Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự
các cấp
Ngày 19-6-2009, Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số Điều của Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 33/2009/QH12 về việc thi hành
Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết số 33). Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 đã quy định
đường lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ
ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự được công bố (ngày
29-6-2009).
Để thi hành đúng
các quy định tại Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33;
trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn
thi hành; tham khảo các hướng dẫn tương ứng tại Thông tư liên tịch số
01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 12-6-2000 của Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội
và Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-01-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn một số Điểm sau đây:
1. Kể từ ngày
29-6-2009 khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, không áp dụng hình phạt tử hình
đối với người phạm một trong các tội được quy định tại Điểm a
Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 (không phân biệt hành vi phạm tội được
thực hiện trước hay sau ngày 29-6-2009).
2. Trường hợp hình
phạt tử hình đã tuyên trước ngày 29-6-2009 đối với người phạm một trong các tội
được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33
và bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm báo
cáo ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Toà án nhân dân tối
cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình xuống hình phạt tù chung thân đối với
người bị kết án.
3. Kể từ ngày
29-6-2009 không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi
được quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị
quyết số 33. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc phỳc
thẩm, thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp Viện
kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để Điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình
sự của bị can mà Toà án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Toà án áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định
trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện
kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định ) rút quyết định truy tố và đề nghị Toà
án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ
án đó áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 và
Điều 181 của Bộ luật tố tụng hình sự
ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện
kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ
toạ phiên toà (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại
phiên toà sơ thẩm) áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của
Nghị quyết số 33, Điểm 2 Điều 107 và Điều
180 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ
án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm phải mở
phiên toà và Hội đồng xét xử áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của
Nghị quyết số 33, Điểm 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ
luật tố tụng hình sự quyết định huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố
bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án;
đ) Cần chú ý rằng
việc đình chỉ vụ án được hướng dẫn tại các Điểm b, c và d Mục 3 này chỉ là đình
chỉ đối với các trường hợp được quy định tại các Điểm b, c và
d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 về mặt hình sự, còn các vấn đề khác
như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành
chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ
án (nếu có), thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Việc miễn chấp
hành hình phạt quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết
số 33 được thực hiện như sau:
a) Đối với người
đang chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội,
thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi
người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù hoặc cơ quan thi hành
hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội;
b) Đối với người
đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp
huyện nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được
giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục;
c) Đối với người
đang chấp hành hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế, thì Chánh án Toà án nhân
dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt
ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại
theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt;
d) Đối với người
đang chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định, tước một số quyền công dân, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện,
Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định
miễn chấp hành thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định, thời hạn tước một số quyền công dân còn lại theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu
vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
đ) Đối với người bị
xử phạt tù, xử phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội đang được tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp
hành hình phạt, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự
cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
e) Đối với người bị
xử phạt bằng các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt,
đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh
án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư
trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú
hoặc làm việc.
g) Khi xem xét,
quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số vấn đề sau đây:
g.1) Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc
hội chỉ quy định việc miễn chấp hành hình phạt (cả hình phạt chính và hình phạt
bổ sung), còn đối với các vấn đề khác đối với họ, như trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng...., thì họ vẫn phải thi hành;
g.2) Trường hợp một
người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án),
trong đó có tội mà Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự không
quy định là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được
thực hiện như sau:
- Nếu người bị kết
án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp
hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội
không thuộc trường hợp quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2
Điều 1 của Nghị quyết số 33, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối
với tội mà Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự không quy định
là tội phạm nữa.
Ví dụ 1: Nguyễn
Văn T bị Toà án xử phạt 1 năm tù về tội “sử dụng trái phép chất ma tuý” và 2
năm tù về tội “giao cấu với trẻ em”, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp
hành hình phạt chung là 3 năm tù; nếu Nguyễn Văn T chưa chấp hành hình phạt tù
hoặc đang chấp hành hình phạt tù, nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt tù
chưa quá 2 năm, thì Nguyễn Văn T được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt 1 năm tù
đối với tội “sử dụng trái phép chất ma tuý”.
- Nếu người bị kết
án đã chấp hành một phần hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời
gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt
đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các Điểm b, c
và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, thì họ được miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại.
Ví dụ 2: Nếu trong
ví dụ 1 trên đây, Nguyễn Văn T đã chấp hành hình phạt tù bằng hoặc quá 2 năm,
thì Nguyễn Văn T được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại.
5. Khi đình chỉ vụ
án cũng như miễn chấp hành hình phạt, thì Toà ỏn ra quyết định đình chỉ hoặc
quyết định miễn chấp hành hình phạt cần giải thích cho người được đình chỉ vụ
án hoặc được miễn chấp hành hình phạt biết là việc đình chỉ hoặc miễn chấp hành
hình phạt này là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, chứ không
phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền đòi
yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 620 của Bộ
luật dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội “về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra”.
6. Đối với các đối
tượng được quy định tại các Điểm b, c, d và đ Khoản 2 Điều 1 của
Nghị quyết số 33 mà đang bị truy nã, thì Toà án đó ra quyết định đình chỉ vụ
án hoặc miễn chấp hành hình phạt đồng thời phải thông báo cho cơ quan đã ra quyết
định truy nã biết để cơ quan này ra quyết định đình nã, nếu họ không bị truy nã
về hành vi phạm tội khác.
7. Đối với người bị
kết án thuộc trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của
Nghị quyết số 33, nếu họ có yêu cầu, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm
vụ án đối với họ cấp giấy chứng nhận xoá án tích cho họ.
Toà án nhân dân tối
cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
các đồng chí Chánh toà các Toà phúc thẩm, Toà hình sự và Thủ trưởng các đơn vị
liên quan của Toà án nhân dân tối cao nhận được Công văn này cần tổ chức triển
khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình nhằm bảo đảm cho việc thi hành đúng
và thống nhất Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33 của Quốc hội.
Trong quá trình thực
hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn bổ sung thì kịp
thời phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có sự giải thích, hướng dẫn bổ
sung.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo);
- Các đ/c Phó Chánh án TANDTC
(để biết và chỉ đạo thực hiện);
- Các đơn vị thuộc TANDTC;
- Các đ/c Thẩm phán TANDTC;
- Uỷ ban tư pháp của Quốc hội;
- Uỷ ban pháp luật của Quốc hội;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
|
KT.
CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC
Đặng Quang Phương
|