|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
117/2004/KHXX
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
|
Người ký:
|
Đặng Quang Phương
|
Ngày ban hành:
|
22/07/2004
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
Kính
gửi:
|
- Các Toà án nhân dân và Toà
án quân sự các cấp
- Các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
|
Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Bộ Luật tố tụng
hình sự mới; Bộ Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2004. Để thi hành đúng và
thống nhất các quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 (sau đây viết tắt
là BLTTHS), Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án nhân dân và Toà án quân
sự các cấp triển khai nghiên cứu kỹ các quy định của BLTTHS; đặc biệt là những
quy định mới được sửa đổi, bổ sung. Trong khi chưa có các văn bản hướng dẫn của
cơ quan có thẩm quyền, Toà án nhân dân tối cao lưu ý một số điểm sau đây:
I. VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA
1. Đối với luật sư
Cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định
tại các điều 56, 57, 58 và 190 BLTTHS cũng như các quy định
của Pháp lệnh luật sư và những văn bản có liên quan để xem xét việc cấp giấy chứng
nhận (hoặc không cấp giấy chứng nhận) người bào chữa cho luật sư. Đặc biệt, cần
lưu ý quy định bổ sung tại Điều 190 BLTTHS về việc nếu người
bào chữa vắng mặt thì Toà án vẫn mở phiên toà xét xử, trừ trường hợp bắt buộc
phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57
BLTTHS.
2. Đối với người đại
diện hợp pháp của bị cáo
Cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định
tại các điều 56 và 57 BLTTHS và những văn bản có liên quan
để xác định đúng trường hợp nào thì được công nhận là đại diện hợp pháp của bị
cáo và được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị cáo.
3. Đối với bào chữa
viên nhân dân
Tại Khoản 3 Điều 57
BLTTHS đã bổ sung quy định: “Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”. Để thi hành đúng và
thống nhất quy định này, cần lưu ý về những điều kiện và những thủ tục cần thiết
để được công nhận là bào chữa viên nhân dân.
II. VỀ XÉT XỬ SƠ
THẨM
1. Thời hạn chuẩn
bị xét xử
Cần thi hành đúng quy định tại Điều 176 BLTTHS về thời hạn chuẩn bị xét xử, cụ thể là trong
thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với
tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án Thẩm phán được
phân công chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét
xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Toà án phải
mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên
toà trong thời hạn ba mươi ngày. Đối với những vụ án phức tạp thì Chánh án Toà
án cấp sơ thẩm có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử tuỳ theo từng
loại tội phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS.
2. áp dụng, thay đổi
hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Toà án cấp
sơ thẩm phải xem xét ngay việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn;
cần xem xét ngay trường hợp nào vẫn còn thời hạn tạm giam, trường hợp nào đã hết
thời hạn tạm giam và cần thiết phải tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam. Đối với
trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên
toàn thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết hoặc còn ít hơn bốn mươi ngày thì
theo quy định tại Điều 228 BLTTHS, Hội đồng xét xử cần phải
ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; thời hạn tạm giam là
bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Không được ghi trong bản án “tiếp tục tạm
giam bị cáo để bảo đảm thi hành án” như trước khi BLTTHS có hiệu lực thi hành.
3.Về việc hoãn
phiên toà
Việc hoãn phiên toà phải thực hiện
đúng theo quy định tại các điều 45, 46, 47, 187, 190, 191, 192,
193 và 194 BLTTHS. Lý do hoãn phiên toà phải được ghi rõ trong biên bản
phiên toà và lưu vào hồ sơ vụ án. Thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm là không quá
ba mươi ngày, kể từ ngày quyết định hoãn phiên toà.
4. Về việc giao bản
án
Việc giao bản án của Toà án phải thực
hiện đúng các quy định tại Điều 229 BLTTHS, cụ thể như sau:
Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày
tuyên án, Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp,
người bào chữa; gửi bản án cho người bị xử vắng mặt, cơ quan Công an cùng cấp;
thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Cần lưu ý là trong trường hợp vụ án có bị cáo
hoặc đương sự khác (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự...) vắng mặt
tại phiên toà sơ thẩm thì Toà án cấp sơ thẩm phải gửi bản án cho người vắng mặt
đồng thời tiến hành niêm yết bản án tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư
trú để có căn cứ xác định thời hạn kháng cáo, kháng nghị (việc niêm yết bản án
phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân nơi niêm yết bản án và lưu vào hồ sơ vụ
án).
III. XÉT XỬ PHÚC
THẨM
1. Xét kháng cáo
quá hạn
Việc xét kháng cáo quá hạn phải được
thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 235 BLTTHS; cụ thể
là Toà án cấp phúc thẩm phải thành lập một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán để xét
kháng cáo quá hạn; Hội đồng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng
cáo quá hạn. Như vậy, trong trường hợp có bị cáo kháng cáo quá hạn thì việc xét
kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm không phụ
thuộc vào việc ngoài bị cáo kháng cáo quá hạn, thì trong vụ án đó còn có kháng
cáo của các bị cáo khác hoặc đương sự khác trong hạn luật định hay không. Chỉ
trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo quá hạn của bị cáo và
người này cần có mặt tại phiên toà phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm xét hỏi về
hành vi phạm tội của những bị cáo khác thì họ được triệu tập tham gia phiên toà
phúc thẩm với tư cách là người làm chứng.
2. Về việc áp dụng,
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp
phúc thẩm phải xem xét ngay việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn
chặn. Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên
toà thời hạn tạm giam đã hết hoặc còn ít hơn bốn mươi ngày, thì Hội đồng xét xử
phải ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; thời hạn
tạm giam là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
3. Việc giao bản
án và quyết định phúc thẩm
Việc giao bản án và quyết định phúc
thẩm cần được thực hiện đúng quy định tại Điều 245 BLTTHS; cụ
thể là trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định,
Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho người kháng
nghị, Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người đã kháng
cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc
người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong
trường hợp bản án phúc thẩm có tuyên hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết
định dân sự; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Trong trường hợp Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng
không quá hai mươi lăm ngày.
Nhận được Công văn này đề nghị các đồng
chí Chánh án các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đồng chí Chánh
án Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phổ biến và quán triệt cho cán bộ,
công chức trong cơ quan, đơn vị mình biết để bảo đảm việc thực hiện đúng và thống
nhất các quy định của BLTTHS.
|
KT.
CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Đặng Quang Phương
|
Công văn số 117/2004/KHXX ngày 22/07/2004 của Toà án nhân dân tối cao về việc triển khai thi hành BLTTHS năm 2003
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn số 117/2004/KHXX ngày 22/07/2004 ngày 22/07/2004 của Toà án nhân dân tối cao về việc triển khai thi hành BLTTHS năm 2003
6.520
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|