng từ năm 1927, đại biểu dự Đại hội
lần thứ nhất của Đảng ở Ma Cao, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Thường vụ Trung ương
Đảng, năm 1943 ông bị Pháp bắt tại Hà Nội, kiên cường bất khuất, bị chúng kết
án tử hình. Những hoạt động của Hoàng Văn Thụ rất đa dạng. Ông rất giàu kinh
nghiệm đối với công tác tuyên truyền trong công nhân, binh sĩ. Ông là chủ bút
nhiều tờ báo bí mật như: Tranh đấu, Lao động nhằm phổ biến chủ trương, chính
sách của Đảng cho đồng bào miền núi. Ông cũng sử dụng thơ ca phục vụ cho lý
tưởng cách mạng. Có nhiều bài Sli, lượn do Hoàng Văn Thụ sáng tác đã trở
thành phổ biến và đi vào kho tàng văn nghệ dân gian.
|
Hoàng
Văn Thụ
|
124.
|
Xuân Thủy
|
Xuân Thủy (1912-1985),
tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; từng giữ các chức vụ
Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị Paris, Phó Chủ tịch kiêm
Tổng thư kí Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội; ông là nhà thơ, để lại
các tác phẩm Đường xuân, Thơ Xuân Thủy …
|
Xuân
Thủy
|
125.
|
Tôn Thất Thuyết
|
Tôn Thất Thuyết (1839-1913),
quê ở Thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế, là danh tướng, nhà yêu nước. Năm 1869, ông
làm án sát Hải Dương, Tán tương Quân thứ Thái nguyên, Tán lý quân thứ Sơn Hưng
Tuyên. Ông được phong làm Hữu Tham tri Bộ binh, tước Nam. Ông ráo riết chuẩn
bị chống Pháp. Ông có công rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, Quảng
Bình, Hà Tĩnh mở đầu phong trào Cần Vương kháng Pháp.
|
Tôn
Thất Thuyết
|
126.
|
Lê Văn Thịnh
|
Lê Văn Thịnh (chưa rõ năm sinh, mất
năm 1096), là người tài năng, đỗ đầu trong khoa thi đầu tiên của Nho học
Việt Nam có công lao lớn làm quan tới chức Thái sư Thời Lý Nhân Tông. Năm 1084,
được cử lên trại Vĩnh Bình (Lạng Sơn) giải quyết vấn đề biên giới với quan
chức nhà Tống. Theo "Đại Việt sử kí toàn thư", nhà Tống phải trả
cho Đại Việt 6 huyện, 3 động. Đền thờ Ông hay Đền thờ Quan Trạng ở thôn Bảo
Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
|
Lê
Văn Thịnh
|
127.
|
Tuệ Tĩnh
|
Tuệ Tĩnh (1341-1385),
tên thật là Nguyễn Bá Thành, quê phủ Hồng Châu (nay thuộc huyện Cẩm Giàng),
tỉnh Hải Dương; có tài chữa bệnh, được cử sang Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng
hậu, bị lưu lại và mất ở bên đó; là tác giả các bộ sách về thuốc Nam dược
thần hiệu và Hồng Nghĩa Giác tự y thư.
|
Tuệ
Tĩnh
|
128.
|
Lê Thái Tổ
|
Lê Thái Tổ (1385-1433) tên húy là Lê
Lợi, là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở thành
vị vua đầu tiên của vương triều nhà Hậu Lê, triều đại dài nhất trong lịch sử
Việt Nam. Năm 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn
Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú… tất cả 50 tướng văn
và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa. Đồng thời ông tự xưng là Bình Định
Vương và kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh.
|
Lê
Thái Tổ
|
129.
|
Ngô Tất Tố
|
Ngô Tất Tố (1894-1954),
nhà báo, nhà văn hiện đại, người làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà
Nội. Ông đỗ đầu xứ nhưng bỏ nho học, đi làm báo, viết văn dịch thuật. Những
tác phẩm nổi tiếng trước Cách mạng như Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng… cùng
với bài báo bình luận xuất sắc ký nhiều bút danh; những sách nghiên cứu phê
bình như Nho giáo, Lão tử, Mặc Tử; dịch thơ văn Hán - Nôm và truyện Trung
Quốc, đã đưa ông thành cây bút hiện thực lớn. Ông tham gia Văn hóa cứu quốc,
đi kháng chiến chống Pháp, làm báo cách mạng và mất tháng 4-1954 tại Yên Thế,
Bắc Giang.
|
Ngô
Tất Tố
|
130.
|
Lý Thái Tổ
|
Lý Thái Tổ tức Lý
Công Uẩn sinh năm (974-1028), quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, nơi vẫn còn lưu
giữ ngôi đền Lý Bát Đế nổi tiếng thờ 8 vị vua triều Lý. Theo truyền thuyết
Ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi. Lý
Công Uẩn mới nhận lời lên ngôi vua, lập ra triều Lý. Lên ngôi báu, nhận thấy
đất Hoa Lư chật hẹp, bốn bề núi giăng, không xứng là đất định đô của một quốc
gia độc lập, càng khó để xây dựng đất nước phồn thịnh, Lý Thái Tổ nghĩ tới
việc dời đô. “Xem khắp đất Việt”, thấy chỉ có Đại La là “nơi thắng địa”, “ở
trung tâm của trời đất”, “được thế rồng chầu hổ phục, đã thuận hướng nam bắc
đông tây, lại tiện nghi núi sông sau trước”, “mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế
đất cao mà sáng sủa”, Lý Thái Tổ bèn soạn thiên chiếu dời đô nổi tiếng sử sách
để tham vấn ý kiến quần thần. Vua tôi nhất trí đồng lòng, quyết dời đô từ Hoa
Lư ra Đại La.
|
Lý Thái Tổ
|
131.
|
Nguyễn Trường Tộ
|
Nguyễn Trường Tộ (1830 -1871),
quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là trí thức, nhà cải cách xã hội Việt
Nam ở thế kỷ 19, có tài năng xuất chúng. Ông có lòng yêu nước thiết
tha, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ có thể canh tân đất nước theo mô hình Nhật Bản.
Ông nhiều lần gửi các bản điều trần cho triều đình nhà Nguyễn, cử sứ bộ đi
các nước tranh thủ sự ủng hộ, đánh úp Pháp ở sáu tỉnh Nam Bộ... Tên ông được
đặt cho nhiều tên đường phố ở Việt Nam.
|
Nguyễn
Trường Tộ
|
132.
|
Trần Quốc Toản
|
Trần Quốc Toản (1267-1285), quê ở Tức
Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định, người anh hùng thiếu niên chống Nguyên Mông. Năm 1282,
lúc ông mới 15 tuổi, được tin quân Nguyên Mông sang cướp nước ta, vua Trần
Nhân Tông hội các vương hầu bàn kế sách chống giặc. Quốc Toản cũng là Hầu
tước, nhưng vì nhỏ tuổi nên đến dự Hội Bình Than mà không được vào họp bàn.
Ông đứng ngoài căm tức lỡ tay bóp nát quả cam vua ban cho. Tan Hội về, ông
tập hợp đám bạn thiếu niên thân thuộc, sắm sửa vũ khí, may cờ hiệu đề 6 chữ:
"Phá cường địch, báo hoàng ân", rồi tự dẫn binh ra trận đánh giặc.
Ông cùng các chiến binh trẻ tuổi tham dự vào nhiều trận đánh lớn, từng có lúc
theo Thượng tướng Trần Quang Khải, góp phần chiến thắng Chương Dương vang dội
trong lịch sử chống Nguyên Mông. Trong một trận đánh không cân sức, ông bị
trọng thương và hy sinh năm 1285, lúc ấy mới qua tuổi 18. Vua Trần Nhân Tông
thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Hoài Văn Vương. Trần
Quốc Toản là vị tướng trẻ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Ông
là tấm gương anh hùng yêu nước trẻ tuổi tiêu biểu của đất nước.
|
Trần
Quốc Toản
|
133.
|
Lê Thánh Tông
|
Lê Thánh Tông (1442-1497),
là vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê, trị vì từ
năm 1460 đến 1497. Ông là người đã đưa Đại Việt lên tới thời
hoàng kim của chế độ phong kiến. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề
xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành
chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông là người
xây dựng bộ Luật Hồng Đức. Đây là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước
phát triển mới rất quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ông được truy
tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn
Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.
|
Lê
Thánh Tông
|
134.
|
Lý Thánh Tông
|
Lý Thánh Tông (1023-1072) quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, là vị vua thứ
3 của nhà Lý, cai trị từ năm 1054 đến 1072. Ông tên thật là Lý Nhật Tân, là
người văn võ song toàn, ông nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong
lịch sử Việt Nam. Công lao của ông là đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn
Miếu, phá Tống (1069), bình Chiêm (1069) và lấy được ba châu của Chiêm Thành.
|
Lý
Thánh Tông
|
135.
|
Trần Nhân Tông
|
Trần Nhân Tông (1258-1308),
vị vua thứ ba triều Trần, con cả Trần Thánh Tông, lãnh đạo quân và dân Đại Việt
hai lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông (1285-1288), sau nhường ngôi cho
con, đi tu ở núi Yên Tử, trở thành vị Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc Lâm.
|
Trần
Nhân Tông
|
136.
|
Trần Thái Tông
|
Trần Thái Tông (1218-1277),
vị vua đầu tiên của nhà Trần. Ông trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên - Mông lần thứ nhất thắng lợi; nhường ngôi cho con để tập trung
nghiên cứu giáo lý nhà Phật và soạn tập Khóa hư lục.
|
Trần
Thái Tông
|
137.
|
Trần Thánh Tông
|
Trần Thánh Tông (1240-1290),
vua thứ hai triều Trần, nhân từ, có nhiều chính sách tích cực, và là một nhà
thơ lớn, trị vì 20 năm (1258-1278), sau nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.
|
Trần
Thánh Tông
|
138.
|
Nguyễn Trãi
|
Nguyễn Trãi (1380 - 1442),
quê quán: Chí Linh, Hải Dương. Thi đỗ Thái
học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng
làm quan dưới triều Hồ. Sau khi đất nước bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn
Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo
chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong
việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.
Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy
nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di Tam tộc trong vụ án Lệ chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn
hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt
Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu
nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hoá của Việt Nam và
thế giới.
|
Nguyễn
Trãi
|
139.
|
Huyền Trân
|
Huyền Trân (1287-1340) là con gái vua
Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân
để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Chế Mân qua đời, Huyền Trân được cứu đưa
về Thăng Long. Năm 1308, bà đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc tỉnh
Bắc Ninh). Năm 1311, bà đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản, tỉnh
Nam Định) lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau bà được nhân dân thờ phụng
tại đó.
|
Huyền
Trân
|
140.
|
Đặng Thùy Trâm
|
Đặng Thùy Trâm (1942-1970), tốt nghiệp
Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, sau đó xung phong
vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của người thầy thuốc trong thời gian
chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm công tác tại bệnh viện
huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn đã bị địch
phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất trẻ. Trong hành trang
để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã được một cựu chiến binh
Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại chiến trường huyện Đức Phổ
tìm thấy và cất giữ. Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” sau đó đã được Nhà Xuất
bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; liệt sĩ Đặng Thùy Trâm được truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006.
|
Đặng
Thùy Trâm
|
141.
|
Bà Triệu
|
Bà Triệu (226-248)
tên thật là Triệu Thị Trinh, người Sơn Trung (Nông Cống - Thanh Hóa). Năm 247
cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống quân thống trị nhà Ngô, ở Ngàn Nưa,
lập căn cứ Bồ Điền (Hậu Lộc), sau bị Lục Dận đem quân sang bao vây. Thế cùng
lực tận, bà tuẫn tiết trên ngọn Tùng Sơn (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Nay ở đó còn
lăng mộ và đền thờ bà.
|
Bà
Triệu
|
142.
|
Phan Châu Trinh
|
Phan Châu Trinh (1872-1926), quê
ở Quảng Nam. Năm 28 tuổi Phan Châu Trinh đỗ Cử nhân (1900), 29 tuổi đỗ Phó bảng
(1901. Năm 1902, Phan Châu Trinh được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Thừa
Biện (một chức quan nhỏ) Bộ Lễ và đến năm 1904 ông xin từ quan. Năm 1905,
Phan Châu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu cuộc vận
động duy tân ở Quảng Nam với 3 mục tiêu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước, nhân
dân Sài Gòn nhất là học sinh nồng nhiệt chào đón cụ. Khi Phan Bội Châu bị Hội
đồng đề hình Pháp xử mức án “khổ sai chung thân”, Phan Châu Trinh gửi điện
cho Toàn quyền Đông Dương đề nghị ân xá cho Phan Bội Châu. Tháng 11-1925,
Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn về “Đạo đức luân
lý Đông - Tây”; “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.
|
Phan
Châu Trinh
|
143.
|
Nguyễn Văn Trỗi
|
Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964),
quê quán xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam; Ông làm thợ điện ở nhà máy
điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử Tây Nam Sài
Gòn. Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ
Rừng Thơm, Đức Hòa (Long An). Ngày 2/5/1964, ông nhận nhiệm vụ đặt
mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân
sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara
dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9/5/1964. Chính quyền
Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một
tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi anh với một con tin là trung tá
không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ
quan Mỹ vừa được trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn. Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn
tại sân sau nhà lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15 tháng 10 năm 1964, trước
sự chứng kiến của nhiều phóng viên nước ngoài.
|
Nguyễn
Văn Trỗi
|
144.
|
Lý Tự Trọng
|
Lý Tự Trọng (1915-1932) , quê ở Xã Thạch
Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh có nhiều tích cực trong việc liên lạc giữa Tổng
bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội với Đảng bộ, các cán bộ cách
mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ chức chuyển thư từ
tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng chí đang diễn
thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết mật thám Pháp và bị
bắt. Anh bị chính quyền Pháp tại Sài Gòn kết án tử hình, anh bị xử bắn khi mới
17 tuổi. Câu nói nổi tiếng của anh được các thế hệ thanh niên lấy làm lẽ sống
cho mình ”Con đường thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng không có con
đường nào khác”.
|
Lý
Tự Trọng
|
145.
|
Trần Bình Trọng
|
Trần Bình Trọng
(1259-1285), danh tướng đời Trần, quê huyện Thanh Liêm, Hà Nam, vốn
họ Lê do có công lớn nên được ban họ vua; trong trận đánh ở sông Thiên Mặc bị
giặc Nguyên bắt dụ hàng, ông khảng khái nói: “Ta thà làm ma nước Nam chứ
không thèm làm vương đất Bắc” và chịu chết.
|
Trần
Bình Trọng
|
146.
|
Nguyễn Công Trứ
|
Nguyễn Công Trứ (1778-1858),
hiệu Ngộ Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông
đỗ giải nguyên (1819), làm tri huyện rồi đến Tổng đốc, Thượng thư nhưng đầy
chìm nổi, có lúc bị cách làm lính. Ông có tài thao lược, có công khai hoang
lấn biển vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; lập ra các huyện mới: Tiền Hải,
Kim Sơn… Ông còn là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều bài ca trù nổi tiếng.
|
Nguyễn
Công Trứ
|
147.
|
Nguyễn Trung Trực
|
Nguyễn Trung Trực (1838-1868),
người phủ Tân An, tỉnh Đình Tường (nay thuộc Long An); còn có tên Nguyễn Văn
Lịch - một nông dân kiêm ngư nghiệp; hăng hái chống Pháp khi chúng đánh chiếm
các tỉnh Nam Kỳ; từng đánh đắm chiếm hạm Hy Vọng (Espérence) trên sông Vàm Cỏ
(1861); được giao trấn thủ Hà Tiên. Pháp chiếm xong Nam Kỳ, ông lập căn cứ ở
Hòn Chuông tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị Pháp bắt và đem hành hình ở Rạch
Giá. Ông để lại câu nói nổi tiếng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới
hết người Nam đánh Tây”.
|
Nguyễn
Trung Trực
|
148.
|
Hai Bà Trưng
|
Trưng Trắc và Trưng
Nhị (14-43), nữ anh hùng dân tộc. Hai Bà dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn mùa
xuân năm 40, đánh thủ phủ Luy Lâu của quân Hán thống trị, rồi thu lại 65 thành.
Bà Trưng Trắc lên làm vua, lập đô ở Mê Linh (nay là xã Mê Linh, huyện Mê
Linh, Hà Nội). Năm 42, Mã Viện mang quân sang đàn áp, Hai Bà chống lại không
nổi, đã anh dũng tuẫn tiết ở Cấm Khê.
|
Hai
Bà Trưng
|
149.
|
Hồ Nguyên Trừng
|
Hồ Nguyên Trừng (1347-1446), quê ở Thanh
Hóa còn có tên là Lê Trừng, hiệu Nam Ông. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân
tự, Tư đồ. Sau đó, được cử làm Tả tướng quốc nhà Hồ, làm quan ở bộ Công khi nhà Minh xâm lược. Ông là nhà kỹ
thuật quân sự, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Ông
cũng chỉ huy xây dựng nhiều công trình đồ sộ thời nhà Hồ. Ngoài ra ông còn là nhà
văn Việt Nam ở thế kỷ 15, là người mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực”
trong văn xuôi tự sự Việt Nam.
|
Hồ
Nguyên Trừng
|
150.
|
Đào Duy Từ
|
Đào Duy Từ (1572-1634),
quê huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, con một gia đình nghệ sĩ tuồng vào Đàng Trong
chống họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông giúp chúa Nguyễn đắp lũy Thầy (gồm 2 lũy
Trường Dực, Nhật Lệ) ở Quảng Bình, được coi là Khai quốc công thần. Tác giả
Hồ trướng khu cơ (sách binh pháp), tuồng Sơn Hậu, khúc ngâm Ngọc Long Cương
Văn…
|
Đào
Duy Từ
|
151.
|
Hàn Mặc Tử
|
Hàn Mặc Tử (1912-1940),
tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng
Hới (nay là tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ
Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị; năm 1930 đoạt giải nhất trong
cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn.
Ông sử dụng nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ Thanh rồi cuối cùng là Hàn Mặc Tử.
Tác phẩm gồm có: Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên),
Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu duyên (gồm 02 vở kịch thơ: Duyên kỳ
ngộ và Quần tiên hội)…Hàn Mặc Tử học tiểu học ở Qui Nhơn, trung học ở Huế, có
thời gian làm ở Sở Đạc điền (Qui Nhơn). Năm 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài
Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau trở
ra Qui Nhơn. Năm 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Qui Hòa và qua
đời ở đó.
|
Hàn
Mặc Tử
|
152.
|
Ngô Gia Tự
|
Ngô Gia Tự (1908-1935), quê ở Bắc Ninh,
ông được Đảng kỳ bộ Bắc Kỳ chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh. Cuối năm 1928, ông
vào Sài Gòn hoạt động. Ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản
Việt Nam ở Nam Kỳ. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại Sài Gòn, đến tháng
5/1933 thì chúng đày ông ra Côn Đảo.
|
Ngô
Gia Tự
|
153.
|
Nguyễn Tuân
|
Nguyễn Tuân (1910-1987),
Nhà văn Việt Nam, người làng Mọc Thượng Đình, sinh tại phố Hàng Bạc, nhưng
sống với gia đình thời trẻ ở miền Trung. Làm báo, viết văn, đóng phim từ năm
1930. Nổi tiếng với thể loại tùy bút mang phong cách riêng độc đáo trước Cách
mạng, trong kháng chiến và sau hòa bình. Tham gia chống Pháp, đi Nam tiến;
thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; đi với bộ đội dự các chiến dịch sông Thao,
đường số 4. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị: Thiếu quê hương, Vang bóng một
thời, Tóc chi Hoài, Sông Đà; Hà nội ta đánh Mỹ giỏi….
|
Nguyễn
Tuân
|
154.
|
Ngụy Khắc Tuần
|
Ngụy Khắc Tuần
(1799-1854), quê quán xã Xuân Viên, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Năm Tân Sửu (1841 đời
Thiệu Trị thứ nhất) ông dâng sớ: “…Châu Ninh Biên thuộc vào đồ bản nước ta
lâu rồi, không phải mới một ngày thôi. Duy nước Nam Chưởng nhận làm đất cũ,
rồi gây rối hiềm khích. Khi trước, thổ quan mưu cầu cho vô sự, nên đem vàng
bạc đút lễ họ. Đến khi ta đặt lưu quan, thì họ không được gì, mới viện dẫn
người Xiêm kéo đến lấn cướp. Vả lại, đồn ở châu ấy không có thành trì vững
chắc, sức binh thì yếu và không đủ dùng, dân cư thì không thành thôn trại gì,
vừa mới nghe tin giặc đến là chạy trốn liền ngay. Nếu không qua một phen xếp
đặt lại, thì mối lo ở cõi ven còn chưa trừ hết được. Huống chi châu ấy đất
rộng, người ít, lại ở thượng du, làm phên che cho 10 châu ở phía Bắc Sông Đà,
thì không gì bằng mộ dân đến ở nơi ấy cho đông, để tự phòng thủ lấy mới là kế
sách dài lâu. Nay xin đem đồn ở châu ấy đặt làm phủ Điện Biên, kiêm lí châu
Ninh Viễn, và lấy nơi Lai Châu gần đấy, lại thêm vào châu Tuần Giáo nữa, đặt
chức Tri phủ, Quan phủ, mộ 300 binh dũng đóng giữ. Rồi lại chiêu tập dân lưu
tán, dân trú ngụ cày và khẩn ruộng, đổi chác, buôn bán, để dần dần làm thành
cơ chỉ, ngõ hầu việc phòng bị ở cõi biên ngày có thể hoàn toàn được…”. Vua y
theo, xuống dụ rằng: “…Ngụy Khắc Tuần vỗ họp dân cõi biên, mở thành một phủ,
có công lao kiến nghị ra trước, việc sắp được thành, giao cho Bộ Lại bàn xét
công ấy. Rồi Khắc Tuần về kinh theo triều ban…”. Vua cho khắc công lao của
ông vào bia đá để lưu truyền đời sau. Ông được thờ trong đền Hiền Lương (đền
nằm trên sườn gần chân núi Hồng Lĩnh). Sinh thời, ông có tâm hồn của kẻ sĩ,
làm nhiều thơ, để lại 4 đầu sách và 20 bài thơ khác hiện có ở thư viện Viện
Hán Nôm.
|
Ngụy
Khắc Tuần
|
155.
|
Tôn Thất Tùng
|
Tôn Thất Tùng
(1912-1982) là một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong
lĩnh vực gan và giải phẫu gan. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao
động, Viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên Xô. Ông là giáo sư, đào tạo nhiều thế
hệ bác sĩ tài năng tại trường Đại học Y khoa Hà Nội.
|
Tôn
Thất Tùng
|
156.
|
Dã Tượng
|
Dã Tượng có công trong sự nghiệp chống
quân Nguyên - Mông cuối thế kỷ XIII. Ông là người nổi tiếng trung thành, tận
tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô.
Trong cuộc chiến gay go, quân sĩ tản mác, ông đã bám trụ ở một điểm đến khi chủ
tướng gặp được Yết Kiêu mới thôi. Ông được Trần Quốc Tuấn tin yêu. Theo
truyền thuyết, Dã Tượng còn là ông tổ nghề rèn. Những làng rèn đều thờ Dã
Tượng tiên sư.
|
Dã
Tượng
|
157.
|
Tô Ngọc Vân
|
Tô Ngọc Vân
(1906-1954), quê ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên; sinh ở Hà Nội, học
khóa II trường Mỹ thuật Đông Dương (1925-1931), sau trở thành giáo sư hội họa
của trường. Ông tham gia hoạt động bán công khai trong Mật trận Việt Minh, sau
Cách mạng tháng Tám là một trong những họa sĩ đầu tiên được vào vẽ Bác Hồ.
Ông mất trong kháng chiến chống pháp, sau 28 năm cống hiến cho hội họa Việt
Nam hiện đại; để lại nhiều tác phẩm sơn dầu giá trị, được lưu giữ trong các
bảo tàng quốc gia và thế giới. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Tô
Ngọc Vân
|
158.
|
Chế Lan Viên
|
Chế Lan Viên (1920-1989),
chính tên là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Nghệ Tĩnh, sinh ở Cam Lộ, tỉnh Quảng
Trị, học ở Qui Nhơn, đỗ trung học rồi dạy tư. Nổi tiếng từ khi còn ít tuổi,
với tập thơ Điêu tàn (1938), tiếp đó là tập văn xuôi Vàng sao (1942). Từ Cách
mạng tháng Tám, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV rồi
chuyển ra hoạt động ở Việt Bắc, tham gia nhiều khóa Ban Chấp hành Hội Nhà văn
Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách bao gồm thơ, bút ký, lý luận -
phê bình, với bút pháp sắc sảo, thông minh và giàu chất trí tuệ. Ông được
trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
|
Chế
Lan Viên
|
159.
|
Hoàng Quốc Việt
|
Hoàng Quốc Việt (1905-1992), quê ở Đáp
Cầu, tỉnh Bắc Ninh tên thật là Hạ Bá Cang. Ông tham gia cách mạng từ năm 1925.
Năm 1930, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Trung, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu quốc hội từ khoá V, VI, VII, VIII.
Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.
|
Hoàng
Quốc Việt
|
160.
|
Lương Thế Vinh
|
Lương thế Vinh (1441-1496)
quê ở xã Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định, ngay từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng
“thần đồng làng Hương”. Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc
văn từ bang giao với nước ngoài. Lương thế Vinh là một nhà giáo dục giỏi. Ông
đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử , đưa việc học xuống tận
nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Đặc biệt, Lương
thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã
biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa
toán đầu tiên ở nước ta. Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng
trong công sở và trong nhân dân. Dân quý mến gọi ông là Trạng Lường, tức là
ông Trạng giỏi tính toán, đo lường. Lương Thế Vinh còn có những công trình về
âm nhạc nhờ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng
nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội.
|
Lương
Thế Vinh
|
161.
|
Lưu Quang Vũ
|
Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê quán xã
Thiệu Cơ, Hạ Hòa, Phú Thọ, ông là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà văn hiện đại
của Việt Nam. Năm 1978 ông làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt đầu sáng
tác kịch nói. Các tác phẩm của ông giàu tính hiện thực và nhân văn, được dàn
dựng thành công như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở
hoa hồng”… Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân
khấu.
|
Lưu
Quang Vũ
|
162.
|
An Dương Vương
|
An Dương Vương tên thật là Thục Phán,
là vị vua lập lên nược Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước
này. Âu Lạc là nhà nược thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau nhà nước Văn Lang
đầu tiên của các vua Hùng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục ghi thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm (từ 257 TCN đến
208TCN). Căn cứ và Sử ký Tư Mã Thiên thì cho rằng An Dương Vương và nước Âu
Lạc tồn tại gần 30 năm (từ 208 TCN đến 179 TCN). Ông là người xây thành Cổ Loa
và phát triển thủy binh, cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế vững
chắc cho Cổ Loa.
|
An
Dương Vương
|
163.
|
Hùng Vương
|
Theo truyền thuyết, là con trai của
Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong "Lĩnh Nam chích
quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc
trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với
Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con
cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang,
đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng
Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này
vào chính sử như "Đại
Việt sử lược"(thời Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời
Lê). "Đại
Việt sử lược" xếp
Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696
- 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương Vương
đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ
năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm
thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính
ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt
sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta
4.000 năm. Chúng ta chưa có cứ liệu để biết các sách biên niên sử nói trên đã
dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.
|
Hùng
Vương
|
164.
|
Kinh Dương Vương
|
Kinh Dương Vương là bậc thánh trí có
tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khoẻ phi thường. Kinh Dương Vương
thành lập nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879TCN), đặt quốc
hiệu là Xích Quỷ, đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Thống, Can Lộc, Hà Tĩnh).
Sau đó rời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là
Thần Long, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng
là Lạc Long Quân.
|
Kinh
Dương Vương
|
165.
|
Triệu Việt Vương
|
Triệu Việt Vương là
miếu hiệu của Triệu Quang Phục, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, trước
phò Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân (544), rồi tự mình lên ngôi, xây căn cứ Dạ
Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) chống quân xâm lược nhà Lương; sau bị Lí Phật Tử
đánh bại, chạy về đến cửa Đại An (Nam Định) thì mất.
|
Triệu
Việt Vương
|
166.
|
Nguyễn Viết Xuân
|
Nguyễn Viết Xuân sinh
ngày 20/1/1933 tại thôn Thượng xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 05/11/1952, Ông nhập ngũ và trở thành chiến sỹ của C3 Đoàn 99. Sau đó
Ông trở thành chiến sỹ trinh sát của C832 D396. Ngày 18/11/1964, tại trận địa
phòng không miền Tây tỉnh Quảng Bình. Máy bay phản lực Mỹ nhằm vào trận địa
ném bom. Anh em trong đơn vị chưa quen bắn pháo nên có phần lúng túng, Ông đã
kịp thời động viên: “các đồng chí hãy vững vàng, dũng cảm nhìn thẳng máy bay
mà bắn.
Ngày 19/11/1964, Nguyễn
Viết Xuân hi sinh nhưng lời hô bất hủ của Ông “Nhằm thẳng quân thù, bắn ! ” còn vang vọng. Cảm phục trước
tấm gương hy sinh anh dũng, toàn quân đã noi gương Ông. Tổ quốc ghi nhớ công
lao của Ông. Ngày 01/01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quyết định phong
tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang cho liệt Sĩ Nguyễn Viết Xuân.
|
Nguyễn
Viết Xuân
|
167.
|
Nguyễn Xí
|
Nguyễn Xí (1396-1465),
là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Những năm 1421 và 1422, Nguyễn Xí là một trong
những tướng có công đánh tan cuộc tấn công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo
vệ an toàn Bộ chỉ huy Lam Sơn và lãnh tụ của Lam Sơn là Bình Định Vương Lê
Lợi. Năm 1427, ông đã phối hợp với tướng Lê Sát hạ thành, bắt sống các tướng
Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc, góp phần to lớn vào việc đánh chặn viện binh
giặc, tạo điều kiện cho đại quân hạ thành Đông Quan, giải phóng đất nước vào
năm 1427. Tháng 6.1460, ông cùng đại thần Đinh Liệt, Lê Niệm phế truất Nghi
Dân đưa Gia vương (Lê Thánh Tông) lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Xí được coi là
một tướng tài từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ cho đến Lê Thánh Tông, đem lại
nhiều thắng lợi trên hai mặt trận quân sự và chính trị.
|
Nguyễn
Xí
|
168.
|
Lê Anh Xuân
|
Lê Anh Xuân (1940 -
1968), là nhà văn, liệt sĩ. Anh từng học Đại học tổng hợp Hà Nội sau đó, được
cử đi học ở nước ngoài, nhưng đã xin được về quê hương chiến đấu. Anh hy sinh
ngày 25/5/1968 trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 ở vùng phụ cận Sài
Gòn, ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Lê Anh Xuân
có 3 tập thơ đã xuất bản "Tiếng gà gáy", "Hoa dừa",
"Trường ca Nguyễn Văn Trỗi", trong đó có bài thơ nổi tiếng "Dáng
đứng Việt Nam". Năm 2001, Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng Nhà
nước về văn học nghệ thuật và được truy tặng anh hùng lực lượng vũ trang năm
2011.
|
Lê
Anh Xuân
|
169.
|
Trần Tế Xương
|
Trần Tế Xương (1870-1907)
tên thật Trần Duy Uyên, quê huyện Mỹ Lộc, Nam Định; có tài văn thơ nhưng đi
thi 8 lần mà chỉ đỗ Tú tài nên thường gọi là Tú Xương; nổi tiếng với thơ trào
phúng, là tác giả Vị Xuyên thi văn tập.
|
Trần
Tế Xương
|
b) Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân, anh hùng lao động của tỉnh Điện Biên
TT
|
Họ
và tên
|
Quê
quán
|
Chiến
công
|
Đơn
vị công tác
|
Tên
dự kiến đặt
|
170.
|
Phạm
Thanh Bình
|
Gia Lộc,
Tứ Lộc, Hải Dương
|
Hy sinh 17/8/1996 trong khi dũng cảm
cứu dân vùng lũ, được phong tặng danh hiệu anh hiệu anh hùng LLVT Quyết định
số 341KT/CTN ngày 22/7/1998 của Chủ tịch nước.
|
Công
an huyện Mường Chà.
|
Phạm
Thanh Bình
|
171.
|
Nguyễn
Văn Bôn
|
Kinh
Bắc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
|
Cuối tháng 9-1959, thầy giáo trẻ Nguyễn
Văn Bôn cùng các đồng nghiệp khác đã vượt rừng, lội suối vào huyện Mường Tè,
tỉnh Lai Châu - vùng đất xa xôi và hoang vu để dạy chữ. Lúc đó, muốn đi từ
bản nọ sang bản kia của xã Mù Cả, huyện Mường Tè phải hết 1 ngày đường. Thấy
dân cư quá thưa thớt, thầy giáo Bôn tính chuyện tập trung học trò lại để học.
Rồi ông kéo học sinh về “ký túc xá” của trường ở bản Mù Cả, vận động bà con
đóng góp dựng lều lán cho con em mình ở, cho các em mang gạo đến trường tự
thổi cơm, đi học. Học sinh lớp 3 đã biết tự sản xuất lúa gạo, thu hoạch được
hàng tấn thóc, lập thành những kho lúa khổng lồ lúc ấy. Nhà trường còn đổi
thóc lấy đèn măng xông, máy phát nhạc phục vụ việc học, đổi lấy trâu bò để
cày cấy nữa”… Với những thành tích trong thời gian dạy học ở xã Mù Cả, năm
1962 thầy giáo Nguyễn Văn Bôn được về thủ đô Hà Nội để báo cáo điển hình, được
gặp Bác Hồ, được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh ký phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục nước nhà và là Anh hùng Lao động
của tỉnh Lai Châu.
|
|
Nguyễn
Văn Bôn
|
172.
|
Phạm
Văn Cường
|
An Thành,
Tứ Kỳ, Hải Dương
|
Hy sinh 17/8/1996, trong khi truy bắt
tội phạm ma túy đặc biệt nguy hiểm, được phong tặng danh hiệu anh hiệu anh
hùng LLVT Quyết định số 879/2002/QĐ-CTN ngày 10/12/2002 của Chủ tịch nước
|
Phòng
cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Điện Biên.
|
Phạm
Văn Cường
|
173.
|
Quàng
Văn Dinh
|
Xã Quài
Cang, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
|
Đã đạt thành tích đặc biệt xuất sắc
trong phong trào thi đua cải tiến sản xuất nông nghiệp giai đoạn (1957-1967),
góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
|
|
Quàng
Văn Dinh
|
174.
|
Vừ A
Dính
|
Xã Pú
Nhung, huyện Tuần Giáo, Điện Biên
|
Năm 1949, Vừ A Dính được các đội viên
Đội xung phong Quyết Tiến khi vào hoạt động ở các xã vùng cao của huyện Tuần
Giáo giác ngộ và tham gia cách mạng. Năm 1950, khi Đội công tác Tuần Giáo
(sau là Ban cán sự Đảng huyện Tuần Giáo, Ban Cán sự Đảng liên huyện Tuần -
Lai) vào hoạt động thay cho Đội xung phong Quyết Tiến đi nhận nhiệm vụ khác thì
Vừ A Dính làm liên lạc cho Đội công tác Tuần Giáo và Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai
Châu. Đến tháng 12-1951, sau hơn hai năm hoạt động cách mạng Vừ A Dính đã bị
địch bắt trong khi đang thực hiện nhiệm vụ và đã hy sinh để bảo vệ cán bộ Đảng,
bảo vệ cơ sở cách mạng khi mới 17 tuổi, để lại trong lòng dân tộc Việt Nam và
đồng bào các dân tộc tỉnh Lai Châu một tấm gương sáng ngời. Năm 1952, Vừ A
Dính được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ truy tặng Huân chương Quân công
hạng Nhì. Năm 1953, tại Hội nghị liên hoan các chiến sĩ xuất sắc của tỉnh Lai
Châu, Vừ A Dính được bầu là chiến sĩ du kích danh dự của tỉnh, ngày
8-11-2000, Vừ A Dính được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam truy tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
|
Vừ
A Dính
|
175.
|
Quàng
Văn Hao
|
Xã Mường
Mùn, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
|
Đã đạt thành tích đặc biệt xuất sắc
trong phong trào thi đua cải tiến sản xuất nông nghiệp giai đoạn (1975-1985),
góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước.
|
|
Quàng
Văn Hao
|
176.
|
Nguyễn
Văn Hiền
|
Thiệu
Long, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa
|
Sáng 17/2/1979 quân Trung Quốc có xe
tăng, pháo yểm trợ, ồ ạt tấn công đồn Công an VTND số 33 Lai Châu. Đ/c chỉ huy
một phân đội dũng cảm chặn đánh địch ở mũi chính diện. Dưới sự chỉ huy của
đồng chí, phân đội đã đẩy lùi được 15 đợt tấn công liên tiếp của địch, diệt
500 tên, bắn cháy 2 xe tăng. Riêng đồng chí diệt 40 tên. Ngày 18/2/1979 địch
tăng quân, vẫn có xe tăng, pháo binh yểm trợ, ồ ạt tấn công. Đ/c chỉ huy đơn
vị ngoan cường chiến đấu, đẩy nhiều đợt tấn công của địch. Bị thương vào tay,
đồng chí tự băng bó tiếp tục chỉ huy chiến đấu, lần thứ ba bị thương gẫy cả
hai chân, đồng chí vẫn không rời vị trí động viên chiến sỹ biến căm thù thành
sức mạnh phản kích địch quyết liệt. Lực lượng quá chênh lệch, địch dùng chiến
thuật biển người; đạn sắp hết đồng chí lệnh cho 12 chiến sỹ phá vòng vây rút
về phái sau cồn mình tiếp tục chiến đấu đồng chí đã anh dũng hy sinh.
|
Cán bộ
đồng công an vũ trang nhân dân số 33
|
Nguyễn
Văn Hiền
|
177.
|
Tòng
Văn Kim
|
Noong
Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
|
Sáng 17/2/1979, khi quân Trung Quốc
ồ ạt tấn công qua biên giới, đồng chí được guiao nhiệm vụ chỉ huy một tổ (6 đồng
chí) vận động gấp từ Đồn Biên Phòng lên trạm phối hợp đánh địch. Lợi dụng địa
hình và trận địa vững chắc, đồng chí chỉ huy tổ đánh địch, đẩy lùi nhiều đợt
tiến công của địch, tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên.
|
Trung
sỹ tiểu đội trưởng công binh CANDVT Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai
Châu)
|
Tòng
Văn Kim
|
178.
|
Quàng
Văn Liên
|
Huyện
Điện Biên, tỉnh Điện Biên
|
Cùng đồng đội chiến đấu đồng chí tích
cực góp phần bắt 17 tên biệt kích, gián điệp, kêu gọi 11 tên phỉ về hàng, thu
giữ nhiều vũ khí, tài liệu của địch. Đồng chí, là một cán bộ luôn kiên định,
vững vàng, gan dạ, dũng cảm phẩm chất đạo đức trong sáng mẫu mực được đồng
đội và nhân dân tin yêu.
|
Chính
trị viên phó Đồn 1 Công an nhân dân vũ trang Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện
Biên và Lai Châu)
|
Quàng
Văn Liên
|
179.
|
Lầu A
Phừ
|
Tả Phình-huyện
Sìn Hồ-tỉnh Lai Châu
|
Sáng ngày 17/2/1979 quân Trung quốc
bắn pháo cấp tập rồi ào ạt chàn sang đánh chiếm Đồn 1. Nhận nhiệm vụ chỉ huy 1
tổ chốt giữ điểm cao, đồng chí đã cùng đồng đội đẩy lùi nhiều đợt tấn công của
địch. Cuộc chiến đấu ác liệt kéo dài, bản thân cùng bị thương nhưng đồng chí
cùng đồng đội cơ động tiếp tục chiến đấu tiêu diệt được nhiều tên địch giành
giật từng đoạn hào, dùng nhiều loại vũ khí như B40, B41, súng AK, lựu đạn..
sau đó đồng chí bị thương nặng. Đêm ấy chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, đồng
chí dẫn đầu đơn vị di chuyển trận địa, tổ chức đưa thương binh cùng đi an
toàn.
|
Chuẩn
úy tiểu đội trưởng nuôi quân Đồn 1 CANDVT Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên
và Lai Châu)
|
Lầu
A Phừ
|
180.
|
Sùng
Phái Sinh
|
Xã Pú
Nhung, huyện Tuần Giáo
|
Tháng 9-1951, bốn lần địch càn vào xã,
tuy chỉ có một mình nhưng Sùng Phái Sinh đã chủ động đánh địch ngay từ khi
chúng chưa vào tới bản, bắn chết 10 tên, buộc chúng phải rút chạy. Lần thứ
tư, chúng huy động 300 quân từ ba hướng càn vào xã; Sùng Phái Sinh báo cho
cán bộ và nhân dân tạm lánh, còn mình khôn khéo lợi dụng rừng cây, di chuyển
cả trên ba hướng. Sau khi bắn chết 3 tên, bắn bị thương nhiều tên và quan sát
thấy chúng đã bắt đầu bắn lẫn nhau, đồng chí nhanh nhẹn lẩn vào rừng. Tháng
2-1952, địch lên cướp phá ở Mai Thuận, Sùng Phái Sinh chỉ huy tổ du kích diệt
4 tên tại chỗ, buộc chúng phải rút. Ngày hôm sau chúng lên 150 tên, thấy lực
lượng địch đông, đồng chí cho chiến sĩ rút, còn mình ở lại luồn rừng, lợi
dụng núi cao, khe đá, ẩn nấp bắn tiêu diệt 7 tên, trong đó có tên quan ba chỉ
huy là Đèo Văn Phát, em trai tên vua Thái phản động Đèo Văn Long, làm cho
địch hoang mang, tháo chạy. Cuối năm 1952, Sùng Phái Sinh gọi hàng được 25
tên, sau đó Sùng Phái Sinh còn chỉ huy du kích truy quét bọn tàn binh, bắt
sống 1 tên Pháp, lấy được 60 khẩu súng và nhiều đạn. Năm 1953, địch rút chạy
khỏi Nà Sản, Sùng Phái Sinh chỉ huy du kích xuyên rừng, đón đường, vây bắt
được 20 tên giặc, ông đã vận động xây dựng được cơ sở cách mạng ở 16 bản,
giáo dục tinh thần tương trợ lẫn nhau và lập được 50 tổ sản xuất, xây dựng
quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc Mông và dân tộc Thái. Sùng Phái Sinh đã được
tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhất, 2 lần là Chiến sĩ thi đua của
Quân khu Tây Bắc. Ngày 7-5-1956, ông được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân.
|
|
Sùng
Phái Sinh
|
181.
|
Khoàng
Văn Tấm
|
Lay Nưa,
Mường Lay, Điện Biên
|
Hy sinh ngày 06/3/1979. Có nhiều thành
tích trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc tại biên giới Việt - Trung, được phong
tặng danh hiệu anh hùng tại Quyết định số 158-LCT ngày 14/8/1990.
|
Tiểu
đoàn cảnh sát cơ động, công an tỉnh Điện Biên
|
Khoàng
Văn Tấm
|
182.
|
Tao
Văn Tem
|
Xã Chà
Tở, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên
|
Là trinh sát viên của đồn, đồng chí
đã xây dựng được nhiều cơ sở, luôn chủ động nắm chắc tình hình. Đồng chí đã cùng
đơn vị, chính quyền địa phương quản lý chắc địa bàn phụ trách. Khi quân Trung
quốc tràn sang, được giao nhiệm vụ chỉ huy một tổ chiến đấu chặn đánh địch,
đồng chí đã mưu trí chỉ huy đơn vị diệt được nhiều tên địch, riêng đồng chí
diệt được 10 tên, toàn tổ đã nêu cao ý trí tiến công địch giữ vững được trận
địa. Chấp hành chỉ thị của trên, đồng chí đã mưu trí dũng cảm, luồn sau lưng
địch, vừa nắm chắc tình hình, vừa phòng ngừa âm mưu, thủ đoạn mới của địch.
Dựa vào cơ sở đồng chí đã bắt, xử lý nhiều tên phản động, chỉ điểm thám báo.
|
Thượng
sỹ, trinh sát viên đồn 1CANDVT Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện
Biên và Lai Châu)
|
Tao
Văn Tem
|
183.
|
Hà Ngọc
Thao
|
Thiệu
Minh, Thiệu Hóa, Thanh Hóa
|
Hy sinh 12/1994 trong khi truy bắt tội
phạm truy nã đặc biệt nguy hiểm, được phong tặng danh hiệu anh hiệu anh hùng
LLVT tại Quyết định số 341KT/CTN ngày 22/7/1998 của Chủ tịch nước.
|
Công
an huyện Điện Biên, Điện Biên
|
Hà
Ngọc Thao
|
184.
|
Trần
Văn Thọ
|
Nỗ Lực,
Cẩm Khê, Phú Thọ
|
Thành tích nổi bật của anh là tham gia
phát động quần chúng, tiễu phỉ, trừ gian. Vận động quần chúng nhân dân đấu
tranh, vạch trần tội ác của các loại đối tượng, gọi phỉ về hàng, riêng Anh
vận động gọi được 2 tên phỉ trở về đầu thú. Theo đề nghị của anh cấp trên đã
phê duyệt bắt 6 tên đặc vụ Tưởng trao trả cho phía Trung quốc, bắt 7 đối tượng
đi tập trung cải tạo. Anh vận động đồng bào các dân tộc xóa mù chữ, trực tiếp
dạy văn hóa cho dân, vận động dân cai nghiện thuốc phiện, xóa bỏ hủ tục lạc
hậu.
|
Tiểu
đội trưởng Đồn công an nhân dân Leng Su Sìn, Mường Nhé, Điện Biên.
|
Trần
Văn Thọ
|
185.
|
Nguyễn
Vũ Tráng
|
Minh
Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
|
Ngày 6/3/1979 lợi dụng sương mù địch
cho nhiều mũi tấn công vào Đồn và Đại đội 5 của CANDVT Lai Châu. Hiệp đồng
chặt chẽ với Đại đội 5, đồng chí đã chỉ huy đơn vị đánh địch quyết liệt, tiêu
diệt 150 tên, thấy khẩu 12,7mm của chốt bạn bị hỏng, đồng chí đã băng qua
lưới đạn của địch đến sửa chữa súng cho đồng đội, bị thương gẫy cả hai chân
đồng chí vẫn ngoan cường chỉ huy đơn vị chiến đấu. Thấy chỉ còn một mình đồng
chí bám trụ, địch hò hét sông lên, đồng chí dùng lựu đạn và súng AK đánh trả
địch và diệt được nhiều tên nữa và sau đó đã anh dũng hy sinh.
|
Chính
trị viên phó Đồn 1 Công an nhân dân vũ trang Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện
Biên và Lai Châu)
|
Nguyễn
Vũ Tráng
|
C) Các Bà mẹ Việt Nam anh hùng của
tỉnh Điện Biên
TT
|
Họ
và tên - năm sinh, năm mất
|
Quê
quán
|
Tổ
quốc ghi công
|
Năm
công nhận
|
Tên
dự kiến đặt
|
186.
|
Giàng
Thị Chom (1910-1945)
|
Mường
Tùng, Mường Chà, Điện Biên
|
Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết
định số 841/QĐ-CTN ngày 24/4/1996 của Chủ tịch nước
|
1996
|
Giàng
Thị Chom
|
187.
|
Lò Thị
Inh (1922-2009)
|
Nà Sáy,
Tuần Giáo, Điện Biên
|
Có một con nuôi duy nhất là liệt sĩ,
Quyết định số 394/CTN ngày 17/12/1994
|
1994
|
Lò
Thị Inh
|
188.
|
Lò Thị
Lón (1915-1979)
|
Búng
Lao, Tuần Giáo, Điện Biên
|
Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết
định số 394/CTN ngày 17/12/1994
|
1994
|
Lò
Thị Lón
|
189.
|
Cà Thị
Mấng (1914-2010)
|
Quài
Nưa, Tuần Giáo, Điện Biên
|
Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết
định số 630/QĐ-CTN ngày 25/5/2006 của Chủ tịch nước
|
2006
|
Cà
Thị Mấng
|
190.
|
Lò Thị
Pánh (1915-2011)
|
Phù Yên,
Sơn La, thường trú: bản Phượng, Thanh Yên, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
|
Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết
định số 630/QĐ-CTN ngày 25/5/2006 của Chủ tịch nước
|
2006
|
Lò
Thị Pánh
|
191.
|
Sùng
Thị PLây (1894-1955)
|
Pú Nhung,
Tuần Giáo, Điện Biên
|
Một con đẻ, chồng, bản thân là liệt
sỹ, Quyết định số 394/CTN ngày 17/12/1994
|
1994
|
Sùng
Thị
PLây
|
192.
|
Cà Thị
Sy (1920-1989)
|
Mường
Pồn, Điện Biên
|
Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết
định số 394/CTN ngày 17/12/1994
|
1994
|
Cà
Thị Sy
|
Tổng cộng: 352 tên (Mục I: 13 tên
+ Mục II: 32 tên + Mục III: 68 tên +Mục IV: 47 tên + Mục V: 192 tên)
|
Quyết định 710/QĐ-UBND năm 2015 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 710/QĐ-UBND ngày 14/08/2015 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên
5.637
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|