Kính
gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Ngày 27-7-2020, Tòa án nhân dân tối
cao đã tổ chức tập huấn trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc trong quá trình
giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng
mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết
quả giải đáp vướng mắc như sau:
1. Thế nào là "tình
trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán" quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản?
Theo quy định tại khoản
1 Điều 4 Luật Phá sản thì "Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản
nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán."
Căn cứ vào quy định trên thì doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có khoản nợ cụ thể, rõ ràng do các
bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại, hoặc được
xác định trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền và các bên không có tranh
chấp về khoản nợ này.
- Khoản nợ đến hạn thanh toán.
Khoản nợ đến hạn thanh toán là khoản
nợ đã được xác định rõ thời hạn thanh toán, mà đến thời hạn đó doanh nghiệp, hợp
tác xã phải có nghĩa vụ trả nợ. Thời hạn thanh toán này được các bên thừa nhận,
thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại hoặc trong quyết định của
cơ quan có thẩm quyền.
- Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn
thanh toán bao gồm 02 trường hợp:
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã không có
tài sản để thanh toán các khoản nợ;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã có tài sản
nhưng không thanh toán các khoản nợ.
Theo đó, “mất khả năng thanh toán”
không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để trả nợ; mặc dù
doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản để trả nợ nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ
trả nợ đúng hạn cho chủ nợ thì vẫn coi là doanh nghiệp, hợp tác xã "mất
khả năng thanh toán".
Cần lưu ý: Pháp luật hiện hành không
quy định một mức khoản nợ cụ thể nào để xác định là doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán mà chỉ cần có đủ các điều kiện nêu trên.
2. Trường hợp người
yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản thì Tòa
án sử dụng khoản tiền nào để chi trả cho cho các khoản chi phí khi tiến hành
phá sản doanh nghiệp?
Theo quy định tại Điều
22 và khoản 2 Điều 23 Luật Phá sản thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp người nộp
đơn không phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản quy định tại khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 1 Điều 105 Luật Phá sản.
Khoản 2 Điều 5 Luật
Phá sản quy định người lao động, công đoàn cơ sở, công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực
hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà
doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Khoản 6 Điều 9, các điểm
e, g khoản 1 Điều 16, khoản 3 Điều 23 Luật Phá sản quy
định theo đề nghị của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì
Thẩm phán có quyền quyết định giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán sau khi mở thủ tục phá sản để bảo đảm chi phí phá sản.
Từ các quy định nêu trên, trường hợp
người yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản
thì Tòa án giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một
số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi
phí phá sản.
Tuy nhiên, thực tiễn xảy ra vướng mắc
như sau: Để thực hiện việc bán tài sản thì Quản tài viên phải thực hiện việc định
giá tài sản, bán đấu giá tài sản. Vậy chi phí cho việc thực hiện các công việc
này được lấy từ đâu?
Vấn đề này chưa được pháp luật quy định.
Trong khi chờ sửa luật, các Tòa án có thể cân nhắc các giải pháp tạm thời như
sau:
Thứ nhất,
Tòa án có thể đề nghị tổ chức định giá tài sản, bán đấu giá tài sản thực hiện
việc định giá tài sản, bán đấu giá tài sản trước. Sau khi bán đấu giá tài sản của
doanh nghiệp xong sẽ thanh toán chi phí định giá, bán đấu giá tài sản cho tổ chức
định giá tài sản, bán đấu giá tài sản.
Thứ hai,
Tòa án có thể phối hợp, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh tạm ứng chi phí cho việc
bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau khi bán đấu giá tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã xong sẽ hoàn trả lại cho Ủy ban nhân dân tỉnh số tiền đã tạm
ứng.
3. Thẩm phán đã
ra quyết định không mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có phải
từ chối tham gia giải quyết phá sản đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã đó
khi vụ việc phá sản được thụ lý lại không?
Thẩm phán đã ra quyết định không mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã trước đó không thuộc trường hợp
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10 Luật Phá sản “đã tham
gia ra quyết định tuyên bố phá sản đối với vụ việc phá sản đó” và cũng
không thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi khác theo quy định tại Điều 10 Luật Phá sản. Vì vậy, trường hợp này Thẩm phán không phải
từ chối tham gia giải quyết vụ việc phá sản.
4. Trường hợp sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản mà thấy rằng số tiền tạm ứng chi phí phá sản
do người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nộp không đủ thì Tòa án có yêu cầu
người nộp đơn nộp bổ sung tiền tạm ứng chi phí phá sản nữa không?
“Tạm ứng chi phí phá sản là khoản
tiền do Tòa án nhân dân quyết định để đăng báo, tạm ứng chi phí Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản” (khoản
14 Điều 4 Luật Phá sản).
“Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản phải nộp tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp người nộp đơn quy định
tại khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 1 Điều 105 của Luật Phá sản.” (khoản 2 Điều 23 Luật Phá sản).
Như vậy, việc nộp tạm ứng chi phí phá
sản là nghĩa vụ bắt buộc của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi họ nộp
đơn và khoản tiền tạm ứng do Tòa án quyết định chỉ là dự tính ban đầu để có căn
cứ cho người yêu cầu nộp (khoản 1 Điều 38 Luật Phá sản)
trên cơ sở quy định tại Điều 21 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP
ngày 16-02-2015 của Chính phủ về chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản.
Do vậy, trong quá trình giải quyết
phá sản nếu xét thấy phát sinh các chi phí tiếp theo để Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoạt động giải quyết phá sản thì Tòa án có quyền
yêu cầu người nộp đơn phải tiếp tục nộp tạm ứng chi phí phá sản.
Nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản không nộp bổ sung tạm ứng chi phí phá sản thì căn cứ vào các quy định tại
điểm e khoản 1 Điều 16, khoản 6 Điều 9 và khoản 3 Điều 23 Luật
Phá sản, Thẩm phán tự mình hoặc theo yêu cầu của Quản tài viên quyết định
việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán sau khi mở
thủ tục phá sản để bảo đảm chi phí phá sản và giao cho Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm trả đủ chi phí phá sản.
5. Theo quy định
tại Điều 38 Luật Phá sản thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, Tòa án nhân dân dự tính số tiền tạm ứng chi
phí phá sản và thông báo cho người yêu cầu mở thủ tục phá sản để nộp tạm ứng
chi phí phá sản. Căn cứ để Tòa án tính tạm ứng chi phí phá sản như thế nào?
"Tạm ứng chi phí phá sản là khoản
tiền do Tòa án nhân dân quyết định để đăng báo, tạm ứng chi phí Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản” (khoản 14 Điều 4 Luật Phá sản).
"... Tòa án nhân dân dự tính
số tiền tạm ứng chi phí phá sản..." (khoản 1 Điều 38 Luật Phá sản).
Như vậy, tùy từng vụ việc phá sản,
Tòa án căn cứ mức thu lệ phí của Báo địa phương, thực tế tại địa phương về hoạt
động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và trên cơ sở
quy định tại Điều 21 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày
16-02-2015 của Chính phủ về chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản để quyết định số tiền tạm ứng chi phí phá sản, trong đó có khoản tiền
tạm ứng ban đầu cho Quản tài viên.
6. Trường hợp bán
một phần tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản thì khoản
tiền đó được gửi vào tài khoản của Tòa án hay của Quản tài viên?
Pháp luật phá sản chưa quy định Tòa
án sử dụng tài khoản nào để quản lý số tiền bán tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã để bảo đảm chi phí phá sản. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 38 Luật Phá sản thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo về việc nộp tạm ứng chi phí phá sản, người yêu cầu phải “nộp tạm
ứng chi phí phá sản vào tài khoản do Tòa án nhân dân mở tại ngân hàng”. Vì vậy,
áp dụng tương tự quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 khi
bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản thì tiền
bán tài sản được chuyển vào tài khoản do Tòa án mở theo điểm b khoản
2 Điều 38 nêu trên.
7. Theo quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 38 Luật
Phá sản thì tiền tạm ứng chi phí phá sản được nộp vào
tài khoản do Tòa án nhân dân mở tại ngân hàng. Vậy Tòa án nhân dân mở một tài khoản
chung dùng cho tất cả các vụ việc phá sản hay phải mở một tài khoản riêng cho từng
vụ việc phá sản?
Sau khi được phân công giải quyết đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản và xem xét thấy đơn yêu cầu hợp lệ, Thẩm phán có thể
quyết định mở một tài khoản riêng tại ngân hàng để quản lý các khoản tiền gửi
vào (tiền tạm ứng chi phí phá sản, tiền bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã...) và quyết định việc rút tiền để thanh toán các chi phí như: chi phí Quản
tài viên, chi phí kiểm toán, chi phí đăng báo và các chi phí khác phát sinh.
Như vậy, đối với mỗi vụ việc phá sản,
Tòa án nên có một tài khoản riêng để dễ quản lý các chi phí liên quan đến từng
vụ việc phá sản. Kết thúc vụ việc phá sản thì Tòa án phải đóng tài khoản đó.
8. Trường hợp người
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chỉ nộp lệ phí phá sản mà không nộp tạm ứng
chi phí phá sản thì phải giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại Điều
22 và Điều 23 Luật Phá sản thì nộp lệ phí phá sản và tạm ứng chi phí phá sản
là nghĩa vụ của người nộp đơn (trừ trường hợp họ không phải nộp). Điều 39 Luật Phá sản quy định: "Tòa án nhân dân thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sau khi nhận được biên lai nộp lệ phí phá sản,
biên lai nộp tạm ứng chi phí phá sản.”
Như vậy, việc nộp lệ phí phá sản, tạm
ứng chi phí phá sản và biên lai nộp lệ phí phá sản, biên lai nộp tạm ứng chi
phí phá sản cho Tòa án là hai điều kiện bắt buộc để Tòa án thụ lý phá sản (Điều 39 Luật Phá sản).
Người nộp đơn yêu cầu thuộc trường hợp
phải nộp lệ phí và tạm ứng chi phí phá sản mà họ chỉ nộp lệ phí phá sản mà
không nộp tạm ứng chi phí phá sản, hoặc không nộp biên lai (chứng cứ khác) về
việc nộp hai khoản trên thì Tòa án trả lại đơn cho họ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 35 Luật Phá sản.
9. Trường hợp
“Quyết định mở thủ tục phá sản” bị Tòa án cấp trên hủy thì tiền tạm ứng chi phí
phá sản có được hoàn trả lại cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
không?
Theo quy định tại khoản
4 Điều 23 Luật Phá sản thì Tòa án quyết định việc hoàn trả tạm ứng chi phí
phá sản, trừ trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vi phạm quy định
tại khoản 4 Điều 19 Luật Phá sản.
Theo quy định tại khoản
5 Điều 42 Luật Phá sản, trường hợp Tòa án ra quyết định không mở thủ tục
phá sản thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được trả lại tiền tạm ứng
chi phí phá sản.
Việc quyết định mở thủ tục phá sản bị
Tòa án cấp trên hủy đồng nghĩa với việc Tòa án đã quyết định không mở thủ tục
phá sản. Do đó, trong trường hợp này người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
được trả lại tiền tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp họ vi phạm quy định tại
khoản 4 Điều 19 Luật Phá sản.
Khi Tổ Thẩm phán giải quyết đề nghị
xem xét lại, kháng nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản ra quyết định
hủy quyết định mở thủ tục phá sản thì phải xem xét, giải quyết luôn việc quyết
định hoàn trả tiền tạm ứng chi phí phá sản cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản.
10. Khi giải quyết
yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án có chấp nhận việc doanh nghiệp, hợp tác xã bị
yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ hoặc con nợ mời luật sư bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho họ không?
Khoản 8 Điều 18 Luật
Phá sản quy định quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ
tục phá sản như sau: "Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho mình". Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ
tục phá sản hoặc chủ nợ, con nợ có đề nghị Tòa án để luật sư tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì Tòa án phải làm thủ tục đăng ký người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
11. Chủ nợ nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người lao động, đại diện công đoàn nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản thì có phải gửi kèm Báo cáo tài chính của doanh nghiệp,
hợp tác xã hay không?
Người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản theo khoản 1, khoản 2 Điều 5 Luật Phá sản chỉ
phải nộp:
“Kèm theo đơn phải có chứng cứ chứng
minh khoản nợ đến hạn” đối với chủ nợ không có bảo đảm
hoặc có bảo đảm một phần (khoản 2 Điều 26 Luật Phá sản).
“Kèm theo đơn phải có chứng cứ để
chứng minh lương và các khoản nợ khác đến hạn” đối với
người lao động, đại diện công đoàn (khoản 2 Điều 27 Luật Phá sản).
Do vậy, họ không bắt buộc phải gửi
kèm Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã.
12. Trường hợp
Tòa án đã thụ lý giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp
nhưng trong quá trình giải quyết phá sản, người đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp vắng mặt (không có mặt tại địa phương) do doanh nghiệp đã dừng hoạt động
từ lâu, chủ nợ cũng không biết họ ở đâu thì giải quyết như thế nào?
Khoản 2 Điều 16 Luật
Phá sản quy định: Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản có quyền đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp
doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật.
Đồng thời, tại khoản
2 Điều 65 Luật Phá sản quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản sẽ chỉ định một người làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực
hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã.
Như vậy, trong quá trình giải quyết
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã mà người đại diện theo pháp luật vắng mặt thì
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là đại diện của doanh
nghiệp, hợp tác xã đó hoặc chỉ định một người làm đại diện của doanh nghiệp, hợp
tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã.
13. Trường hợp
cơ quan thi hành án dân sự đang thi hành bản án, quyết định của Tòa án, trong
đó doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án và tài sản bảo đảm cho việc
thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã là tài sản của bên thứ ba
(không phải là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã). Vậy sau khi Tòa án thụ lý
vụ việc phá sản/mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó thì Cơ
quan thi hành án dân sự có phải tạm đình chỉ/đình chỉ thi hành án đối với tài sản
bảo đảm của bên thứ ba hay không?
Theo quy định tại khoản
1 Điều 41 Luật Phá sản thì cơ quan thi hành án dân sự phải tạm đình chỉ thi
hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành
án, trừ bản án, quyết định buộc doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự hoặc trả lương cho người lao động.
Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là
người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải tạm đình chỉ thi
hành án dân sự đối với tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của doanh
nghiệp, hợp tác xã đó mà không phân biệt đó có phải là tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã hay không.
Trường hợp nghĩa vụ phải thi hành án
là tài sản của người thứ ba có liên quan đến khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng
thì được giải quyết theo khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số
42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 và khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
14. Sau khi Tòa
án nhân dân cấp trên trực tiếp giữ nguyên quyết định không mở thủ tục phá sản
thì người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có được nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản lại đối với chính doanh nghiệp đó không? Nếu có thì
sau bao lâu được nộp lại đơn?
Luật Phá sản không quy định cụ thể về
trường hợp Tòa án cấp trên có quyết định giữ nguyên quyết định không mở thủ tục
phá sản thì sau bao lâu người có quyền, nghĩa vụ được nộp lại đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Do đó, trong bất kỳ khoảng thời gian nào, nếu xác định doanh nghiệp,
hợp tác xã đó bị mất khả năng thanh toán, người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản được nộp lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
chính doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Tùy từng trường hợp mà Tòa án xem xét
đơn yêu cầu, các điều kiện khác theo quy định của Luật Phá sản để xử lý đơn, thụ
lý đơn và quyết định việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản. Đối với trường hợp
này, Tòa án cần tham khảo các tài liệu chứng cứ về hoạt động của doanh nghiệp,
hợp tác xã kể từ sau khi có quyết định của Tòa án cấp trên giữ nguyên quyết định
không mở thủ tục phá sản như báo cáo thuế, báo cáo tài chính...
15. Theo quy định
tại Điều 45 Luật Phá sản thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định
mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên, sau khi được chỉ định, Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối giải quyết vụ việc thì Thẩm
phán xử lý như thế nào vì hiện nay chưa có quy định?
Khoản 1 Điều 46 Luật
Phá sản quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản có thể bị Thẩm phán quyết định thay đổi nếu thuộc một trong
các trường hợp sau: "c) Trường hợp bất khả kháng mà Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được nhiệm vụ".
Như vậy, khi Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có đơn từ chối giải quyết vụ việc thì Thẩm
phán xem xét, quyết định thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản khi xét thấy có căn cứ chứng minh thuộc trường hợp bất khả kháng mà Quản
tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được nhiệm vụ.
16. Trường hợp địa
phương không có Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoặc Quản
tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối, địa phương không còn
Quản tài viên nào khác thì Thẩm phán có được liên hệ với Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản ở địa phương khác không?
Luật Phá sản chỉ quy định Thẩm phán có
quyền chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản mà không
giới hạn phạm vi hoạt động của hai chủ thể này. Do đó, Thẩm phán có quyền chỉ định
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản ở địa phương khác.
17. Người nộp
đơn được quyền đề nghị Thẩm phán chỉ định bao nhiêu Quản tài viên? Sau khi Thẩm
phán đã ban hành quyết định chỉ định Quản tài viên, Quản tài viên này lại tiếp
tục đề xuất Thẩm phán chỉ định thêm Quản tài viên có được không?
Khoản 3 Điều 26 Luật
Phá sản quy định: "3. Trường hợp có đề xuất chỉ
định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản ghi rõ tên, địa chỉ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản". Như vậy, Luật Phá sản không quy định cụ thể số lượng
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được chỉ định để tham gia
giải quyết vụ việc phá sản. Vì vậy, căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp, hợp tác
xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, tính chất phức tạp của vụ việc phá sản, người
nộp đơn, Quản tài viên có quyền đề xuất Thẩm phán chỉ định thêm Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
18. Trong quá
trình xem xét, giải quyết đơn đề nghị xem xét lại, kháng nghị đối với quyết định
mở hoặc không mở thủ tục phá sản thì có trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định
kháng nghị, người có đơn đề nghị xem xét lại quyết định rút đơn đề nghị xem xét
lại đối với quyết định mở, không mở thủ tục phá sản. Khoản 7 Điều 44 Luật Phá sản không
quy định thẩm quyền của Tổ Thẩm phán về đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu, kháng
nghị đối với quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản; trường hợp này Tổ Thẩm
phán phải ra quyết định nào?
Khoản 7 Điều 44 Luật
Phá sản về giải quyết đề nghị xem xét lại, kháng nghị
quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản quy định như sau:
"... 7. Tổ Thẩm phán có quyền
ra một trong các quyết định sau:
a) Giữ nguyên quyết định mở hoặc
không mở thủ tục phá sản;
b) Hủy quyết định không mở thủ tục
phá sản và giao cho Tòa án nhân dân đã ra quyết định không mở thủ tục phá sản
xem xét ra quyết định mở thủ tục phá sản;
c) Hủy quyết định mở thủ tục phá sản
và thông báo cho Tòa án nhân dân đã ra quyết định mở thủ tục phá sản và những
người tham gia thủ tục phá sản...”
Như vậy, trường hợp Viện kiểm sát quyết
định rút kháng nghị, người yêu cầu rút đơn yêu cầu xem xét lại đối với quyết định
mở hoặc không mở thủ tục phá sản thì Tổ Thẩm phán căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 7 Điều 44 Luật Phá sản ra quyết định giữ nguyên
Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Trường hợp giữ nguyên Quyết định mở
thủ tục phá sản thì Tổ Thẩm phán phải chuyển hồ sơ về cho Tòa án đã ra quyết định
mở thủ tục phá sản để giải quyết phá sản theo thủ tục chung.
19. Trong quá
trình giải quyết vụ việc phá sản, Tòa án áp dụng quy định của Luật Phá sản hay
Bộ luật Tố tụng dân sự để xem xét tuyên bố giao dịch vô hiệu?
Khoản 1 Điều 3 Luật
Phá sản quy định Luật Phá sản được áp dụng khi giải
quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập trên lãnh thổ Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 207 Luật Doanh
nghiệp quy định việc phá sản doanh nghiệp được thực hiện
theo quy định của pháp luật về phá sản.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ
việc phá sản, Tòa án áp dụng quy định của Luật Phá sản để xem xét tuyên bố giao
dịch vô hiệu.
20. Quyết định
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong quá trình giải quyết phá sản có được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm của Bộ luật Tố tụng dân sự hay không?
Theo quy định tại khoản
3 và khoản 4 Điều 60 Luật Phá sản thì:
”3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu, doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán, bên giao kết với doanh nghiệp, hợp tác xã có
quyền làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân xem xét lại quyết định tuyên bố
giao dịch vô hiệu.
4. Trong thời hạn 07 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xem xét lại quyết định tuyên bố giao dịch vô
hiệu, Chánh án Tòa án nhân dân đã ra quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu phải
ra một trong các quyết định sau:
a) Không chấp nhận đề nghị xem xét
lại quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu;
b) Hủy bỏ quyết định tuyên bố giao
dịch vô hiệu. Trường hợp có tranh chấp thì được giải quyết theo quy định tại Chương
X của Luật này”.
Do đó, Quyết định tuyên bố giao dịch
vô hiệu được xem xét lại theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều
60 Luật Phá sản mà không áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
21. Khi tuyên bố
giao dịch vô hiệu theo quy định của Luật Phá sản, Tòa án có phải giải quyết hậu
quả của giao dịch vô hiệu không và giải quyết như thế nào?
Điểm b khoản 1 Điều
60 Luật Phá sản quy định: "b) Tuyên bố giao dịch
vô hiệu, hủy bỏ các biện pháp bảo đảm và giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu
theo quy định của pháp luật."
Như vậy, khi tuyên bố giao dịch vô hiệu
Tòa án phải giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật,
cụ thể Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu theo quy định tại
Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015.
22. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 79 Luật Phá sản
thì Hội nghị chủ nợ được tổ chức hợp lệ với số chủ nợ
tham gia đại diện cho 51% tổng số nợ không có bảo đảm và 100% chủ nợ có mặt thống
nhất tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Vậy Hội nghị chủ nợ có thông qua được Nghị
quyết của Hội nghị chủ nợ về việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản không?
Khoản 2 Điều 81 Luật
Phá sản quy định: "Nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại
diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành".
Vậy trường hợp này, Hội nghị chủ nợ được tổ chức hợp lệ thành công nhưng không
thông qua được Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ và thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 83 Luật Phá sản thì Tòa án ra quyết định tuyên bố
phá sản doanh nghiệp theo quy định Điều 106 Luật Phá sản.
23. Trường hợp
sau khi mở thủ tục phá sản mà người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút đơn
yêu cầu thì Tòa án có được đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản không?
Theo quy định tại khoản
1 Điều 86 Luật Phá sản về đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản thì kể từ ngày
Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không mất
khả năng thanh toán thì Tòa án nhân dân ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục
phá sản. Như vậy, sau khi mở thủ tục phá sản mà người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản rút đơn yêu cầu thì giải quyết như sau:
Trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản là chủ nợ duy nhất hoặc tất cả các chủ nợ đều thống nhất việc
rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Tòa án xem xét quyết định đình chỉ tiến
hành thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 1 Điều 86 Luật Phá
sản nếu có căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục
phá sản đã thanh toán hết nợ cho tất cả các chủ nợ hoặc có thỏa thuận giữa các
chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã về việc gia hạn trả nợ. Trường hợp này cần
phải coi là doanh nghiệp, hợp tác xã không mất khả năng thanh toán vì không còn
khoản nợ đến hạn chưa thanh toán.
Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã
còn có những chủ nợ khác thì Tòa án căn cứ kết quả triệu tập Hội nghị chủ nợ,
Nghị quyết Hội nghị chủ nợ để có cơ sở xác định doanh nghiệp, hợp tác xã có thực
sự mất khả năng thanh toán hay không để quyết định theo Điều 86
Luật Phá sản.
24. Trường hợp
doanh nghiệp có khoản nợ đến hạn mà không thanh toán cho chủ nợ trong thời hạn
03 tháng và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, trong quá
trình giải quyết, Thẩm phán nhận thấy doanh nghiệp vẫn hoạt động kinh doanh tốt,
có lợi nhuận thì có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã đó không?
Việc doanh nghiệp, hợp tác xã kinh
doanh tốt, có lợi nhuận không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã đó không mất
khả năng thanh toán vì theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật
Phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp,
hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng
kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Như vậy, mặc dù doanh nghiệp, hợp tác
xã kinh doanh tốt, có lợi nhuận nhưng có khoản nợ đến hạn trong thời gian 03
tháng mà không trả nợ (mất khả năng thanh toán) thì Thẩm phán ra quyết định mở
thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 42 Luật Phá sản.
25. Chi phí phá
sản có cần thiết phải nêu trong Quyết định tuyên bố phá sản không?
Theo quy định tại khoản
1 Điều 54, điểm h khoản 1 Điều 108 Luật Phá sản thì chi phí phá sản phải được
nêu trong phần phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị
tuyên bố phá sản của Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy
nhiên, Thẩm phán không phải nêu cụ thể số tiền chi phí phá sản. Bởi lẽ, chi phí
phá sản là khoản tiền phải chi trả cho việc giải quyết phá sản, bao gồm chi phí
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chi phí kiểm toán, chi
phí đăng báo và các chi phí khác theo quy định của pháp luật. Sau khi Tòa án ra
quyết định tuyên bố phá sản thì cơ quan thi hành án tiến hành việc thi hành quyết
định tuyên bố phá sản. Ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục phát sinh chi phí phá sản. Do đó, Tòa án không
thể xác định được chính xác số tiền chi phí phá sản ở thời điểm ra quyết định
tuyên bố phá sản.
26. Trường hợp
doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản phải trả nợ theo bản án
dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng bản án đó đã bị cấp giám đốc thẩm hủy và
giao sơ thẩm xét xử lại thì có phải nhập vào vụ việc phá sản để giải quyết hay
tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự?
Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm được
giao giải quyết lại vụ án dân sự phải tạm đình chỉ, đình chỉ và chuyển hồ sơ vụ
việc cho Tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết theo quy định tại Điều 41 và Điều 71 Luật Phá sản.
27. Trong trường
hợp bản án sơ thẩm bị kháng cáo mà một bên đương sự trong bản án này là doanh
nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án khác ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Tòa
án cấp phúc thẩm tiếp tục giải quyết kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự hay ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án để nhập vào vụ việc phá
sản để giải quyết?
Theo quy định tại khoản
2 Điều 41 và khoản 2 Điều 71 Luật Phá sản thì nếu vụ án dân sự đang được giải
quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án, nếu Tòa án cấp phúc thẩm đang giải quyết thì Tòa án cấp phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ.
Trường hợp vụ án dân sự có kháng cáo
mà một trong các bên đương sự là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán đã được Tòa án khác ra quyết định mở thủ tục phá sản thì cần phân biệt
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là nguyên đơn, bị đơn hay người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án? Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán là nguyên đơn, bị đơn trong vụ án thì Tòa án cấp phúc thẩm
tiếp tục tiến hành thụ lý vụ án dân sự trên. Sau đó, Tòa án cấp phúc thẩm ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự đó để chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản để tiếp tục giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Phá sản.
Nếu đương sự là người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan bị yêu cầu tuyên bố phá sản thì theo nguyên tắc họ không phải là
người trực tiếp bị kiện trong vụ án dân sự, việc xác định quyền và nghĩa vụ của
họ đến đâu phụ thuộc vào tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn. Do vậy trường hợp
này Tòa án vẫn giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung. Bản án có hiệu lực
xác định quyền, nghĩa vụ của họ đến đâu thì phần đó sẽ được chuyển vào việc phá
sản để giải quyết (lúc này thì người có quyền hoặc có nghĩa vụ sẽ trở thành chủ
nợ hoặc con nợ trong vụ việc phá sản).
28. Trong quá
trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản mà phát sinh tranh chấp về tài sản của
người tham gia thủ tục phá sản thì Tòa án giải quyết như thế nào? Có phải thụ
lý thành một vụ án khác không?
Theo quy định tại Điều
115 Luật Phá sản thì trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản mà phát sinh tranh chấp thì người tham gia thủ tục
phá sản có quyền đề nghị Tòa án nhân dân đã giải quyết vụ việc phá sản xem xét.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của người tham gia
thủ tục phá sản, Tòa án đã giải quyết vụ việc phá sản phải ra văn bản trả lời
không chấp nhận đề nghị của người tham gia thủ tục phá sản hoặc chuyển đơn đến
người có thẩm quyền để xem xét kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản theo quy
định của pháp luật. Trường hợp không đồng ý với văn bản trả lời không chấp nhận
đề nghị thì người tham gia thủ tục phá sản có quyền đề nghị người có thẩm quyền
xem xét kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật. Tòa
án không phải thụ lý thành một vụ án khác.
29. Đối với yêu
cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày Luật Phá sản
năm 2014 có hiệu lực (01-01-2015) mà đang thực hiện thủ tục thanh lý tài sản
thì có được ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định
của Luật Phá sản năm 2014 hay không?
Theo quy định tại khoản
3 Điều 131 Luật Phá sản năm 2014 thì "đối với yêu cầu mở thủ tục
phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày Luật Phá sản năm 2014 có hiệu
lực mà chưa ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì áp dụng
quy định của Luật này để tiếp tục giải quyết".
Vậy trong trường hợp doanh nghiệp, hợp
tác xã đang thực hiện thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản
năm 2004 thì Tòa án xem xét, quyết định việc ra quyết định tuyên bố phá sản đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo Luật Phá sản năm 2014.
30. Đối với vụ
việc phá sản được thụ lý trước thời điểm Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực, Tổ
Quản lý, thanh lý tài sản có tiếp tục được giải quyết vụ việc phá sản sau khi
Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực hay không hay phải chỉ định Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay thế?
Điều 28 Nghị định số
22/2015/NĐ-CP ngày 16-02-2015 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản
lý, thanh lý tài sản quy định như sau:
“Điều 28. Điều khoản chuyển tiếp
1. Đối với yêu cầu mở thủ tục phá
sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày 01 tháng 01 năm 2015 mà đã thành
lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản số
21/2004/QH11, nếu đến ngày 01 tháng 01 năm 2015 mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản
chưa thực hiện xong nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối với vụ việc phá sản đó.
Trường hợp Thẩm phán tiến hành thủ
tục phá sản chỉ định được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
theo quy định của Luật Phá sản số 51/2014/QH13 và Nghị định này đối với yêu cầu
mở thủ tục phá sản nêu trên thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản chấm dứt hoạt động
và bị giải thể theo quy định của Luật Phá sản số 21/2004/QH11. Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý,
thanh lý tài sản đối với vụ việc phá sản đó, trừ phần công việc mà Tổ quản lý,
thanh lý tài sản đã thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
Luật Phá sản số 21/2004/QH11. Kết quả công việc do Tổ quản lý, thanh lý tài sản
thực hiện được công nhận và có giá trị sử dụng theo quy định của Luật Phá sản số
51/2014/QH13.
2. Đối với yêu cầu mở thủ tục phá
sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày 01 tháng 01 năm 2015 mà chưa
thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản số
21/2004/QH11, đến ngày 01 tháng 01 năm 2015, Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản
chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của
Luật Phá sản số 51/2014/QH13 và Nghị định này".
Như vậy, đối với trường hợp nêu trên,
Tổ quản lý, thanh lý tài sản có thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối
với vụ việc phá sản đó. Trường hợp Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản chỉ định
được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật
Phá sản năm 2014 và Nghị định số 22/2015/NĐ-CP đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản
nêu trên thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản chấm dứt hoạt động và bị giải thể
theo quy định của Luật Phá sản năm 2004. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản đối với
vụ việc phá sản đó, trừ phần công việc mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã thực
hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Phá sản năm 2004.
Kết quả công việc do Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện được công nhận và
có giá trị sử dụng theo quy định của Luật Phá sản năm 2014.
Trên đây là kết quả giải đáp trực tuyến
một số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để
các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc
thẩm quyền.
Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c);
- Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC;
- Các đồng chí Thẩm phán TANDTC;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT VP, Vụ PC&QLKH.
|
KT.
CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Văn Tiến
|