Kính gửi:
|
- Các Cục Hải quan tỉnh, thành phố;
- Cục Điều tra chống buôn lậu;
- Cục Kiểm tra sau thông quan.
|
Ngày 13 tháng 11 năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật
số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính,
Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Ngày 16 tháng 11 năm 2021,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải
quan; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; kế toán, kiểm
toán độc lập, Nghị định 102/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành cùng ngày với Luật
67/2020/QH14.
Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định 102/2021/NĐ-CP có một số thay đổi so với
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định 128/2020/NĐ-CP ngày
19/10/2020 (Chi tiết nội dung mới của theo tài liệu gửi kèm công văn này).
Để triển khai thực hiện các văn bản này kịp thời, đầy
đủ, đúng quy định khi các văn bản này có hiệu lực thi hành, Tổng cục Hải quan
yêu cầu:
1. Cục trưởng các Cục Hải quan tỉnh,
thành phố, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau
thông quan tổ chức cho công chức trong đơn vị nghiên cứu kỹ và triển khai thực
hiện các quy định của các văn bản này tại đơn vị mình.
Đồng thời, công khai, tuyên truyền, phổ biến về nội
dung của Luật số 67/2020/QH14, Nghị định 102/2021/NĐ-CP ngày 16/11/2021 cho người
khai hải quan, người nộp thuế biết, thực hiện.
2. Trong quá trình thực hiện, nếu
có khó khăn, vướng mắc, các đơn vị phản ánh kịp thời về Tổng cục (qua Vụ Pháp
chế) để nghiên cứu, xem xét, giải quyết.
Tổng cục Hải quan thông báo để các đơn vị biết, thực
hiện./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thứ trưởng Vũ Thị Mai;
- Đ/c Tổng cục trưởng;
- Vụ Pháp chế - Bộ TC;
- Cục GSQL, Cục Thuế XNK, Vụ Thanh tra - Kiểm tra;
- Lưu: VT, PC (2b).
|
KT. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Mai Xuân Thành
|
TÀI LIỆU GIỚI THIỆU
LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH NĂM 2020, NGHỊ ĐỊNH
102/2021/NĐ-CP NGÀY 16/11/2021
(Ban hành kèm theo công văn số 5820/TCHQ-PC ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Tổng
cục Hải quan)
Ngày 13 tháng 11 năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sau đây viết tắt
là Luật số 67/2020/QH14), Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2022.
Ngày 16 tháng 11 năm 2021, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 102/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải quan; kinh doanh bảo
hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; kế toán, kiểm toán độc lập (sau
đây viết tắt là Nghị định 102/2021/NĐ-CP). Theo đó, tại Điều 2
Nghị định này đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
128/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan. Nghị định 102/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Tổng cục Hải quan giới thiệu một số nội dung mới,
cơ bản của Luật số 67/2020/QH14 và Nghị định 102/2021/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
1. Những quy định chung
Luật số 67/2020/QH14, Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã sửa
đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật XLVPHC bao gồm:
1.1. Về khái niệm tái phạm
Khoản 1 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14
đã sửa đổi, bổ sung khái niệm tái phạm quy định tại khoản 5 Điều
2 Luật XLVPHC theo hướng quy định rõ hơn khái niệm tái phạm so với hiện
nay. Theo đó, tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt.
1.2. Về nguyên tắc xử phạt đối với vi phạm
hành chính nhiều lần
Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC
quy định: Một người “vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm”. Trong khi đó, điểm b khoản 1 Điều 10 Luật
XLVPHC lại quy định “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng
nặng, theo đó, đây là tình tiết được người có thẩm quyền xem xét khi quyết định
xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung
nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật XLVPHC như sau: Một người thực
hiện vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ
trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình
tiết tăng nặng.
Trên cơ sở quy định của Luật số 67/2020/QH14, khoản 1 Điều 2 Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã bổ sung Điều 2a sau Điều 2 Nghị định 128/2020/NĐ-CP để cụ thể quy định nêu trên của
Luật số 67/2020/QH14 theo hướng: Một số hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm, một số hành vi vi phạm bị xử phạt một lần và áp dụng tình tiết
tăng nặng vi phạm nhiều lần đối với vi phạm đó, cụ thể:
“Điều 2a. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan đối với vi phạm hành chính nhiều lần
Tổ chức, cá nhân thực hiện vi phạm hành chính
nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ các trường hợp sau: thực
hiện từng hành vi vi phạm quy định tại các điểm a, b, d khoản 1, điểm a khoản 3
Điều 7; các khoản 1, 2, 3, điểm d khoản 4, các điểm a, b, c, d khoản 6 Điều 8; điểm
a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 11 Nghị định này trên nhiều tờ khai/chứng từ thuộc
hồ sơ hải quan ở các thời điểm đăng ký tờ khai hải quan khác nhau, được phát hiện
ở cùng một thời điểm nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý thì xử phạt
vi phạm hành chính một lần về hành vi vi phạm, đồng thời áp dụng tình tiết tăng
nặng vi phạm hành chính nhiều lần đối với hành vi vi phạm hành chính đó.”
1.3. Về quy định hành vi vi phạm hành chính
đã kết thúc, hành vi vi phạm đang thực hiện
Tại khoản 3 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 giao Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết
thúc, hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện để làm cơ sở tính thời hiệu xử
phạt theo quy định tại Điều 6 Luật XLVPHC. Theo đó, khoản 2 Điều 2 Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung Điều 4 Nghị định 128/2020/NĐ-CP theo hướng bổ sung thêm khoản
5, khoản 6 vào Điều 4 Nghị định 128/2020/NĐ-CP để quy định
về cách thức xác định hành vi, nhóm hành vi nào là đã kết thúc và hành vi vi phạm
hành chính đang thực hiện, theo nguyên tắc loại trừ, nhóm hành vi được xác định
là hành vi đã kết thúc, thời điểm kết thúc hành vi đó tương ứng và những hành
vi còn lại là đang được thực hiện. Cụ thể:
“5. Các hành vi vi phạm được xác định là đã kết
thúc và thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm như sau:
a) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại Điều 7 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm thực hiện thủ tục hải
quan, nộp hồ sơ thuế;
b) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại Điều 8 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm đăng ký tờ khai hải
quan; thời điểm nộp bản khai hàng hóa, danh sách hành khách, bản khai hành lý của
hồ sơ phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
c) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại Điều 10 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm người xuất cảnh, nhập
cảnh hoàn thành việc khai hải quan;
d) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm nộp,
xuất trình hoặc gửi chứng từ thuộc hồ sơ hải quan cho cơ quan hải quan theo tờ
khai hải quan đã được đăng ký;
đ) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm người
nộp thuế thực hiện sửa đổi, bổ sung báo cáo quyết toán;
e) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 11 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm người
nộp thuế nộp báo cáo quyết toán;
g) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại điểm a khoản 7 Điều 11 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm khai,
nộp, xuất trình chứng từ, tài liệu cho cơ quan hải quan;
h) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại điểm b khoản 7 Điều 11 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm dừng
sử dụng bất hợp pháp tài khoản đăng nhập, chữ ký số được cấp cho tổ chức, cá
nhân khác để thực hiện thủ tục hải quan;
i) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại điểm c khoản 7 Điều 11 Nghị định này, thời điểm chấm dứt là thời điểm dừng
truy cập trái phép, làm sai lệch, phá hủy hệ thống thông tin hải quan;
k) Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định
tại Điều 9; khoản 8 Điều 11; các điểm b, c, đ, e, h khoản 1 Điều 14; khoản 1 Điều
15; Điều 16; Điều 17; Điều 18; Điều 19; Điều 20; Điều 21; Điều 22 Nghị định
này, thời điểm chấm dứt là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.
6. Các hành vi vi phạm hành chính quy định tại
Nghị định này mà không thuộc trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này được xác
định là hành vi vi phạm đang được thực hiện.”
1.4. Về mức phạt đối với một hành vi vi phạm
khi có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
Tại các khoản 3, khoản 8 Điều 1 Luật
số 67/2020/QH14 (sửa đổi, bổ sung Điều 4 và khoản 4 Điều 23
Luật XLVPHC) giao Chính phủ quy định hình thức xử phạt, mức xử phạt tiền cụ
thể đối với một hành vi vi phạm hành chính khi có tình tiết tăng năng, giảm nhẹ.
Căn cứ các quy định này, tại khoản 3 Điều 2 Nghị định
102/2021/NĐ-CP đã bổ sung quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm (%) tăng hoặc giảm
tương ứng với mỗi tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi xác định mức phạt trong
khung cho từng hành vi, theo đó bổ sung các điểm đ, e vào sau điểm
d khoản 3 Điều 5 Nghị định 128/2020/NĐ-CP nội dung:
“đ) Khi phạt tiền, mức phạt tiền cụ thể đối với
một hành vi vi phạm hành chính quy định tại các Điều 7, Điều 8, Điều 10, Điều
11, Điều 12, Điều 13, Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều
21, Điều 22, Điều 23, Điều 24 và các khoản 1, 3, 4 Điều 25 Nghị định này là mức
trung bình của khung phạt tiền được quy định đối với hành vi đó. Nếu có tình tiết
giảm nhẹ, thì mỗi tình tiết được giảm 10% mức tiền phạt trung bình của khung tiền
phạt nhưng mức phạt tiền đối với hành vi đó không được giảm quá mức tối thiểu của
khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mỗi tình tiết tăng nặng được
tính tăng 10% mức tiền phạt trung bình của khung tiền phạt nhưng mức phạt tiền
đối với hành vi đó không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
e) Khi xác định mức phạt tiền đối với một hành
vi vi phạm hành chính vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì
được giảm trừ tình tiết tăng nặng theo nguyên tắc một tình tiết giảm nhẹ được
giảm trừ một tình tiết tăng nặng.”
1.5. Về hành vi bị nghiêm cấm trong xử phạt
vi phạm hành chính
Tại khoản 5 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 đã bổ sung số hành vi bị nghiêm cấm trong xử phạt vi phạm hành
chính vào Điều 12 Luật XLVPHC như sau: Xác định hành vi vi
phạm hành chính không đúng; áp dụng mức xử phạt không đúng, không đầy đủ đối với
hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.
1.6. Về việc hủy bỏ, ban hành mới, đính
chính, sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Tại khoản 7 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 18 Luật
XLVPHC theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung việc đính
chính, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định hành chính mới. Theo
đó, tại dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Nghị định số
97/2017/NĐ-CP đang xây dựng các nội dung liên quan đến các trường hợp hủy bỏ,
ban hành quyết định mới, đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định
trong xử phạt vi phạm hành chính; thời hạn thực hiện và nội dung đính chính, sửa
đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định; hiệu lực, thời hạn, thời
hiệu thi hành quyết định đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần hoặc
toàn bộ, quyết định mới ban hành.
2. Về thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính
2.1. Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xử phạt của
hải quan đối với một số chức danh
Căn cứ quy định tại khoản 15 Điều 1
Luật số 67/2020/QH14 về việc sửa đổi, bổ sung Điều 42 Luật
XLVPHC, tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã
sửa đổi các quy định tại Điều 29 Nghị định 128/2020/NĐ-CP
theo hướng bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của
Hải quan như:
Tổ trưởng thuộc Chi cục Hải quan; Tổ trưởng thuộc Đội
Kiểm soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
có thẩm quyền xử phạt tương đương với Đội trưởng thuộc Chi cục Hải quan.
Cấp Chi cục Hải quan, bổ sung thẩm quyền xử phạt của
Đội trưởng Đội Điều tra hình sự, Đội trưởng Đội Kiểm soát chống buôn lậu hàng
giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu, Chi cục
trưởng Chi cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Kiểm tra sau thông quan.
2.2. Sửa đổi về thẩm quyền áp dụng hình thức
tịch thu tang vật vi phạm hành chính
Căn cứ quy định tại khoản 15 Điều 1
Luật số 67/2020/QH14 về việc sửa đổi, bổ sung Điều 42 Luật
XLVPHC thì thẩm quyền của hải quan có một số thay đổi liên quan đến tăng thẩm
quyền tịch thu tang vật vi phạm hành chính cho một số chức danh. Căn cứ quy định
trên, khoản 4 Điều 2 Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã sửa đổi
các quy định tại Điều 29 Nghị định 128/2020/NĐ-CP về thẩm
quyền tịch thu tang vật vi phạm hành chính của một số chức danh của cơ quan hải
quan như sau:
Cấp Chi cục trưởng Chi cục Hải quan và tương đương
có thẩm quyền tịch thu tang vật vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 02
lần mức tiền phạt thuộc thẩm quyền của mình (Tịch thu tang vật có trị giá
không vượt quá 50.000.000 đồng đối với cá nhân, 100.000.000 đồng đối với tổ chức).
Cấp Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành
phố có thẩm quyền tịch thu tang vật vi phạm hành chính không bị giới hạn giá trị
tang vật theo tiền phạt như Luật XLVPHC hiện hành.
2.3. Về thẩm quyền xử phạt của các chức danh
khi có sự thay đổi tên gọi
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định cụ
thể về trường hợp chức danh có sự thay đổi về tên gọi nhưng không có sự thay đổi
về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó được giữ nguyên;
và trường hợp có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn (tên gọi được giữ nguyên hoặc
có sự thay đổi) thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định
sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. (Khoản 27
Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi Điều 53 Luật XLVPHC).
2.4. Về giao quyền xử phạt
Tại khoản 28 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 54 Luật XLVPHC về
giao quyền xử phạt với các nội dung:
Cấp trưởng có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính. Việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được
thực hiện thường xuyên hoặc theo vụ việc, đồng thời cấp phó được giao quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.
Luật số 67/2020/QH14 giao Chính phủ quy định chi tiết
Điều này. Theo đó, dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Nghị
định số 97/2017/NĐ-CP đang xây dựng một Điều quy định cụ thể về các trường hợp
giao quyền, trường hợp chấm dứt việc giao quyền, mẫu quyết định giao quyền...
3. Về thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính
So với Luật XLVPHC hiện hành, Luật số 67/2020/QH14
đã sửa đổi, bổ sung quy định về lập biên bản vi phạm hành chính và một số quy định
liên quan đến thủ tục xử phạt, cụ thể:
3.1. Về việc lập biên bản vi phạm hành chính
Khoản 29 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 58 Luật XLVPHC về
lập biên bản vi phạm hành chính, theo đó:
3.1.1. Về địa điểm lập biên bản vi phạm hành
chính
Biên bản vi phạm hành chính phải được lập tại nơi xảy
ra hành vi vi phạm hành chính. Trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập
tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền lập biên bản hoặc địa điểm khác thì
phải ghi rõ lý do vào biên bản.
3.1.2. Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức
vi phạm không ký vào biên bản
Theo Luật XLVPHC hiện hành trường hợp người vi phạm,
đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh
hoặc vì lý do khách quan mà không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của
đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của 02 người chứng kiến.
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung nội dung
này như sau: Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không ký vào
biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra
vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi
phạm không ký vào biên bản.
3.1.3. Trường hợp biên bản vi phạm hành chính
không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản
Luật XLVPHC hiện hành quy định trường hợp vi phạm
hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản
phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt. Luật số 67/2020/QH14 đã
sửa đổi, bổ sung quy định này với nội dung: Trường hợp vi phạm hành chính
không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài
liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ
kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập
trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa.
3.1.4. Về biên bản vi phạm hành chính có sai sót
Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy định về việc xử
lý đối với trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót, cụ thể: Trường
hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính
xác các nội dung quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này thì phải tiến hành
xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59 của
Luật này để làm căn cứ ra quyết định xử phạt. Việc xác minh tình tiết của vụ việc
vi phạm hành chính được lập thành biên bản xác minh. Biên bản xác minh là tài
liệu gắn liền với biên bản vi phạm hành chính và được lưu trong hồ sơ xử phạt.
3.1.5. Nội dung khác về biên bản vi phạm hành
chính
Luật số 67/2020/QH14 bổ sung một số quy định liên
quan đến cách thức lập biên bản, yêu cầu về trình tự, thủ tục lập biên bản như:
- Biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi
bằng phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử
phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật,
thông tin;
- Biên bản vi phạm hành chính phải được lập đúng
nội dung, hình thức, thủ tục theo quy định của Luật này và là căn cứ ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính.
3.2. Quy định việc thi hành các biện pháp khắc
phục hậu quả trong lĩnh vực hải quan
Theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật
số 67/2020/QH14, Chính phủ được giao quy định cụ thể về các vấn đề liên
quan đến việc thi hành các biện pháp khắc phục hậu quả, quy định cụ thể về thủ
tục, cách thức thực hiện các biện pháp này.
Căn cứ quy định này, tại khoản 8 Điều
2 Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã bổ sung Điều 33a sau Điều 33
Nghị định 128/2020/NĐ-CP để quy định cụ thể việc thi hành các biện pháp khắc
phục hậu quả trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan với nội dung:
“1. Khi cá nhân, tổ chức thi hành biện pháp buộc
đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc buộc tái xuất
đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cơ quan hải quan thực hiện việc
giám sát chặt chẽ từ nơi lưu giữ hàng hóa vi phạm đến cửa khẩu tái xuất.
Kết quả giám sát phải được Hải quan cửa khẩu xác
nhận bằng văn bản hoặc các phương thức điện tử khác và gửi lại cho cơ quan hải
quan đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 05 (năm) ngày kể
từ ngày tang vật, phương tiện vi phạm đã đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái
xuất để lưu hồ sơ vụ việc.
2. Biện pháp buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc buộc tái xuất tại cửa khẩu nhập đối với tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính đang được lưu giữ tại khu vực cửa khẩu thì cơ quan hải quan phải thực hiện
việc giám sát chặt chẽ để đảm bảo tang vật, phương tiện vi phạm đã đưa ra tại cửa
khẩu nhập. Kết quả giám sát được ghi nhận lại tại biên bản để lưu hồ sơ hải
quan;
b) Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm
không còn được lưu giữ tại khu vực cửa khẩu nhập thì cơ quan hải quan giám sát
chặt chẽ từ nơi lưu giữ tang vật, phương tiện vi phạm đến cửa khẩu đã nhập để
tái xuất. Kết quả giám sát phải được Hải quan cửa khẩu xác nhận bằng văn bản hoặc
các phương thức điện tử khác và gửi lại cho cơ quan hải quan đã ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 05 (năm) ngày kể từ ngày tang vật,
phương tiện vi phạm đã đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất để lưu hồ sơ
vụ việc.
3. Khi cá nhân, tổ chức thi hành biện pháp buộc
thực hiện việc vận chuyển hàng hóa quá cảnh, chuyển cảng, chuyển khẩu, chuyển cửa
khẩu, hàng kinh doanh tạm nhập, tái xuất đúng cửa khẩu, tuyến đường quy định
thì Chi cục Hải quan nơi vận chuyển đi có trách nhiệm giám sát hàng hóa vận
chuyển đi và phối hợp với Chi cục Hải quan cửa khẩu nơi hàng hóa vận chuyển đến
hoặc các cơ quan liên quan để hàng hóa được vận chuyển đảm bảo đúng tuyến đường,
cửa khẩu theo quy định.
4. Khi thi hành biện pháp buộc loại bỏ bao bì,
nhãn hàng hóa đã thay đổi do hành vi vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính có thể thực hiện bằng các hình thức: gỡ bỏ, hủy bỏ và phải làm lại bao
bì, nhãn hàng hóa đúng nguyên trạng ban đầu.
Khi thi hành biện pháp buộc loại bỏ yếu tố vi phạm
trên nhãn hàng hóa trước khi đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể thực hiện bằng
các hình thức: xóa bỏ, gỡ bỏ, hủy bỏ các yếu tố vi phạm trên nhãn hàng hóa.
5. Khi thi hành biện pháp buộc tiêu hủy hàng
hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường,
văn hóa phẩm có nội dung độc hại, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính căn cứ vào
tính chất, đặc điểm của hàng hóa, vật phẩm và yêu cầu đảm bảo vệ sinh môi trường
để thực hiện tiêu hủy theo các hình thức sau đây: sử dụng hóa chất, sử dụng biện
pháp cơ học, hủy đốt, hủy chôn, hình thức khác theo quy định của pháp luật. Cơ
quan hải quan giám sát việc tiêu hủy trực tiếp hoặc giám sát bằng các phương tiện
kỹ thuật khác (nếu có).
Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính thực hiện việc
tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm phải lập biên bản tiêu hủy theo mẫu được ban hành
kèm theo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử
lý vi phạm hành chính.
Biên bản tiêu hủy phải có chữ ký của các thành
phần tham gia tiêu hủy và đại diện cơ quan hải quan giám sát việc tiêu hủy. Sau
khi tiêu hủy, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp 01 biên bản tiêu hủy và các chứng
từ liên quan đến việc tiêu hủy cho cơ quan hải quan đã ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, trong thời hạn 05 (năm) ngày kể từ ngày tiêu hủy.
6. Khi thi hành biện pháp buộc nộp lại số tiền bằng
trị giá tang vật đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật,
cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính thực hiện nộp lại số tiền tương ứng ghi
trên quyết định xử phạt.
7. Cá nhân, tổ chức thi hành biện pháp buộc nộp
đủ số tiền thuế trốn, số tiền thuế thiếu; buộc nộp đủ số tiền thuế đã được miễn,
giảm, hoàn, không thu không đúng được ghi trên quyết định ấn định thuế vào tài khoản
của Kho bạc Nhà nước và nộp 01 bản chụp giấy nộp tiền (nếu nộp tiền mặt) cho cơ
quan hải quan đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo dõi, lưu hồ sơ vụ
việc.
8. Cá nhân, tổ chức thi hành biện pháp buộc dán
tem “Vietnam duty not paid” trước khi bày bán hàng hóa tại cửa hàng miễn thuế
hoặc trước khi giao cho đối tượng mua hàng trong trường hợp hàng hóa được xuất
thẳng từ kho chứa hàng miễn thuế đến đối tượng mua hàng. Vị trí dán tem
“Vietnam duty not paid” thực hiện theo các quy định của Chính phủ về kinh doanh
hàng miễn thuế.”.
3.3. Về thời hạn định giá tang vật
Luật số 67/2020/QH14 quy định tăng thời hạn định
giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều
60 Luật XLVPHC từ 24 giờ lên 48 giờ để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực
tiễn.
3.4. Về các trường hợp và thủ tục giải trình
3.4.1. Trường hợp giải trình bằng văn
bản, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn bản giải trình cho người
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính từ “trong thời hạn 05 ngày làm
việc”, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính (Luật XLVPHC quy định thời
hạn này là “trong thời hạn không quá 05 ngày”). Trường hợp vụ việc có
nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền xử phạt có thể gia hạn nhưng
không quá 05 ngày làm việc theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm (Luật
XLVPHC quy định thời hạn này là không quá 05 ngày).
Đồng thời, Luật số 67/2020/QH14 quy định rõ việc
gia hạn của người có thẩm quyền xử phạt phải bằng văn bản.
3.4.2. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp,
Luật số 67/2020/QH14 sửa quy định về việc người có thẩm quyền xử phạt phải
thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời gian và địa điểm tổ chức phiên
giải trình trực tiếp “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ
ngày nhận được yêu cầu của người vi phạm (Luật XLVPHC quy định là “trong thời
hạn 05 ngày”).
Bên cạnh đó, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung 01 khoản
(khoản 4 Điều 61) quy định về trường hợp cá nhân, tổ chức
vi phạm hành chính không yêu cầu giải trình nhưng trước khi hết thời hạn lại có
yêu cầu giải trình thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách
nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm.
3.5. Về tịch thu tang vật vi phạm hành chính
và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra quyết định xử
phạt, hết thời hiệu thi hành, thời hiệu cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
3.5.1. Luật số 67/2020/QH14 quy định: Người
có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những trường
hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 Luật
XLVPHC, nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ,
cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử
phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành
vi vi phạm hành chính đó.
Việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp này không bị coi là
đã bị xử phạt vi phạm hành chính.
3.5.2. Đối với trường hợp quá thời hiệu thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quy định tại khoản
1 Điều 74 Luật XLVPHC) thì không thi hành quyết định đó nữa, nhưng vẫn phải
tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nếu quyết định
xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả.
3.5.3. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính
Về thẩm quyền cưỡng chế: khoản 44 Điều
1 Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 87 Luật
XLVPHC về thẩm quyền cưỡng chế theo hướng bổ sung chức danh có thẩm quyền
ra quyết định cưỡng chế gồm: Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu hàng giả
và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu; Chi cục trưởng
Chi cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Kiểm tra sau thông quan.
Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có thể
giao quyền cho cấp phó (Luật XLVPHC quy định cấp trưởng chỉ giao quyền cho cấp
phó khi vắng mặt).
Ngoài ra, tại khoản 45 Điều 1 Luật
số 67/2020/QH14 đã bổ sung khoản 2a Điều 88 Luật XLVPHC
để quy định nội dung: đối với trường hợp quá thời hiệu thi hành quyết định cưỡng
chế thì không thi hành quyết định cưỡng chế đó, nhưng vẫn phải cưỡng chế tịch
thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp
quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
3.6. Về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính
Tại khoản 34 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 66 Luật XLVPHC về
thời hạn ra quyết định xử phạt như sau:
3.6.1. Đối với vụ việc vi phạm hành chính
thông thường thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể
từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ
sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10
ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính (Luật XLVPHC quy
định thời hạn này là 07 ngày).
3.6.2. Riêng đối với vụ việc mà cá nhân, tổ
chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định
tại Điều 59 của Luật XLVPHC thì thời hạn ra quyết định xử
phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ
việc thuộc trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh
các tình tiết có liên quan mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp,
cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định
xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. (Luật
XLVPHC quy định thời hạn này là 30 ngày, 60 ngày).
Ngoài ra, Luật số 67/2020/QH14 đã không còn quy định
về thủ tục gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt.
4. Về biện pháp tạm giữ tang vật,
phương tiện
4.1. Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung
quy định cụ thể về thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị của tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính vào khoản 3 Điều 125 Luật XLVPHC
4.2. Về thời hạn tạm giữ
Khoản 64 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định Điều 125 Luật
XLVPHC về thời hạn tạm giữ như sau:
Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề không quá 07 ngày làm việc, kể từ
ngày tạm giữ; trường hợp vụ việc phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử
phạt thì thời hạn tạm giữ không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày tạm giữ.
(Luật XLVPHC quy định thời hạn này là 07 ngày).
Riêng đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu
giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật XLVPHC thì thời hạn tạm giữ có thể được kéo
dài nhưng không quá 01 tháng, kể từ ngày tạm giữ. Đối với vụ việc thuộc
trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình
tiết có liên quan mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có
thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn tạm giữ có thể được
tiếp tục kéo dài nhưng không quá 02 tháng, kể từ ngày tạm giữ. (Luật
XLVPHC quy định thời hạn này là 30 ngày, 60 ngày).
Ngoài ra, Luật số 67/2020/QH14 đã không còn quy định
về thủ tục gia hạn thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề được tính từ thời điểm tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ thực tế.
Trường hợp tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử
phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 125 thì thời hạn tạm
giữ kết thúc khi quyết định xử phạt được thi hành xong.
4.3. Về trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật,
phương tiện
Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định tại
các khoản 4 và 9 Điều 125 Luật XLVPHC theo hướng:
(i) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính đang giải quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện; sau
đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo
cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ;
(ii) Bỏ quy định về việc người có thẩm quyền ra quyết
định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ;
(iii) Khi tiến hành tạm giữ phải niêm phong tang vật,
phương tiện trừ: Động vật, thực vật sống; hàng hóa dễ hư hỏng, khó bảo quản; Việc
niêm phong phải tiến hành trước mặt người vi phạm, nếu vắng mặt thì tiến hành
trước đại diện gia đình, đại diện tổ chức hoặc chính quyền cấp xã hoặc 01 người
chứng kiến.
5. Về xử lý tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu
5.1. Đối với tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính bị tạm giữ, khoản 4 Điều 126 đã sửa đổi, bổ
sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn việc thông báo, niêm yết công khai về tang vật,
phương tiện bị tạm giữ (số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau
khi hết thời hạn thông báo, niêm yết công khai...). Cụ thể:
Về xử lý tang vật khi hết thời hạn tạm giữ mà người
vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận
mà không có lý do chính đáng thì xử lý như sau:
- Trường hợp xác định được người vi phạm, chủ sở hữu,
người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện thì người
ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho họ 02 lần. Lần thông báo thứ nhất phải
được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn tạm giữ
tang vật, phương tiện. Lần thông báo thứ hai được thực hiện trong thời hạn 07
ngày làm việc, kể từ ngày thông báo thứ nhất. Hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày
thông báo lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử
dụng hợp pháp không đến nhận thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, người có thẩm
quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
- Trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ
sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện thì
người ra quyết định tạm giữ phải thông báo 02 lần trên phương tiện thông tin đại
chúng của trung ương hoặc địa phương nơi tạm giữ tang vật, phương tiện. Lần
thông báo thứ nhất phải được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày hết thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện. Lần thông báo thứ hai được thực
hiện trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo thứ nhất. Hết thời hạn
01 năm, kể từ ngày thông báo lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người
quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận thì trong thời hạn 05 ngày
làm việc, người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính.
- Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
bị tạm giữ để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt khi hết thời hạn thi hành quyết
định xử phạt mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không thi hành
quyết định xử phạt thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn
thi hành quyết định xử phạt, người có thẩm quyền tạm giữ phải chuyển tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính cho người có thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt để quyết định việc kê biên, bán đấu giá theo quy định của pháp luật
để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt.
- Về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế
chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Luật số 67/2020/QH14 quy định
đối với trường hợp này thì bên nhận thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện
hoặc trị giá tương ứng với nghĩa vụ được bảo đảm; cá nhân, tổ chức vi phạm phải
nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
vào ngân sách nhà nước.
5.2. Đối với tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính bị tịch thu, để bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Quản
lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật số
67/2020/QH14 quy định theo hướng viện dẫn: “Tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy định của pháp luật về
quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau khoản
2 Điều 81 Luật XLVPHC), đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật
XLVPHC.
6. Về thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính
So với Luật XLVPHC hiện hành, Luật số 67/2020/QH14
đã sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, miễn, giảm tiền phạt tại Điều
76 và Điều 77 Luật XLVPHC. Theo đó, bổ sung quy định tổ chức cũng được
hoãn, giảm, miễn tiền phạt, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều
kiện thực hiện, cụ thể như sau:
6.1. Việc hoãn thi hành quyết định phạt tiền
được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
(i) Cá nhân bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng
trở lên, tổ chức bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng trở lên.
(ii) Cá nhân đang gặp khó khăn về kinh tế do
thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn; tổ chức
đang gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa
hoạn, dịch bệnh. Tùy từng trường hợp cụ thể, cá nhân, tổ chức phải có xác nhận
của các cơ quan, tổ chức sau: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến
huyện trở lên; Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp
trên trực tiếp.
6.2. Việc giảm một phần tiền phạt ghi trong
quyết định xử phạt đối với cá nhân, tổ chức đã được hoãn thi hành quyết định phạt
tiền được áp dụng khi:
(i) Cá nhân tiếp tục gặp khó khăn về kinh tế
do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn và có
xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức
nơi người đó học tập, làm việc.
(ii) Tổ chức tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt
hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp
trên trực tiếp.
6.4. Luật số 67/2020/QH14 bổ sung quy
định tổ chức cũng được miễn phần tiền phạt còn lại và miễn toàn bộ tiền phạt
ghi trong quyết định xử phạt bên cạnh quy định miễn tiền phạt cho cá nhân như
Luật XLVPHC hiện hành. Tuy nhiên, để được miễn phần tiền phạt còn lại ghi trong
quyết định xử phạt, tổ chức phải đáp ứng đủ các điều kiện, bao gồm:
(i) Đã được giảm một phần tiền phạt theo quy
định tại khoản 1 Điều này hoặc đã nộp tiền phạt lần thứ nhất hoặc lần thứ hai
trong trường hợp được nộp tiền phạt nhiều lần theo quy định tại Điều
79 của Luật này.
(ii) Đã thi hành xong hình thức xử phạt bổ
sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định xử phạt.
(iii) Tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột
xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy
ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.
Tổ chức được miễn toàn bộ tiền phạt ghi trong quyết
định xử phạt khi đáp ứng đủ các điều kiện:
(i) Đã được hoãn thi hành quyết định phạt tiền
theo quy định tại Điều 76 của Luật này.
(ii) Đã thi hành xong hình thức xử phạt bổ
sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định xử phạt.
(iii) Tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột
xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy
ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.
7. Về
biểu mẫu sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính: Luật số 67/2020/QH14 quy định
biểu mẫu sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
8. Bên
cạnh những vấn đề nêu trên, Luật số 67/2020/QH14 cũng sửa đổi, bổ sung quy định
như: Bổ sung trường hợp áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
tại Điều 122 Luật XLVPHC; bãi
bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ
quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo.
Ngoài ra, một số quy định của Luật XLVPHC được dẫn
chiếu trong Nghị định 128/2020/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung, tuy không ảnh hưởng
đến nội dung quy định tại Nghị định, nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung các dẫn
chiếu này. (cụ thể tại khoản 3 Điều 4, khoản 1 Điều 26, điểm c khoản
1 Điều 28, khoản 1 Điều 33, Điều 34, khoản 2 Điều 36 Nghị định 128/2020/NĐ-CP)./.