BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC HẢI QUAN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1282/TCHQ-PC
V/v trả lời các kiến nghị của DN tại các
công văn số 2992/PTM-VP và số 0114/PTM-VP
|
Hà Nội, ngày 07
tháng 3 năm 2019
|
Kính gửi: Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Về việc giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp tại
báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP trong tháng 11/2018, quý 4/2018
theo các Công văn số 2992/PTM-VP ngày 27/12/2018 và Công văn số 0114/PTM-VP
ngày 18/01/2019 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) gửi Thủ tướng
Chính phủ. Sau khi nghiên cứu, Tổng cục Hải quan trả lời, cập nhật thông tin một
số vướng mắc của doanh nghiệp như sau:
I. Về các kiến nghị tại Công văn số 2992/PTM-VP:
1. Về kiến nghị số 5 Phụ lục 1 liên quan việc Hiệp
hội Sữa Việt Nam kiến nghị việc hướng dẫn áp dụng phương thức kiểm tra giảm đối
với lô hàng nhập khẩu (Trang 08 Phụ lục 1 kèm Công văn số 2992/PTM-VP ngày
27/12/2018 của VCCI). Về nội dung này, Tổng cục Hải quan có ý kiến như sau:
Phương thức kiểm tra giảm được áp dụng đối với lô
hàng, mặt hàng thuộc một trong 03 trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 17 Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ. Tuy
nhiên, hiện cơ quan hải quan gặp một số vướng mắc trong việc xác định lô hàng,
mặt hàng trong cả 03 trường hợp trên, cụ thể:
Để xác định lô hàng, mặt hàng thuộc phương thức
kiểm tra giảm theo quy định tại Điều 17 của Nghị định:
a. Để được xác định là doanh nghiệp được áp dụng
phương thức giảm thì doanh nghiệp đã được xác nhận đạt yêu cầu về an toàn thực
phẩm bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước đã ký kết Điều ước quốc tế thừa
nhận lẫn nhau trong hoạt động kiểm tra an toàn thực phẩm mà Việt Nam là thành
viên; có kết quả kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền nước xuất khẩu đối với lô
hàng, mặt hàng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với nội dung này, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải
quan đã có công văn số 3322/BTC-TCHQ ngày 22/03/2018; công văn số
4064/TCHQ-GSQL ngày 11/7/2018 gửi các Bộ (Công Thương, Y tế, NNPT&NT) đề
nghị cung cấp cơ sở dữ liệu cho cơ quan hải quan để cơ quan hải quan áp dụng
phương thức kiểm tra.
Hiện nay, Tổng cục Hải quan chưa nhận được ý kiến của
các Bộ.
b. Để được xác định là doanh nghiệp được áp dụng
phương thức giảm thì doanh nghiệp đã có 03 (ba) lần liên tiếp trong vòng 12
tháng đạt yêu cầu nhập khẩu theo phương thức kiểm tra thông thường.
Do cơ quan hải quan không có cơ sở để xác định lô
hàng, mặt hàng thế nào là 03 lần liên tiếp trong vòng 12 tháng đạt yêu cầu nhập
khẩu theo phương thức thông thường, do vậy, đối với nội dung này, Bộ Tài chính,
Tổng cục Hải quan đã có công văn số 3322/BTC-TCHQ ngày 22/03/2018 và công văn số
4064/TCHQ-GSQL ngày 11/7/2018; công văn số 5449/TCHQ-GSQL ngày 19/9/2018 gửi
các Bộ (Y tế, Công Thương, NNPTNT) đề nghị các Bộ chỉ đạo các cơ quan kiểm tra
nhà nước đối với thực phẩm nhập khẩu cung cấp kịp thời cho Tổng cục Hải quan
các danh mục sản phẩm, hàng hóa (kèm mã số HS) và danh sách các tổ chức/cá nhân
(kèm mã số doanh nghiệp) đáp ứng đủ điều kiện được áp dụng phương thức kiểm tra
giảm để cơ quan đưa vào cơ sở dữ liệu quản lý phân luồng.
Đến nay, Tổng cục Hải quan mới nhận được danh sách
của 07 đơn vị (trong 46 đơn vị kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm được
03 Bộ chỉ định) thông báo các tổ chức/cá nhân có sản phẩm/hàng hóa được áp
dụng phương thức kiểm tra giảm cho cơ quan hải quan.
c. Để được áp dụng phương thức kiểm tra giảm thì lô
hàng hoặc mặt hàng của tổ chức/cá nhân nhập khẩu được sản xuất trong các cơ sở
áp dụng một trong các hệ thống quản lý chất lượng GMP, HACCP, ISO 22000, IFS,
BRC, FSSC 22000 hoặc tương đương.
Do cơ quan hải quan không đủ cơ sở để xác định bản
sao chứng thực hoặc bản chính hợp pháp hóa lãnh sự của một trong các giấy GMP,
HACCP, ISO 22000, IFS, BRC, FSSC 22000 hoặc tương đương để đưa vào danh sách kiểm
tra giảm, do vậy, liên quan đến nội dung này, Tổng cục Hải quan đã có công văn
số 4064/TCHQ-GSQL ngày 11/7/2018 gửi các Bộ đề nghị các Bộ có ý kiến về các chứng
từ có giá trị tương đương với các Giấy chứng nhận GMP, HACCP, ISO 22000, IFS,
BRC, FSSC 22000 là những từ nào hoặc dựa vào tiêu chí nào để có thể xác định là
chứng từ có giá trị tương đương với các chứng từ nêu trên.
Theo ý kiến của Bộ NN&PTNT thì hiện tại chưa có
văn bản nào quy định về vấn đề này nên chỉ có thể xem xét cụ thể loại chứng nhận
được xuất trình kèm theo hồ sơ đăng ký nhập khẩu để đánh giá và kết luận.
Theo ý kiến của Bộ Công Thương thì hầu hết các cơ sở
sản xuất thực phẩm (nếu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng an toàn thực phẩm)
đều áp dụng một hoặc một số hệ thống tiên tiến, được sử dụng rộng rãi trên thế
giới như các tiêu chuẩn: GMP. HACCP, ISO 22000, IFS, BRS, FSSC 22000. Trong trường
hợp, cơ sở sản xuất thực phẩm tại nước xuất khẩu thực phẩm vào Việt Nam đã được
cấp Giấy chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm khác bởi tổ
chức đánh giá sự phù hợp đã được công nhận của chính quốc gia đó thì Giấy chứng
nhận có giá trị tương đương.
Ngoài ra, tại Nghị định số 15/2018/NĐ-CP chưa hướng
dẫn cụ thể đối với việc kiểm tra tiêu chí gì trong bộ hồ sơ của doanh nghiệp được
áp dụng phương thức kiểm tra giảm và tại Nghị định cũng chưa quy định đối với
trường hợp nếu doanh nghiệp vi phạm thì xử lý như thế nào.
Do vậy, từ các khó khăn vướng mắc nêu trên, hiện Tổng
cục Hải quan đang đề xuất họp với các Bộ để thống nhất các nội dung vướng mắc.
2. Về kiến nghị số 6, Phụ lục 1 về việc giải thích
và hướng dẫn của Hải quan liên quan đến việc phủ nhận miễn thuế nhập khẩu đối với
xuất khẩu tại chỗ ở Việt Nam của Hiệp hội thương mại và công nghiệp Hàn Quốc
(Trang 09-10 Phụ lục 1 kèm Công văn số 2992/PTM-VP ngày 27/12/2018 của VCCI).
Hiện nay, Tổng cục Hải quan đang tổng hợp vướng mắc
của các doanh nghiệp trình cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý. Ngoài ra, nội dung
vướng mắc này đang được tổng hợp vào Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định số
134/2016/NĐ-CP để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật và tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp.
3. Về kiến nghị số 7, Phụ lục 1, kiến nghị khiếu nại
và phản đối với Quyết định 1782/QĐ-HQHN ngày 26/11/2018 về việc ấn định thuế đối
với hàng xuất khẩu, nhập khẩu của công ty TNHH Mỏ Nikel Bản Phúc (Trang 10-11,
Phụ lục 1 kèm Công văn số 2992/PTM-VP ngày 27/12/2018 của VCCI).
Về việc này Cục Thuế xuất nhập khẩu - Tổng cục Hải
quan đã có công văn số 297/TXNK-TGHQ ngày 05/01/2019 gửi Công ty TNHH Mỏ Nikel
Bản Phúc, theo đó: Trị giá hải quan của hàng hóa do Công ty xuất khẩu được
xác định trên cơ sở giá bán hàng hóa tính đến cửa khẩu xuất khẩu ghi trên hợp đồng
mua bán hoặc hóa đơn thương mại và các khoản chi phí liên quan đến hàng hóa xuất
khẩu tính đến cửa khẩu xuất phù hợp với các chứng từ có liên quan nếu các khoản
chi phí này chưa bao gồm trong giá bán của hàng hóa. Trường hợp trong tổng số
tiền mà đối tác nước ngoài thực tế đã thanh toán cho doanh nghiệp có bao gồm
chi phí vận tải quốc tế, chi phí bảo hiểm quốc tế, và các chi phí khác có liên
quan đến quá trình vận chuyển hàng hóa từ cửa khẩu xuất khẩu đến địa điểm giao
hàng tại nước ngoài thì được trừ trị giá của các chi phí đó khỏi trị giá hải
quan, với điều kiện doanh nghiệp xuất trình đầy đủ các chứng từ, tài liệu hợp
pháp thể hiện chính xác trị giá của các khoản chi phí đã nêu.
4. Tổng cục Hải quan cung cấp thông tin về việc trả
lời kiến nghị của doanh nghiệp theo Công văn chuyển đến của Văn phòng Chính phủ
như sau:
4.1. Công văn số 11520/VPCP-ĐMDN ngày 26/11/2018 về
việc hướng dẫn thủ tục giải thể công ty, kiến nghị của Công ty TNHH TM dịch vụ
Hào Phát: Tổng cục Hải quan đã có công văn trả lời số 7162/TCHQ-TXNK ngày
05/12/2018 gửi Văn phòng Chính phủ.
4.2. Công văn số 11068/VPCP-ĐMDN ngày 14/11/2018 về
việc áp dụng mã HS của Hải quan tỉnh Quảng Ninh, kiến nghị của Chi nhánh Công
ty TNHH Tân Nhật Minh: Tổng cục Hải quan đã có công văn số 118/TCHQ-TXNK ngày
04/01/2019 phản hồi kiến nghị của Chi nhánh Công ty TNHH Tân Nhật Minh - TP.HCM
và Công văn số 120/TCHQ-TXNK ngày 04/01/2019 yêu cầu Cục Hải quan TP. Hồ Chí
Minh tổ chức kiểm tra xác minh đối với các mặt hàng nhập khẩu của Công ty.
4.3. Công văn số 11269/VPCP-ĐMDN ngày 20/11/2018 về
việc lô cá bào khô nhập khẩu không được thông quan, kiến nghị của Công ty TNHH
Phúc Vĩnh, TP Hồ Chí Minh: Bộ Tài chính đã có Công văn số 15055/BTC-TCHQ ngày
04/12/2018 gửi Văn phòng Chính phủ.
4.4. Công văn số 11450/VPCP-ĐMDN ngày 23/11/2018 về
việc lô hàng nhôm phế liệu nhập khẩu chưa được thông quan từ tháng 5/2018 của
Công ty CP Alutec Vina: Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 406/TCHQ-GSQL ngày
17/01/2019 hướng dẫn Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện và gửi Văn phòng
Chính phủ biết.
4.5. Công văn số 9351/VPCP-ĐMDN ngày 27/9/2018 liên
quan đến kiến nghị hỗ trợ hướng dẫn thành lập doanh nghiệp chế xuất theo Nghị định
mới của Chính phủ, kiến nghị của Công ty SD Global Việt Nam, tỉnh Hải Dương: Cục
Giám sát quản lý - Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 4129/GSQL-GQ2 ngày
24/12/2018 trả lời Công ty.
4.6. Công văn số 9175/VPCP-ĐMDN ngày 21/9/2018 của
Văn phòng Chính phủ về việc Công ty TNHH dịch vụ Song Phát kiến nghị về thủ tục
hải quan đối với hàng hóa quá cảnh tại cửa khẩu nhập: Tổng cục Hải quan đã có
Công văn số 6141/TCHQ-GSQL ngày 19/10/2018 trả lời công ty.
II. Về các kiến nghị tại Công văn số 0114/PTM-VP
ngày 18/01/2019:
Tổng cục Hải quan cung cấp thông tin về việc trả lời
kiến nghị của doanh nghiệp theo Công văn chuyển đến của Văn phòng Chính phủ như
sau:
- Công văn 12324/VPCP-ĐMDN ngày 19/12/2018 của Văn
phòng Chính phủ về việc Công ty TNHH Tân Nhật Minh, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị về
việc bị bác mã HS và truy thu tiền thuế: Kiến nghị tại Công văn này nhắc lại kiến
nghị gửi kèm Công văn số 11068/VPCP-ĐMDN ngày 14/11/2018 của Văn phòng Chính phủ.
Về việc này, Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 118/TCHQ-TXNK ngày 04/01/2019
phản hồi kiến nghị của Chi nhánh Công ty TNHH Tân Nhật Minh, TP. Hồ Chí Minh và
Công văn số 120/TCHQ-TXNK ngày 04/01/2019 yêu cầu Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh
tổ chức kiểm tra xác minh đối với các mặt hàng nhập khẩu của Công ty.
- Công văn số 12769/VPCP-ĐMDN ngày 31/12/2018 của
Văn phòng Chính phủ việc việc Công ty TNHH MTV xây dựng thương mại Tân Lộc Phan
kiến nghị việc xác nhận nợ thuế hải quan của Công ty: Tổng cục Hải quan đã có
Công văn số 346/TCHQ-TXNK ngày 14/01/2019 gửi Văn phòng Chính phủ về việc xử lý
kiến nghị của Công ty. Theo đó, Cục Thuế Xuất nhập khẩu - Tổng cục Hải quan đã
có Công văn số 8183/TXNK-DTQLT ngày 07/12/2018 gửi Công ty về việc xác nhận
Công ty không nợ thuế xuất nhập khẩu để làm thủ tục giải thể.
- Công văn 12327/VPCP-ĐMDN ngày 19/12/2018 của Văn
phòng Chính phủ về việc Công ty TNHH Wan Hai Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị
liên quan đến Công văn số 6889/TCHQ-GSQL của Tổng cục Hải quan và Công văn
12328/VPCP-ĐMDN ngày 19/12/2018 của Văn phòng Chính phủ liên quan việc Công ty
CP CMA CMG Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị về việc hãng tàu CMA hướng dẫn
khai báo manifest 6889/TCHQ-GSQL của Tổng cục Hải quan: Liên quan nội dung này,
ngày 02/01/2019, Tổng cục Hải quan đã có công văn số 35/TCHQ-GSQL chỉ đạo Cục Hải
quan các tỉnh, thành phố và Các Hãng tàu/Đại lý hãng tàu/Công ty giao nhận, theo
đó đối với hàng hóa nhập khẩu không phải là phế liệu thì tạm dừng thực hiện việc
khai báo manifest theo hướng dẫn tại công văn số 6889/TCHQ-GSQL .
Tổng cục Hải quan sẽ thông báo thời gian thực hiện
sau khi chỉnh sửa hệ thống tiếp nhận khai báo manifest trên cổng thông tin 1 cửa.
- Công văn 12771/VPCP-ĐMDN ngày 31/12/2018 của Văn
phòng Chính phủ về việc Công ty TNHH Dân & Đan kiến nghị về một số vướng mắc,
khó khăn đối với thủ tục hải quan của Công ty: Tổng cục Hải quan đã có Công văn
mật số 32/TCHQ-QLRR ngày 28/01/2019 để trả lời vướng mắc này (Công văn này có gửi
Công ty, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Cổng thông tin điện tử Chính phủ,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam).
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý đơn vị./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Văn phòng Chính phủ (để b/c);
- Thứ trưởng Vũ Thị Mai (để b/c);
- Vụ CST Bộ TC (để theo dõi);
- Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn (để b/c);
- Lưu: VT, PC (03b).
|
KT. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Mai Xuân Thành
|