BỘ
CÔNG THƯƠNG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2464/BCT-TMĐT
V/v báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Kế hoạch
tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 03 năm 2011
|
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện Quyết
định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 (Quyết
định 222), Bộ Công Thương xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ tổng kết 5 năm thực
hiện Kế hoạch tổng thể, cụ thể như sau:
I. TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU ĐỀ RA TẠI KẾ HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
GIAI ĐOẠN 2006-2010
Kế hoạch tổng thể
phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 đã đề ra bốn mục tiêu cần đạt
được vào năm 2010, Bộ Công Thương xin báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu
này như sau:
Mục tiêu
1: Khoảng 60% doanh nghiệp có quy mô lớn tiến hành giao dịch thương mại điện tử
loại hình “doanh nghiệp với doanh nghiệp”.
Năm 2010, Bộ
Công Thương đã tiến hành khảo sát 3.400 doanh nghiệp đang hoạt động trên toàn
quốc. Kết quả cho thấy, tỷ lệ ứng dụng thương mại điện tử (TMĐT) trong giao dịch
của các doanh nghiệp quy mô lớn (có từ 300 lao động trở lên) đã vượt mức chỉ
tiêu đề ra trong Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010. Cụ thể,
70% doanh nghiệp lớn tham gia khảo sát đã thiết lập website. 95% nhận đơn đặt
hàng qua các phương tiện điện tử và 96% doanh nghiệp sử dụng thư điện tử thường
xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp khai
thác các ứng dụng này ở mức độ chuyên sâu và thật sự hiệu quả chưa cao.
Mục tiêu
2: Khoảng 80% doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích của thương mại
điện tử và tiến hành giao dịch thương mại điện tử loại hình “doanh nghiệp với
người tiêu dùng” hoặc “doanh nghiệp với doanh nghiệp”.
Theo kết quả khảo
sát năm 2010 của Bộ Công Thương, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã biết tới
và đánh giá cao những lợi ích mà thương mại điện tử mang lại. Phần lớn doanh
nghiệp đã triển khai ứng dụng TMĐT ở các mức độ khác nhau. Đến cuối năm 2010,
100% doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia khảo sát đã trang bị máy tính, 98% có kết
nối Internet, 80% sử dụng thư điện tử thường xuyên cho mục đích kinh doanh và
85% đã chấp nhận đơn đặt hàng qua các phương tiện điện tử. Như vậy, đến cuối
năm 2009 mục tiêu 80% doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích của
thương mại điện tử và tiến hành giao dịch thương mại điện tử loại hình “doanh
nghiệp với người tiêu dùng” hoặc “doanh nghiệp với doanh nghiệp” về cơ bản đã
được hoàn thành.
Mục tiêu
3: Khoảng 10% hộ gia đình tiến hành giao dịch thương mại điện tử loại hình
“doanh nghiệp với người tiêu dùng” hoặc “người tiêu dùng với người tiêu dùng”.
Năm 2010, Bộ
Công Thương tiến hành khảo sát tình hình ứng dụng TMĐT tại 500 hộ gia đình trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả khảo sát cho thấy 49% hộ gia đình đã kết nối
Internet, trong đó 18% cho biết mục đích truy cập Internet có liên quan tới
thương mại điện tử và 4% từng sử dụng dịch vụ thanh toán hoặc ngân hàng trực
tuyến khi truy cập Internet. Tỷ lệ 21% hộ gia đình truy cập Internet thông qua
thiết bị cầm tay cho thấy sự lớn mạnh nhanh chóng cũng như tiềm năng của các ứng
dụng thương mại điện tử trên nền thiết bị di động (m-commerce). Tuy kết quả khảo
sát chỉ phản ánh thực trạng ứng dụng TMĐT trong các hộ gia đình tại thành phố
Hà Nội, nhưng với tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet trên toàn quốc đạt
12,2% vào năm 2010 và số thuê bao di động cuối năm 2010 được thống kê ở mức 172
thuê bao/100 dân, Việt Nam đang có những cơ sở hết sức thuận lợi để đẩy mạnh
triển khai ứng dụng thương mại điện tử tới mọi thành phần người tiêu dùng trong
toàn xã hội. Các số liệu trên cho thấy giao dịch TMĐT của người tiêu dùng giai
đoạn 5 năm qua gia tăng nhanh chóng và mục tiêu 10% hộ gia đình tiến hành giao
dịch TMĐT có thể xem như đã hoàn thành.
Mục tiêu
4: Các chào thầu mua sắm Chính phủ được công bố trên Trang tin điện tử của các
cơ quan Chính phủ và ứng dụng giao dịch thương mại điện tử trong mua sắm Chính
phủ.
Đến cuối năm
2010, khung pháp lý cho việc ứng dụng giao dịch thương mại điện tử trong mua sắm
Chính phủ về cơ bản đã được hoàn thiện. Các nội dung về công bố thông tin đấu
thầu và đấu thầu qua mạng đã được quy định khá đầy đủ trong các văn bản như Luật
Đấu thầu năm 2005, Nghị định số 58/2008/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành
Luật đấu thầu, Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông về
việc cung cấp thông tin và đảm bảo khả năng truy cập thuận tiện đối với trang
thông tin điện tử của cơ quan nhà nước và một số văn bản cấp Bộ khác.
Thực hiện các
văn bản nói trên, đến cuối năm 2010 các thông tin về đấu thầu, mua sắm công và
thông báo mời thầu đã được công bố rộng rãi trên trang thông tin điện tử của
nhiều cơ quan Bộ ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đang khẩn trương triển khai Dự án Ứng
dụng thương mại điện tử vào mua sắm của Chính phủ.
Với tình hình
triển khai như trên, có thể kết luận tới hết năm 2010, mục tiêu công bố các
chào thầu mua sắm Chính phủ trên trang thông tin điện tử của các Bộ, ngành và ứng
dụng giao dịch thương mại điện tử trong mua sắm Chính phủ đã cơ bản được hoàn
thành, tạo tiền đề cho việc triển khai trên diện rộng các hoạt động đấu thầu điện
tử trong mua sắm Chính phủ.
II. TÌNH HÌNH
TRIỂN KHAI CÁC NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Tuyên truyền,
phổ biến và đào tạo về TMĐT
Triển khai Quyết
định 222, trong 5 năm qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến về TMĐT đã được đẩy
mạnh dưới nhiều hình thức, với sự tham gia tích cực của các cơ quan quản lý nhà
nước, tổ chức xã hội – nghề nghiệp cũng như cơ quan thông tin đại chúng và
doanh nghiệp. Nhiều sự kiện lớn, các cuộc thi, giải thưởng liên quan đến TMĐT
được tổ chức thường xuyên như Giải Cúp vàng TMĐT của Hội Tin học Việt Nam, Giải
Sao khuê của Hiệp hội phần mềm Việt Nam, Chương trình Ý tưởng số, Chương trình
xếp hạng doanh nghiệp TMĐT uy tín, Diễn đàn triển lãm TMĐT Việt Nam (Ecombiz) của
Bộ Công Thương phối hợp với Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam.
Hoạt động đào tạo
cho cán bộ quản lý nhà nước và doanh nghiệp về TMĐT đã đi vào nề nếp với các
chương trình hội thảo, tập huấn được tổ chức thường xuyên và rộng khắp. Từ năm
2006-2010, Bộ Công Thương phối hợp với các Sở Công Thương, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam và một số đơn vị khác đã tổ chức hơn 200 khóa tập huấn về
quản lý nhà nước cũng như kỹ năng ứng dụng TMĐT trong kinh doanh cho các cơ
quan và doanh nghiệp trên cả nước, trong đó trên 90% là cho các tỉnh, thành phố
khác ngoài Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, các cơ quan quản lý nhà nước
tại địa phương đã có nhận thức khá tốt về lợi ích của TMĐT đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 5 năm vừa qua, đã có 58/63 tỉnh và thành phố
phê duyệt và triển khai kế hoạch phát triển TMĐT của địa phương. Hầu hết các Sở
Công Thương trên cả nước cũng đã cử Lãnh đạo Sở phụ trách và bố trí cán bộ
chuyên trách về TMĐT để giúp Sở triển khai các hoạt động trong lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, các sàn giao dịch TMĐT, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ TMĐT
cũng tích cực hỗ trợ đào tạo các thành viên và khách hàng những kỹ năng, cách
thức triển khai ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp.
Đào tạo chính
quy về TMĐT được các cơ sở đào tạo quan tâm đẩy mạnh. Theo kết quả khảo sát năm
2010 của Bộ Công Thương, hiện có 77 cơ sở đào tạo bậc đại học và cao đẳng triển
khai hoạt động đào tạo về TMĐT, trong đó 2 trường đã thành lập khoa TMĐT, 14
trường thành lập bộ môn TMĐT. Hoạt động đào tạo TMĐT cũng bắt đầu đi vào chiều
sâu. Một số trường đã đầu tư và mời chuyên gia trong và ngoài nước tư vấn xây dựng
chương trình đào tạo cũng như chuyển giao tài liệu, phương pháp giảng dạy. Cùng
với xu thế tăng cường và phát triển các chương trình liên kết đào tạo quốc tế,
một số môn học về TMĐT cũng nằm trong danh mục chương trình đào tạo đại học và
sau đại học của các trường đại học quốc tế tại Việt Nam.
2. Xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Vào năm kết thúc
triển khai Quyết định 222, khung pháp lý cho thương mại điện tử Việt Nam đã cơ
bản được hoàn thiện theo đúng định hướng hỗ trợ, tạo điều kiện cho thương mại
điện tử phát triển. Đến cuối năm 2010, khung pháp lý cơ bản cho giao dịch điện
tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng được hình thành quanh hai trụ cột
chính là Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin, với 7 nghị định hướng
dẫn Luật và 16 thông tư quy định chi tiết những khía cạnh cụ thể của giao dịch
điện tử trong từng lĩnh vực ứng dụng đặc thù. Ngoài việc chi tiết hóa các quy định
pháp luật về hoạt động TMĐT trên mọi phương diện của đời sống xã hội, những văn
bản này còn đặt cơ sở cho nhiều chuyển biến lớn về nền tảng ứng dụng TMĐT như vấn
đề quản lý Internet, công nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử, và bảo vệ
người tiêu dùng trong thương mại điện tử.
a) Quản lý dịch
vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
Năm 2008, Nghị định
số 97/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet
và thông tin điện tử trên Internet được ban hành, đánh dấu một bước tiến lớn
trong việc tạo lập môi trường thông thoáng hơn cho ứng dụng TMĐT tại Việt Nam.
Bước tiến lớn nhất của Nghị định số 97/2008/NĐ-CP là đã thu gọn các quy định về
cấp phép trước khi đối với tất cả trang thông tin điện tử về một diện hẹp các
báo điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp và trang thông tin điện tử cung cấp
dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Việc xóa bỏ rào cản về cấp phép này là một bước
tiến tích cực trong việc cải thiện môi trường pháp lý cho ứng dụng Internet nói
chung và TMĐT nói riêng tại Việt Nam.
Một bước tiến lớn
nữa về các quy định quản lý Internet cũng được thể hiện trong vấn đề quản lý
tên miền. Trước khi Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT được đưa vào triển khai,
tên miền quốc gia “.vn” không được phép chuyển nhượng dưới bất kỳ hình thức
nào. Năm 2009, Luật Viễn thông được ban hành đã mở ra một hướng tiếp cận hoàn
toàn mới về vấn đề quản lý đối với nguồn tài nguyên quan trọng này, tiến gần
hơn với xu thế chung của thế giới là phân bổ tên miền theo cơ chế thị trường.
Các quy định tại Luật Viễn thông 2009 đã cho phép chuyển nhượng tên miền
Internet, trừ những tên miền dành cho cơ quan Đảng và Nhà nước, đồng thời mở đường
cho việc phân bổ những tài nguyên Internet có giá trị thương mại cao thông qua
hình thức đấu giá.
Với sự phát triển
nhanh của số lượng website TMĐT trong 5 năm qua, các vụ việc tranh chấp tên miền,
đặc biệt là tên miền liên quan đến nhãn hiệu và tên thương mại cũng tăng nhanh
cả về số lượng lẫn độ phức tạp. Tháng 12/2008, Bộ Thông tin và Truyền thông ban
hành Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT “Quy định về giải quyết tranh chấp tên miền
quốc gia Việt Nam “.vn” làm căn cứ để các tổ chức trọng tài và tòa án tham khảo
khi phân xử tranh chấp dân sự hoặc thương mại phát sinh trong quá trình sử dụng
tên miền các cấp dưới tên miền quốc gia “.vn”. Việc áp dụng kết quả phân xử của
tòa án và trọng tài cho các tranh chấp liên quan đến tên miền thay cho can thiệp
trực tiếp của VNNIC là một thay đổi lớn về phương thức quản lý đối với nguồn
tài nguyên Internet quan trọng này. Bằng cách giảm can thiệp hành chính và nâng
cao vai trò của các thể chế xã hội, Quy định này sẽ giúp thiết lập một cơ chế
công bằng, minh bạch trong việc phân bổ tên miền, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh trên Internet và góp phần thúc đẩy phát triển TMĐT tại Việt Nam.
b) Giá trị pháp
lý của chứng từ điện tử
Năm 2005, lần đầu
tiên trong lịch sử, các văn bản ở dạng điện tử - hay “thông điệp dữ liệu” theo
ngôn ngữ văn bản luật – được chính thức thừa nhận giá trị pháp lý tại Việt Nam.
Sự thừa nhận này thể hiện một cách nhất quán và đồng bộ tại ba văn bản nền tảng
của hệ thống luật dân sự và thương mại: Luật Giao dịch điện tử, Bộ luật Dân sự
sửa đổi và Luật Thương mại sửa đổi, cùng được ban hành vào năm 2005.
Khi những văn bản
được khởi tạo, trao đổi và lưu trữ bằng phương tiện điện tử được pháp luật
chính thức thừa nhận, thì các hoạt động mua bán, quảng cáo, xúc tiến thương mại
cũng như các giao dịch dân sự khác dựa trên việc trao đổi văn bản điện tử mới
có thể phát triển một cách bền vững, trong khuôn khổ được pháp luật bảo vệ. Do
vậy, việc thông điệp dữ liệu được thừa nhận giá trị pháp lý như văn bản và thừa
nhận giá trị bản gốc khi đáp ứng các điều kiện kỹ thuật cần thiết đã tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc triển khai rộng rãi ứng dụng TMĐT vào các giao dịch
thương mại và dân sự trong xã hội. Bên cạnh những nguyên tắc chung đưa ra trong
các văn bản luật, sự thừa nhận này còn được cụ thể hóa đối với từng lĩnh vực đặc
thù của hoạt động kinh tế với việc ra đời hàng loạt nghị định và văn bản dưới
luật trong giai đoạn 5 năm vừa qua, đặc biệt là các văn bản về chứng từ điện tử.
c) Bảo vệ người
tiêu dùng trong thương mại điện tử
Vấn đề bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng đang ngày càng được quan tâm và việc Quốc hội lần đầu
tiên thông qua Luật bảo vệ người tiêu dùng vào cuối năm 2010 đã phản ánh tầm
quan trọng ngày càng tăng của vấn đề này trong hệ thống pháp luật kinh tế - dân
sự Việt Nam. Nhận thức của xã hội về quyền lợi người tiêu dùng gia tăng, cùng với
sự phát triển nhanh của các ứng dụng TMĐT B2C và C2C, khiến những vụ việc liên
quan đến quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch trên môi trường mạng thời
gian qua thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận.
Trước thực trạng
đó, một loạt văn bản quy phạm pháp luật được ban hành thời gian qua đã đưa ra
nhiều qui định liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện
tử và chủ yếu tập trung vào 2 khía cạnh đặc thù là bảo vệ thông tin cá nhân của
người tiêu dùng và bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng
trên website thương mại điện tử.
Mặc dù Việt Nam
vẫn chưa có một văn bản điều chỉnh riêng vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân, nhưng
xem xét một cách hệ thống các văn bản quy phạm phát luật về TMĐT ban hành trong
5 năm vừa qua, có thể thấy những nội dung liên quan đến vấn đề này đã được quy
định ngày càng rõ từ cấp độ luật đến các văn bản hướng dẫn luật. Đặc biệt, đã
có quy định về các hình thức xử phạt, chế tài cụ thể từ xử phạt vi phạm hành
chính, phạt tiền đến xử lý hình sự với các trường hợp vi phạm nặng.
Liên quan tới vấn
đề bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng khi tham gia giao dịch trên các website
TMĐT, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 09/2008/TT-BCT vào ngày 21/7/2008 hướng
dẫn việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT. Thông tư
quy định về một quy trình giao kết hợp đồng tiêu biểu qua website TMĐT nhằm
phân định rõ phạm vi trách nhiệm của mỗi bên và nâng cao tính minh bạch của môi
trường giao dịch. Thông tư cũng quy định cụ thể về những thông tin cần được
cung cấp trên website nhằm bảo vệ lợi ích tối thiểu cho khách hàng là người
tiêu dùng. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên đề cập chi tiết đến việc
bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam.
3. Cung cấp dịch
vụ công trực tuyến
Thực hiện Quyết
định 222, giai đoạn 5 năm qua các Bộ ngành, địa phương đã tích cực triển khai
việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ doanh nghiệp và đạt được nhiều kết
quả tích cực. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến cuối năm 2010
các Bộ ngành đã cung cấp 27 dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, trong đó Bộ Tài
chính, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Kế hoạch và Đầu tư là
những đơn vị đi đầu trong việc cung cấp trực tuyến các thủ tục liên quan tới hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên toàn quốc, 38 địa phương đã triển khai
cung cấp 748 dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, trong đó có nhiều dịch vụ liên
quan tới thương mại như cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy phép thành lập
văn phòng đại diện, giấy phép thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
v.v…
Ngoài việc mở rộng
số lượng dịch vụ công được cung cấp, các Bộ, ngành, địa phương đã chú trọng nhiều
hơn tới chất lượng dịch vụ và tính tương tác giữa hệ thống với người sử dụng, đồng
thời nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp nhiều dịch vụ công trực tuyến
ở mức độ cao. Theo khảo sát, đánh giá và xếp hạng các trang thông tin điện tử của
các bộ ngành và địa phương do Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện, từ năm
2007 đến nay, việc cung cấp thông tin, mức độ cung cấp thông tin, chỉ số truy cập
và số lượng và mức độ dịch vụ hành chính công trực tuyến được cung cấp đến người
dân của các bộ, cơ quan ngang bộ và tất cả các tỉnh thành đều có những cải thiện
đáng kể qua các năm.
Những dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3 đã được triển khai trên quy mô rộng như quản lý và cấp
chứng nhận xuất xứ điện tử, cấp phép nhập khẩu tự động tiếp tục được triển khai
và nâng cấp; dịch vụ Khai thuế điện tử, Hải quan điện tử, Đấu thầu trực tuyến
cũng đang được triển khai thí điểm mở rộng ở nhiều địa bàn.
a) Hải quan điện
tử
Từ tháng 10 năm
2005, Bộ Tài chính bắt đầu triển khai thí điểm thủ tục hải quan điện tử qua 2
giai đoạn: thí điểm hẹp từ tháng 10/2005 – 11/2009 và thí điểm mở rộng từ tháng
12/2009 – 12/2011. Bên cạnh đó, trong Quý IV năm 2010, Tổng cục Hải quan đã thí
điểm thực hiện thu thuế xuất nhập khẩu, phí, lệ phí và các khoản thu khác của
Ngân sách Nhà nước bằng phương thức điện tử.
Việc triển khai
mở rộng thủ tục hải quan điện tử đã mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp,
đáp ứng các yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ; thời gian thông quan đối với các lô hàng thực hiện thủ tục hải quan
điện tử giảm đáng kể so với thủ tục thông thường và khai từ xa; danh mục các chứng
từ trong bộ hồ sơ hải quan điện tử giảm đáng kể so với thủ tục hải quan truyền
thống.
Tính đến
15/11/2010, thủ tục hải quan điện tử đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
- Số lượng các Cục
hải quan đã triển khai: 13/33, chiếm tỷ lệ 39,4%.
- Số lượng các
Chi cục đã triển khai: 70. Trong đó có 8/13 Cục hải quan đã triển khai thủ tục
hải quan điện tử tại 100% các Chi cục.
- Số lượng tờ
khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử: 254.248 tờ khai.
- Kim ngạch xuất
nhập khẩu đạt 27.926 triệu USD.
- Tổng số thuế
thu được: 41.592 tỷ đồng.
- Thời gian
thông quan trung bình: Đối với luồng xanh từ 3-15 phút; luồng vàng điện tử từ
10-20 phút; luồng vàng giấy từ 10-60 phút; luồng đỏ phụ thuộc thời gian kiểm
tra thực tế hàng hóa.
b) Hệ thống cấp
chứng nhận xuất xứ điện tử (eCoSys)
Từ đầu năm 2006,
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã triển khai Hệ thống cấp chứng nhận xuất
xứ điện tử (eCoSys) để cấp chứng nhận xuất xứ (C/O) cho doanh nghiệp. Bắt đầu
được triển khai trên diện rộng từ Quý II năm 2008, đến nay, Hệ thống eCosys có
sự tham gia của 18 Phòng Quản lý xuất nhập khẩu, 37 Ban quản lý Khu Công nghiệp/Khu
chế xuất, 9 tổ chức cấp C/O thuộc VCCI và trên 6.700 doanh nghiệp xuất nhập khẩu
(trong đó có khoảng 1.500 doanh nghiệp thường xuyên thực hiện đề nghị cấp C/O
qua eCoSys). Tính đến nay, số bộ C/O điện tử được cấp trung bình hàng ngày đạt
trên 700 bộ. Tổng số C/O đã cấp từ khi triển khai hệ thống đến nay là trên
650.000 bộ.
c) Hệ thống cấp
phép nhập khẩu tự động được Bộ Công Thương triển khai theo Quyết định số
24/2008/QĐ-BCT ngày 01 tháng 8 năm 2008. Kết quả đến hết năm 2010 đã có trên
400 doanh nghiệp nhập khẩu đã tham gia sử dụng hệ thống.
d) Hệ thống khai
thuế qua mạng
Từ tháng 8/2009,
Tổng cục Thuế đã triển khai thí điểm hệ thống khai thuế qua mạng đối với người
nộp thuế tại 4 địa bàn: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng
Tàu, áp dụng cho các tờ khai thuế Giá trị gia tăng, Thu nhập doanh nghiệp, Tiêu
thụ đặc biệt, Tài nguyên, Thu nhập cá nhân, Báo tình hình sử dụng hóa đơn, Tờ
khai thuế nhà thầu nước ngoài. Tính đến cuối năm 2009, Hệ thống khai thuế qua mạng
đã được triển khai cho 427 người nộp thuế với tổng số tờ khai điện tử nhận vào
hệ thống quản lý thuế là 2.019 tờ khai. Năm 2010, hệ thống khai thuế qua mạng
được triển khai mở rộng tại 19 tỉnh, thành phố. Đến nay, hơn 7.200 người nộp
thuế tại 19 địa bàn này đã thực hiện khai thuế qua mạng với tổng số tờ khai điện
tử nhận vào hệ thống quản lý thuế đạt gần 90.000 tờ khai.
đ) Hệ thống đấu
thầu trực tuyến
Thời gian qua, Cục
Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với chuyên gia Hàn Quốc xây
dựng hệ thống đấu thầu qua mạng thử nghiệm tại địa chỉ
http://muasamcong.mpi.gov.vn. Ngày 14/1/2009, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã phê duyệt dự án thử nghiệm “Thiếp lập hệ thống mua sắm điện tử tại Việt Nam”
với thời gian thực hiện là 3 năm, từ 2009-2011. Sau giai đoạn chuẩn bị, hiện hệ
thống đấu thầu qua mạng đang được triển khai thí điểm tại ba đơn vị là Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Điện
lực Việt Nam. Đồng thời Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có văn bản số 6086/BKH-QLĐT
ngày 31 tháng 8 năm 2010 đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương, các tập
đoàn kinh tế, các Tổng công ty trên toàn quốc tham gia thí điểm đấu thầu qua mạng.
Để hướng dẫn hoạt động đấu thầu qua mạng, ngày 22/7/2010 Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã ban hành Thông tư số 17/2010/TT-BKH quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua
mạng.
Ngoài các dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, trong năm 2010 những dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
đầu tiên đã được đầu tư xây dựng và đưa vào triển khai. Từ tháng 2/2010, dịch vụ
cấp phép họp báo, hội thảo, hội nghị có yếu tố nước ngoài được chính thức khai
trương trên trang tin điện tử của Sở Thông tin và Truyền thông TP. Hồ Chí Minh
tại địa chỉ www.ict-hcm.gov.vn. Ngày 7/5/2010, Bộ Công Thương cũng đã chính thức
khai trương hệ thống cấp giấy phép xác nhận khai báo hóa chất trực tuyến tại địa
chỉ www.cuchoachat.gov.vn. Tại mức độ này, toàn bộ quy trình cung cấp dịch vụ gồm
việc khai hồ sơ và xử lý hồ sơ sẽ hoàn toàn được tiến hành qua mạng, vấn đề an
toàn thông tin sẽ được đảm bảo với công nghệ chữ ký số. Đây là hai dịch vụ công
mức độ 4 đầu tiên trong cả nước.
Với các dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4 – mức độ cao nhất, toàn bộ quy trình thủ tục hành
chính được thực hiện qua mạng sẽ giúp giảm thời gian, giảm chi phí trong hoạt động
cung cấp và sử dụng dịch vụ công, nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp,
đồng thời giúp cơ quan quản lý nhà nước có số liệu, báo cáo chính xác, kịp thời.
4. Phát triển
công nghệ hỗ trợ TMĐT
a) Ban hành và
phổ cập các tiêu chuẩn sử dụng TMĐT
Trong giai đoạn
5 năm qua, việc ban hành, phổ cập các chính sách, biện pháp nhằm phát triển
công nghệ phục vụ việc quản lý và thuận lợi hóa hoạt động TMĐT đã được các cơ
quan Bộ, ngành rất chú trọng. Bộ Khoa học và Công nghệ với trách nhiệm quản lý
nhà nước về công tác tiêu chuẩn hóa, đã xây dựng và phổ biến nhiều bộ tiêu chuẩn
liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử, bao gồm những tiêu chuẩn liên quan đến
trao đổi dữ liệu thương mại, trao đổi dữ liệu trong hành chính, thương mại và vận
tải (EDIFACT), định dạng trao đổi và phần tử dữ liệu, quy tắc tạo tệp lược đồ
XML, xử lý thông tin, v.v…
Bộ Tài chính đã
ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về ứng dụng và vận hành hệ thống công nghệ
thông tin trong hoạt động hải quan. Bộ Công Thương cũng bắt đầu triển khai xây
dựng Hệ thống cấp chứng nhận xuất xứ điện tử eCoSys từ năm 2006. Trước đây,
eCoSys được phát triển dựa trên công nghệ web/Internet và XML truyền thống.
Trong năm 2008, Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng và ban hành Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về trao đổi dữ liệu điện tử trong cấp chứng nhận xuất xứ điện tử.
Hiện nay, việc
khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng triển khai ứng dụng
công nghệ mới vào hoạt động ngân hàng và các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc
biệt là dịch vụ thanh toán điện tử đang diễn ra mạnh mẽ. Bộ Tài chính và Ngân
hàng Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp trong
ngành thống nhất sử dụng các tiêu chuẩn công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực thẻ
thanh toán, chuyển tiền quốc tế liên ngân hàng (như tiêu chuẩn ISO 8583, SWIFT)
và trao đổi, tích hợp thông tin (dựa trên nền tảng tiêu chuẩn XML).
b) Đẩy mạnh
thanh toán điện tử và xây dựng mạng kinh doanh điện tử cho một số doanh nghiệp
quy mô lớn
Sau khi Kế hoạch
tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010 được ban hành, rất nhiều hoạt động
đã được triển khai nhằm nâng cao năng lực của hệ thống thanh toán, đa dạng hóa
đối tượng tham gia và tăng cường tính liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ. Hạ
tầng kỹ thuật cũng như khung khổ pháp lý dần được hoàn thiện đã đặt cơ sở vững
chắc cho các phương thức thanh toán điện tử phát triển, tạo điều kiện thuận lợi
cho giao dịch TMĐT B2C cũng như B2B được triển khai một cách trọn vẹn trên môi
trường trực tuyến.
Về hạ tầng thanh
toán, Ngân hàng nhà nước đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất (tái cấu trúc Banknetvn) thực
hiện từ năm 2009-2012, với mục tiêu là kết nối hệ thống ATM/POS của các liên
minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc nhằm nâng cao
hiệu quả và gia tăng tiện ích cho người sử dụng dịch vụ thẻ ngân hàng, thúc đẩy
thanh toán bằng thẻ, tạo nền tảng kỹ thuật phát triển thanh toán điện tử tại Việt
Nam. Đến năm 2010, 3 liên minh thẻ Banknetvn-Smartlink-VNBC đã hoàn thành kết nối
liên thông hệ thống ATM trên phạm vi toàn quốc. Đây là sự kiện rất quan trọng đối
với các liên minh thẻ, các tổ chức phát hành thẻ và các chủ thẻ, cho phép chủ
thẻ của 3 liên minh thẻ có thể thực hiện các giao dịch trên hệ thống ATM của
nhau.
Về phát triển
các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới, hiện đại: Trong 5 năm qua, các phương
tiện thanh toán mới, hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ cao như Thẻ ngân
hàng, Internet Banking, Mobile Banking, SMS Banking, Home Banking, Ví điện tử,
… đã xuất hiện và đang đi dần vào cuộc sống, phù hợp với xu thế thanh toán của
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt thẻ ngân hàng đã trở thành một
phương tiện thanh toán phổ biến, có tốc độ tăng trưởng nhanh. Tính đến cuối năm
2010, có 49 tổ chức phát hành thẻ với trên 200 thương hiệu thẻ, số lượng thẻ
trong lưu thông đạt khoảng 30 triệu thẻ (tăng hơn 10 lần so với năm 2005), hơn
11.000 ATM (tăng hơn 6 lần so với năm 2005) và khoảng 50.000 POS/EDC (tăng gần
5 lần so với năm 2005).
Bên cạnh đó,
Ngân hàng Nhà nước đang tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý về phát triển các
phương tiện, dịch vụ thanh toán mới, đồng thời đã cho phép 01 ngân hàng thương
mại được triển khai dịch vụ Mobile Banking, 01 ngân hàng thương mại và 08 tổ chức
không phải ngân hàng được thực hiện thí điểm dịch vụ trung gian thanh toán Ví
điện tử. Các tổ chức này đã chủ động, tích cực triển khai hợp tác với các ngân
hàng thương mại, đơn vị kinh doanh thương mại điện tử để cung cấp các sản phẩm
với nhiều tiện ích: Thanh toán cho các giao dịch mua bán trên các website
thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến bằng điện thoại di động, thanh toán
hóa đơn, tiền mua hàng v.v… Đến nay, đã có 20 ngân hàng thương mại tham gia triển
khai dịch vụ Ví điện tử, nhiều ngân hàng khác cũng đang xúc tiến, ký kết và triển
khai thử nghiệm dịch vụ này. Ví điện tử đã được chấp nhận thanh toán tại trên
200 đơn vị và đang chuẩn bị triển khai tại nhiều đơn vị khác. Sự phát triển của
các dịch vụ thanh toán và phương tiện thanh toán điện tử trong thời gian qua đã
tạo thuận lợi cho việc thanh toán hàng hóa, dịch vụ, mua bán hàng hóa một cách
dễ dàng thông qua Intetnet, điện thoại di động, ATM, POS, giúp đẩy mạnh phát
triển TMĐT tại Việt Nam. Ngoài ra, sự tham gia ngày càng sâu rộng của các tổ chức
chuyên cung cấp giải pháp, trung gian hỗ trợ thanh toán và sự liên kết giữa các
tổ chức này với ngân hàng, công ty điện thoại đang được hình thành cũng góp phần
hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử trong nền kinh tế.
5. Thực thi
pháp luật liên quan đến TMĐT
Theo Kế hoạch tổng
thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010, việc tổ chức thực thi các quy định
pháp luật liên quan đến TMĐT là một trong 6 nhóm giải pháp cơ bản nhằm hỗ trợ
và thúc đẩy ứng dụng TMĐT trong xã hội. Việc tổ chức thực thi các quy định pháp
luật liên quan đến TMĐT trong 5 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận
trên một số lĩnh vực như thống kê TMĐT, bảo vệ người tiêu dùng, chế tài và xử
lý vi phạm trong TMĐT.
a) Bảo vệ người
tiêu dùng và giải quyết tranh chấp trong TMĐT
Thực thi các quy
định về bảo vệ người tiêu dùng bao gồm nhiều cơ chế và cách thức khác nhau, từ
việc xử lý hành chính các hành vi vi phạm, sử dụng quy trình tố tụng dân sự,
cho đến các cơ chế kiểm soát và tự điều chỉnh mà doanh nghiệp tự nguyện tham
gia. Với đặc thù của môi trường mạng, việc áp dụng cơ chế kiểm soát và tự điều
chỉnh là biện pháp hiệu quả và được sử dụng khá phổ biến trên thế giới nhằm bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch TMĐT. Nắm bắt được xu thế này và với
mục tiêu giúp các doanh nghiệp thương mại điện tử nâng cao uy tín, lôi cuốn người
tiêu dùng tham gia mua sắm qua mạng, bắt đầu từ năm 2007 Bộ Công Thương đã hỗ
trợ Trung tâm Phát triển thương mại điện tử (EcomViet) và Hiệp hội Thương mại
điện tử Việt Nam triển khai Chương trình Chứng nhận website thương mại điện tử
uy tín (TrustVn).
Tháng 6 năm
2008, đơn vị chủ trì triển khai TrustVn là EcomViet chính thức được kết nạp làm
thành viên của Liên minh các tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín Châu Á
– Thái Bình Dương (nay là Liên minh các tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy
tín thế giới (World Trustmark Alliance – WTA). Với việc tham gia liên minh này,
TrustVn sẽ là nhãn hiệu được các tổ chức khác trong WTA công nhận về mức độ uy
tín, từ đó đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp sở
hữu website thương mại điện tử uy tín của Việt Nam.
b) Thống kê
thương mại điện tử
Quyết định 222
đã đặt nhiệm vụ “Khẩn trương triển khai hoạt động thống kê về thương mại điện tử”
là một hoạt động lớn của chương trình “Tổ chức thực thi các quy định pháp luật
liên quan tới thương mại điện tử”, một trong những nhóm chính sách và giải pháp
chủ yếu để thúc đẩy phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam cho tới năm
2010. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại điện tử, ngày 15 tháng
10 năm 2008, Bộ Công Thương đã có Quyết định số 37/2008/QĐ-BCT ban hành hệ thống
chỉ tiêu thống kê ngành về lĩnh vực thương mại điện tử. Triển khai Quyết định
này, trong 2 năm từ 2009-2010 Bộ Công Thương đã thực hiện những bước đầu tiên của
lộ trình nhằm hướng tới xây dựng một cơ sở dữ liệu toàn diện, đồng bộ và nhất
quán về tình hình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam qua các năm:
- Chuẩn hóa khái
niệm, nội dung và phương pháp tính đối với từng chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ
tiêu thống kê về lĩnh vực thương mại điện tử.
- Xây dựng
chương trình điều tra thống kê ngành về lĩnh vực thương mại điện tử trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện.
- Triển khai thí
điểm điều tra thống kê ngành về thương mại điện tử trong năm 2010.
- Xây dựng cơ sở
dữ liệu thống kê dựa trên Hệ thống chỉ tiêu thống kê về lĩnh vực thương mại điện
tử.
c) Xử lý vi phạm
trong thương mại điện tử
Quốc hội thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự vào 19/6/2009 (bắt đầu
có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2010) đánh dấu một bước tiến lớn trong nỗ lực
của các cơ quan nhà nước nhằm xác lập một khung chế tài đầy đủ và nghiêm minh
hơn cho những hành vi tội phạm công nghệ cao, góp phần xây dựng môi trường an toàn,
lành mạnh cho giao dịch điện tử nói chung và TMĐT nói riêng. Luật đã sửa đổi và
bổ sung các quy định về tội phạm CNTT tại Điều 224, 225 và 226
của Bộ luật hình sự theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh từ môi trường mạng
máy tính thành mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet và các thiết bị số.
Luật cũng chi tiết hóa và tăng khung hình phạt đối với các hành vi tội phạm,
bao gồm hành vi phát tán virus; cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của các mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet và thiết bị số; đưa hoặc sử dụng trái
phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet.
Bên cạnh việc
hoàn thiện những quy định cũ, Luật còn bổ sung thêm hai tội phạm mới trong lĩnh
vực CNTT là “Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
Internet hoặc thiết bị số của người khác” và “Tội sử dụng mạng viễn thông, mạng
máy tính, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”,
nhằm giải quyết một số dạng tội phạm phổ biến nhất trong thời gian qua, đặc biệt
là hành vi rút tiền của người khác từ máy rút tiền tự động.
Mặc dù đạt được
một số thành tựu như trên, hoạt động thực thi pháp luật về thương mại điện tử
giai đoạn qua còn tồn tại nhiều bất cập. Hoạt động giáo dục pháp luật về TMĐT
được tổ chức chưa thường xuyên và đồng bộ. Việc thiếu một cơ chế phối hợp hiệu
quả trong hoạt động giáo dục pháp luật giữa các cơ quan liên quan như cơ quan
quản lý nhà nước và cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đào tạo khiến các
văn bản pháp luật không được phổ biến rộng rãi đến mọi đối tượng thực thi. Thực
trạng này kết hợp với ý thức thi hành pháp luật của doanh nghiệp và người dân
chưa cao, dẫn đến việc chấp hành pháp luật về thương mại điện tử thời gian qua
còn kém.
Bên cạnh vấn đề
về nhận thức và ý thức chấp hành của doanh nghiệp, do hoạt động TMĐT được thực
hiện trên môi trường điện tử nên việc thanh tra giám sát và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực này cũng là một thách thức lớn đối với các cơ quan quản lý nhà nước.
Nguồn lực giám sát còn hạn chế, tần suất các hoạt động thanh tra, kiểm tra
chuyên ngành thấp, hiệu quả chưa cao, chưa có cơ chế giám sát trực tuyến các hoạt
động trên môi trường điện tử. Bên cạnh đó, nhiều quy định về mức xử phạt đối với
các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TMĐT còn thấp, chưa đủ mạnh để răn đe, tạo
ra sự tuân thủ tốt trong xã hội. Đây sẽ là những vấn đề cần được tập trung khắc
phục trong giai đoạn tới để tăng cường hiệu lực của hệ thống pháp luật, tạo môi
trường thật sự lành mạnh và an toàn cho thương mại điện tử phát triển.
6. Hợp tác quốc
tế về TMĐT
Hợp tác quốc tề
về thương mại điện tử được coi là một trong những nhóm giải pháp chủ yếu để thực
hiện thành công Kế hoạch tổng thể về phát triển thương mại điện tử giai đoạn
2006-2010. Quyết định 222 nêu rõ: “Ưu tiên hợp tác đa phương với các tổ chức
kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức
chuyên trách về thương mại của Liên Hợp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, UN/CEFACT.
Ưu tiên hợp tác song phương với các nước tiên tiến về thương mại điện tử và các
nước có kim ngạch thương mại lớn với Việt Nam”.
Thực hiện Quyết
định 222, trong 5 năm qua, hoạt động hợp tác quốc tế về thương mại điện tử đã
được quan tâm thích đáng. Hợp tác quốc tế về thương mại điện tử thời gian qua
được tiến hành ở cả cấp độ song phương và đa phương với các mục tiêu chủ yếu
là: nâng cao năng lực quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển thương mại phi
giấy tờ; tăng cường niềm tin và thu hút người tiêu dùng tham gia giao dịch
thương mại điện tử; hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh
doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ.
a) Hợp tác
thương mại điện tử trong khuôn khổ APEC
APEC là diễn đàn
tiên phong trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về thương mại điện tử với việc thành
lập Nhóm Công tác về thương mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group –
ECSG) vào năm 2009. Chương trình hoạt động của Nhóm công tác này gồm hai nội
dung chính: hợp tác về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong giao dịch thương mại xuyên
biên giới và hợp tác nhằm thúc đẩy thương mại phi giấy tờ giữa các nền kinh tế
trong khu vực.
Trong giai đoạn
5 năm qua, Việt Nam đã tích cực tham gia vào hoạt động của ECSG trên cả hai
lĩnh vực này. Năm 2006, Việt Nam đăng cai các phiên họp về thương mại điện tử của
APEC và được bầu làm chủ tịch Tiểu nhóm Thương mại phi giấy tờ của ECSG. Bên cạnh
các cuộc họp đình kỳ của ECSG, Việt Nam đã tổ chức bốn hội thảo quốc tế lớn gồm
một hội thảo về thương mại phi giấy tờ (năm 2006) và ba hội thảo về bảo vệ dữ
liệu cá nhân trong thương mại điện tử (năm 2007, 2008 và 2009). Ngoài ra, từ
năm 2007 Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc xây dựng tài liệu và thực hiện
9 dự án thuộc Chương trình Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử của
APEC (APEC Privacy Pathfinder Initiative).
Liên quan đến
thúc đẩy thương mại phi giấy tờ trong khu vực APEC, Việt Nam đã chủ động và
tích cực tham gia các hội thảo, diễn đàn liên quan; đồng thời đẩy mạnh việc
trao đổi và công nhận lẫn nhau về chứng nhận xuất xứ điện tử (eC/O) với các nền
kinh tế, trước mắt là Hàn Quốc, Đài Loan, v.v…
Với sự tham gia
và đóng góp tích cực, vừa qua trong khuôn khổ của kỳ họp SOM III APEC 2010 tại
Sendai – Nhật Bản, trưởng đoàn Việt Nam đã được bầu làm phó trưởng nhóm ECSG
trong nhiệm kỳ tới.
b) Hợp tác
thương mại điện tử trong khuôn khổ ASEAN
Đối với hợp tác
trong ASEAN, thương mại phi giấy tờ là một lĩnh vực được các quốc gia thành
viên rất quan tâm, ngày 9 tháng 12 năm 2005 ASEAN đã ký kết Thỏa thuận xây dựng
ASEAN Single Window (Cơ chế một cửa ASEAN). Theo đó, Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore phải đưa Single Window quốc gia
vào hoạt động muộn nhất vào năm 2008; Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam phải
đưa Single Window quốc gia vào hoạt động không muộn hơn năm 2012.
Cơ chế một cửa
quốc gia Việt Nam được triển khai theo Quyết định số 1263/QĐ-TTg do Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 9 năm 2008. Trong khuôn khổ quốc gia, Ban Chỉ
đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2008-2012 và các nhóm làm việc về
pháp lý và kỹ thuật đã được thành lập trong đó Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối
của quá trình triển khai. Theo Kế hoạch tổng thể triển khai Cơ chế một cửa quốc
gia do Ban chỉ đạo đề ra, Cơ chế một cửa quốc gia được thực hiện từ năm 2009 –
2011 bao gồm các hoạt động: xây dựng hạ tầng kỹ thuật, tái thiết kế các quy
trình nghiệp vụ, xây dựng mô hình dữ liệu, hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng hệ
thống thông tin. Giai đoạn triển khai thực tế sẽ được thực hiện trong nửa cuối
năm 2011 để sẵn sàng kết nối chính thức với Cơ chế một cửa ASEAN vào năm 2012.
Để thúc đẩy thuận
lợi hóa thương mại giữa ASEAN với các nước đối tác, ASEAN đã tiến hành đàm phán
Hiệp định khu vực mậu dịch tự do với các đối tác lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc,…
trong đó có nhiều nội dung liên quan đến thương mại điện tử như thừa nhận giá
trị pháp lý của các giao dịch điện tử, miễn thuế cho các sản phẩm số hóa truyền
qua phương tiện điện tử, công nhận chữ ký điện tử, bảo vệ thông tin cá nhân và
quyền lợi cho người tiêu dùng, v.v… Trong các năm 2008 – 2010, Bộ Công Thương
đã làm việc với các cơ quan chức năng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài
Loan và Singapore để trao đổi về công nhận lẫn nhau về chứng nhận xuất xứ điện
tử.
c) Hợp tác
thương mại điện tử trong các tổ chức đa phương khác
Bên cạnh APEC,
ASEM, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam cũng thúc đẩy hoạt động hợp tác với các tổ
chức liên quan đến thương mại phi giấy tờ như UN/CEFACT và AFACT. Với vai trò
và sự đóng góp tích cực của mình, trưởng đoàn Việt Nam đã liên tiếp được bầu
vào Ban Chỉ đạo AFACT nhiệm kỳ 2009-2010 và nhiệm kỳ 2011-2013.
Trong giai đoạn
2006-2010, Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các cuộc họp liên quan đến
thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL). Dựa trên các điều khoản trong Luật mẫu về Thương mại điện tử của
UNCITRAL, nhiều quốc gia đã tiến hành xây dựng luật pháp riêng của nước mình
như Singapore (1998), Úc (1999), Pháp (2000), Trung Quốc (2004), Sri Lanka
(2006), v.v… Việt Nam trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của UNCITRAL cũng đã xây dựng
được một khung pháp lý khá hoàn thiện, góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà
nước của các cơ quan chính phủ, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển
thương mại điện tử của đất nước.
Ngoài các diễn
đàn hợp tác quốc tế ở cấp Chính phủ, Bộ Công Thương cũng tích cực hỗ trợ các
doanh nghiệp, hiệp hội tham gia những tổ chức quốc tế về TMĐT như Liên minh
TMĐT Châu Á – Thái Bình Dương (PAA), Liên minh các Tổ chức cấp chứng nhận
website TMĐT uy tín Châu Á – TBD (ATA). Năm 2008, Trung tâm phát triển TMĐT Việt
Nam (Ecomviet) đã trở thành thành viên chính thức của ATA (nay là Liên minh các
Tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín thế giới – WTA).
d) Hợp tác song
phương về thương mại điện tử với các đối tác lớn
Song song với
các hoạt động hợp tác đa phương, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam cũng đã chủ động
đẩy mạnh hoạt động hợp tác song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ có
trình độ tiên tiến về thương mại điện tử như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài
Loan, v.v… Hoạt động hợp tác song phương về thương mại điện tử thời gian qua được
thực hiện ở cả cấp độ cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp.
III. CÔNG TÁC
TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH 222
Kế hoạch tổng thể
phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 đã đặt ra mục tiêu, lộ trình
và những giải pháp mang tính tổng thể nhằm thúc đẩy ứng dụng TMĐT trên phạm vi
toàn quốc. Thực hiện lộ trình này, các tỉnh, thành phố cũng khẩn trương xây dựng
kế hoạch để triển khai ứng dụng TMĐT tại địa phương. Tính đến hết năm 2010, tất
cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã xây dựng kế hoạch phát triển
TMĐT, trong đó 58 tỉnh, thành phố đã phê duyệt kế hoạch và đưa vào triển khai.
Nhiều địa phương
đã tích cực phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện
các giải pháp đề ra trong kế hoạch phát triển TMĐT của địa phương, trong đó tập
trung vào công tác tuyên truyền, phổ biến và đào tạo về TMĐT cho các cơ quan quản
lý nhà nước và doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng và tham gia TMĐT.
Ngoài các dự án
về thuế điện tử, hải quan điện tử, thanh toán điện tử, nhiều dự án khác được đề
ra tại Kế hoạch tổng thể được các bộ ngành tích cực triển khai, bao gồm: 1) Dự
án “Cung cấp trực tuyến các dịch vụ công ngành thương mại giai đoạn I”; 2) Dự
án “Phổ biến, tuyên truyền về TMĐT cho cộng đồng doanh nghiệp”; 3) Dự án “Xây dựng
mạng kinh doanh điện tử cho một số doanh nghiệp quy mô lớn”; 4) Dự án “Ứng dụng
thương mại điện tử trong mua sắm Chính phủ” với dự án thử nghiệm “Thiết lập hệ
thống mua sắm điện tử tại Việt Nam”.
IV. ĐÁNH GIÁ
VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết quả
tích cực
Sau 5 năm triển
khai thực hiện Quyết định 222, TMĐT Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực
và đã đi vào chiều sâu, cụ thể là:
a) Ứng dụng TMĐT
của doanh nghiệp đã có kết quả tốt: Kết quả điều tra của Bộ Công Thương trong
năm 2010 cho thấy, gần như 100% các doanh nghiệp đã tổ chức triển khai ứng dụng
thương mại điện tử ở nhiều quy mô và mức độ khác nhau. Việc ứng dụng thương mại
điện tử đã mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
b) TMĐT đã phát
triển rộng khắp các ngành, lĩnh vực và địa phương trên cả nước: Sau 5 năm triển
khai Kế hoạch tổng thể, TMĐT không chỉ còn tập trung tại hai thành phố lớn là
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mà đã phát triển rộng khắp cả nước. Cùng với việc
ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp thuộc mọi ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh
ngày càng tăng, các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cũng rất quan tâm,
chú trọng tới vấn đề quản lý nhà nước về TMĐT.
c) Việc cung cấp
dịch vụ công trực tuyến liên quan đến thương mại được triển khai khá nhanh: Đến
nay hầu hết dịch vụ công của các Bộ, ngành, địa phương đã được cung cấp ở mức độ
2 trên trang thông tin điện tử chính thức của từng cơ quan. Đã có khá nhiều dịch
vụ công trực tuyến quan trọng với thương mại được cung cấp ở mức độ 3. Đáng chú
ý một số dịch vụ đã được triển khai ở mức độ 4.
d) Mua bán hàng
hóa và dịch vụ qua Internet đã dần trở nên quen thuộc với một bộ phận người
tiêu dùng tại các đô thị lớn. Phương thức thanh toán và giao hàng cũng được các
doanh nghiệp thực hiện linh hoạt, đáp ứng hầu hết các yêu cầu của người mua.
2. Hạn chế và
khó khăn
Mặc dù đã đạt được
các kết quả khả quan như trên, nhưng việc triển khai Quyết định 222 vẫn còn một
số điểm hạn chế như sau:
a) Tình hình phê
duyệt, triển khai các chương trình, dự án thực hiện Quyết định 222 còn chậm.
Công tác phối kết hợp giữa các Bộ, ngành cũng như giữa Trung ương và các địa
phương chưa chặt chẽ.
b) Nguồn nhân lực
phục vụ quản lý nhà nước cũng như triển khai ứng dụng TMĐT ở các Bộ ngành, địa
phương, doanh nghiệp còn thiếu và yếu. Hoạt động đào tạo chính quy về thương mại
điện tử chưa theo kịp nhu cầu.
c) Thiếu các
chính sách hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng TMĐT, bao gồm hỗ trợ ứng dụng
thanh toán điện tử.
3. Kiến nghị
Trên cơ sở các kết
quả đạt được và kinh nghiệm sau 5 năm thực hiện Quyết định 222, ngày 12/7/2010
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1073/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tổng
thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2011-2015.
Để thực hiện
thành công các mục tiêu đề ra tại Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện
tử giai đoạn 2011-2015, Bộ Công Thương xin kiến nghị:
a) Tiếp tục hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về TMĐT nhằm đảm bảo toàn bộ hệ thống
pháp luật được định hướng theo chuẩn mực chung là hỗ trợ, tạo điều kiện cho sự
phát triển của TMĐT và phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế của
Việt Nam. Trong đó tập trung vào hoàn thiện các loại văn bản quy phạm pháp luật
về ngành nghề kinh doanh TMĐT, ưu đãi thuế cho giao dịch TMĐT, bảo vệ người
tiêu dùng, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong TMĐT.
b) Tăng cường
phát triển nguồn nhân lực về TMĐT, trong đó tập trung vào các hoạt động phổ biến,
tuyên truyền nâng cao nhận thức về lợi ích của TMĐT thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, các Sở Công Thương, các tổ chức xã hội nghề nghiệp; đẩy mạnh
đào tạo chính quy về TMĐT tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề; ứng dụng mạnh mẽ đào tạo trực tuyến (e-learning) trong hoạt
động đào tạo TMĐT.
c) Đẩy mạnh cung
cấp trực tuyến dịch vụ công liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, trong
đó tập trung vào cung cấp trực tuyến các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuế,
hải quan, xuất nhập khẩu, đầu tư, đăng ký kinh doanh và các dịch vụ công khác
liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Từng bước trao đổi các
chứng từ điện tử liên quan tới hoạt động quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ với nước ngoài. Cung cấp thông tin về các dự án sử dụng vốn nhà nước, thông
tin về đấu thầu trong mua sắm công và từng bước tiến hành đấu thầu mua sắm công
trực tuyến.
d) Phát triển và
ứng dụng công nghệ, dịch vụ TMĐT, trong đó tập trung vào các hoạt động ban hành
chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển và chuyển giao công nghệ
phục vụ hoạt động TMĐT. Phát triển nhanh các dịch vụ tích hợp dựa trên công nghệ
tiên tiến. Ban hành và phổ biến các tiêu chuẩn, quy chuẩn sử dụng trong TMĐT.
Tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn thông tin trong giao dịch TMĐT.
đ) Nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về TMĐT, trong đó tập trung vào các hoạt động: Nâng cao
năng lực quản lý nhà nước về TMĐT, xây dựng lực lượng cán bộ có chuyên môn đáp ứng
được công tác quản lý nhà nước về TMĐT tại các địa phương; Xây dựng cơ chế, bộ
máy giải quyết tranh chấp phù hợp để giải quyết kịp thời những tranh chấp phát
sinh trong TMĐT; Triển khai nhanh hoạt động thống kê về TMĐT và các hoạt động hỗ
trợ TMĐT; Tăng cường hợp tác quốc tế về TMĐT.
Bộ Công Thương
xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin & Truyền
thông; Bộ NN&PTNT, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân
hàng Nhà nước; Bộ LĐTB&XH;Tổng cục Thống kê;
- Bộ trưởng;
- Các Thứ trưởng;
- Lưu: VT, TMĐT.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Lê Danh Vĩnh
|
PHỤ LỤC
TỔNG
KẾT TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CÁC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN CỦA KẾ HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
I. CHƯƠNG TRÌNH PHỔ BIẾN, TUYÊN
TRUYỀN VÀ ĐÀO TẠO VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TT
|
Tên
dự án
|
Mục
tiêu
|
Đơn
vị triển khai
|
Kết
quả triển khai
|
1
|
Dự án phổ biến,
tuyên truyền về thương mại điện tử cho cộng đồng doanh nghiệp
|
Giúp các doanh
nghiệp biết tới lợi ích của thương mại điện tử và các điều kiện cần thiết để
tham gia
|
Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam chủ trì, phối hợp với các hiệp hội, các tổ chức xúc
tiến thương mại
|
Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam đã tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề và khóa đào tạo
thương mại điện tử chuyên sâu cho doanh nghiệp. Phòng còn phối hợp với các Bộ
ngành, địa phương xây dựng 5 sàn TMĐT cấp quốc gia và 15 sàn TMĐT địa phương
để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia ứng dụng thương mại điện tử, phục vụ xuất khẩu
|
2
|
Dự án phổ biến,
tuyên truyền về thương mại điện tử cho cán bộ lãnh đạo kinh tế ở Trung ương
và địa phương
|
Cung cấp tri
thức cơ bản về quản lý nhà nước đối với thương mại điện tử và vai trò, nhiệm
vụ của các cơ quan nhà nước
|
Bộ Công Thương
phối hợp với các Sở Công Thương
|
Từ năm 2006 –
2010, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Sở Công Thương tổ chức hơn 200 khóa
tập huấn thương mại điện tử cho cán bộ quản lý nhà nước và các doanh nghiệp tại
hầu hết tỉnh thành trên cả nước.
|
3
|
Dự án phổ biến,
tuyên truyền về thương mại điện tử cho người tiêu dùng, đặc biệt là thanh
niên thành thị
|
Xây dựng tập
quán mua sắm tiên tiến nhờ ứng dụng thương mại điện tử
|
Đài Truyền
hình Việt Nam chủ trì, phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam và các phương tiện
thông tin đại chúng
|
Đài Truyền hình
Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam đã xây dựng các chuyên mục để phổ biến,
tuyên truyền về TMĐT cho người tiêu dùng, điển hình là chuyên mục “Cuộc sống
số” của VTV1, “7 ngày công nghệ” của VTV2, chuyên mục “Tin học và cuộc sống”
và Diễn đàn khoa học công nghệ của VOV.
Nhiều báo viết
hiện nay đã có chuyên trang Công nghệ thông tin như báo Lao động, Sài Gòn Giải
phóng, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam và tạp chí Thế giới Vi tính. Các
báo điện tử cũng tích cực phổ biến kiến thức thương mại điện tử cho khán giả
thông qua các chuyên mục như Nhịp sống số (Tuổi trẻ online), Vi tính
(Vnexpress), CNTT – Viễn thông (Vietnamnet), Sức mạnh số (Dantri), Công nghệ
(Lao động), v.v…
|
4
|
Dự án đào tạo
nguồn nhân lực về thương mại điện tử tại các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề
|
Đào tạo chính
quy các chuyên gia về thương mại điện tử và cán bộ có kiến thức cơ bản trong
việc triển khai các hoạt động liên quan tới thương mại điện tử thuộc mọi lĩnh
vực kinh tế
|
Bộ Giáo dục và
Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
|
Hiện đã có 77
cơ sở đào tạo bậc đại học và cao đẳng triển khai hoạt động đào tạo về TMĐT,
trong đó 2 trường đã thành lập khoa TMĐT, 14 trường thành lập bộ môn TMĐT. Một
số trường đại học đã có kế hoạch đầu tư sâu cho đào tạo TMĐT với việc hoàn
thiện giáo trình và hạ tầng công nghệ phục vụ cho đào tạo, gắn đào tạo với thực
tiễn kinh doanh của TMĐT
|
II. CHƯƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CHO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TT
|
Tên
dự án
|
Mục
tiêu
|
Đơn
vị triển khai
|
Kết
quả triển khai
|
1
|
Dự án ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương
mại và Bộ luật Dân sự
|
Đảm bảo hoạt động
thương mại điện tử được pháp luật bảo vệ tương tự như hoạt động thương mại
thông thường
|
Bộ Thương mại
chủ trì dự án xây dựng Nghị định về các hoạt động thương mại điện tử, phối hợp
với các bộ ngành khác xây dựng các nghị định hướng dẫn triển khai các luật
trên
|
Đến cuối năm
2010, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử đã được hoàn
thiện với bảy nghị định hướng dẫn thi hành luật, ba nghị định xử phạt hành
chính trong các lĩnh vực liên quan (thương mại, công nghệ thông tin,
Internet), cùng một loạt thông tư quy định chi tiết những vấn đề mang tính đặc
thù của giao dịch trên môi trường điện tử.
|
2
|
Dự án ban hành
mới và bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề
cụ thể liên quan tới thương mại điện tử
|
Hỗ trợ cho
thương mại điện tử phát triển thuận lợi
|
- Bộ Thương mại
chủ trì đề xuất các vấn đề cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sửa
đổi các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành nhưng có những quy định không
phù hợp với Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự.
- Bộ Tư pháp
chủ trì chương trình xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
này.
- Các bộ ngành
liên quan chủ trì xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thuộc chức năng quản
lý Nhà nước của mình.
|
Các Bộ ngành
đã xây dựng và ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể các vấn đề mới phát
sinh trong hoạt động ứng dụng thương mại điện tử. Nổi bật nhất là các văn bản
hướng dẫn cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT, triển
khai hải quan điện tử, cấp chứng nhận xuất xứ điện tử, khai thuế điện tử, dịch
vụ chứng thực chữ ký số, chống thư rác.
Ngày
19/6/2009, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự. Luật đã sửa đổi và bổ sung các quy định về tội phạm công nghệ thông tin
tại Điều 224, 225 và 226 của Bộ luật Hình sự theo hướng mở rộng phạm vi điều
chỉnh, chi tiết hóa và tăng khung hình phạt đối với các hành vi tội phạm. Bên
cạnh việc hoàn thiện những quy định cũ, Luật còn bổ sung thêm hai quy định mới
nhằm giải quyết một số dạng tội phạm công nghệ thông tin phổ biến nhất trong
thời gian qua.
|
3
|
Dự án hoàn thiện
hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý về thương mại điện tử
|
Đảm bảo sự thống
nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT.
|
Bộ Tư pháp chủ
trì, phối hợp với Bộ Thương mại và các bộ ngành liên quan
|
|
III. CHƯƠNG
TRÌNH CUNG CẤP TRỰC TUYẾN DỊCH VỤ CÔNG VÀ ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG MUA
SẮM CHÍNH PHỦ
TT
|
Tên
dự án
|
Mục
tiêu
|
Đơn
vị
|
Kết
quả triển khai
|
1
|
Các dự án cung
cấp trực tuyến dịch vụ công
|
|
|
|
a)
|
Dự án cung cấp
trực tuyến các thủ tục thương mại
|
Cung cấp một
cách thuận lợi các loại giấy phép liên quan tới kinh doanh dịch vụ thương mại,
xuất khẩu, nhập khẩu, chứng nhận xuất xứ hàng hóa trên mạng
|
Bộ Thương mại
chủ trì
|
Hệ thống quản
lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương bắt đầu được triển
khai từ tháng 10/2006 theo ba giai đoạn, trong đó giai đoạn 3 – cấp chứng nhận
xuất xứ điện tử trên diện rộng – được triển khai từ tháng 4/2008. Đến nay, Hệ
thống eCosys có sự tham gia của 18 Phòng Quản lý xuất nhập khẩu, 37 Ban quản
lý Khu Công nghiệp/Khu chế xuất, 9 tổ chức cấp C/O thuộc VCCI và hơn 6.000
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong đó có hơn 1.000 doanh nghiệp tiến hành khai
báo thường xuyên, số bộ C/O được cấp hàng ngày lên đến 600 bộ, dữ liệu của
trên 90.000 bộ C/O được lưu trữ, xử lý tại trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ
Công Thương.
Hệ thống quản
lý cấp phép nhập khẩu tự động được triển khai theo Quyết định số
24/2008/QĐ-BCT ngày 01/8/2008 của Bộ Công Thương về việc áp dụng chế độ cấp
phép nhập khẩu tự động đối với một số mặt hàng. Kết quả đến hết năm 2010,
trên 5.000 doanh nghiệp nhập khẩu đã tham gia sử dụng và hệ thống đã cập nhật
được trên 40.000 bộ hồ sơ cấp phép nhập khẩu.
|
b)
|
Dự án thủ tục
hải quan điện tử
|
Tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu
|
Bộ Tài chính
chủ trì
|
Từ tháng 10 năm
2005, Bộ Tài chính bắt đầu triển khai thí điểm thủ tục hải quan điện tử qua 2
giai đoạn: thí điểm hẹp từ tháng 10/2005 – 11/2009 và thí điểm mở rộng từ
tháng 12/2009 – 12/2011. Tính đến 15/11/2010, thủ tục hải quan điện tử đã đạt
được những kết quả cụ thể như sau:
- Số lượng các
Cục hải quan đã triển khai: 13/33, chiếm tỷ lệ 39,4%.
- Số lượng các
Chi cục đã triển khai: 70. Trong đó có 8/13 Cục hải quan đã triển khai thủ tục
hải quan điện tử tại 100% các Chi cục.
- Số lượng tờ
khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử: 254.248 tờ khai.
- Kim ngạch xuất
nhập khẩu đạt 27.926 triệu USD.
- Tổng số thuế
thu được: 41.592 tỷ đồng.
- Thời gian
thông quan trung bình: qua báo cáo của các Cục hải quan tỉnh, thành phố đối với
luồng xanh từ 3-15 phút; luồng vàng điện tử từ 10-20 phút; luồng vàng giấy từ
10-60 phút; luồng đỏ phụ thuộc thời gian kiểm tra thực tế hàng hóa.
Ngày
09/11/2009, Tổng cục Hải quan đã ban hành Quyết định số 222/QĐ-TCHQ về việc
ban hành Quy trình tạm thời về thu, nộp thuế hàng hóa xuất nhập khẩu qua Ngân
hàng bằng phương thức điện tử.
Trong Quý IV
năm 2010, Tổng cục Hải quan đã thí điểm thực hiện thu thuế xuất nhập khẩu,
phí, lệ phí và các khoản thu khác của Ngân sách Nhà nước bằng phương thức điện
tử.
|
c)
|
Dự án khai, nộp
thuế điện tử, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng
|
Hỗ trợ các
doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch, chống gian lận về thuế
|
Bộ Tài chính
chủ trì
|
Ngày
29/7/2009, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 1830/QĐ-BTC về việc thực hiện
thí điểm Người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế qua mạng. Thực hiện Quyết định
trên, bắt đầu từ tháng 8/2009, Tổng cục Thuế đã triển khai thí điểm hệ thống
khai thuế qua mạng đối với người nộp thuế tại 4 địa bàn: TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu, áp dụng cho các tờ khai thuế Giá trị gia
tăng, Thu nhập doanh nghiệp, Tiêu thụ đặc biệt, Tài nguyên, Thu nhập cá nhân,
Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn, Tờ khai thuế nhà thầu nước ngoài. Tính đến
cuối năm 2009, hệ thống khai thuế qua mạng đã được triển khai cho 427 người nộp
thuế với tổng số tờ khai điện tử nhận vào hệ thống quản lý thuế là 2.019 tờ
khai.
Năm 2010, hệ
thống khai thuế qua mạng được triển khai mở rộng tại 19 tỉnh, thành phố. Đến
nay, hơn 7.200 người nộp thuế tại 19 địa bàn này đã thực hiện khai thuế qua mạng
với tổng số tờ khai điện tử nhận vào hệ thống quản lý thuế đạt gần 90.000 tờ
khai.
|
d)
|
Dự án thủ tục
đầu tư điện tử
|
Tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp ngay từ khâu đăng ký thành lập doanh nghiệp
|
Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì
|
Hiện Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đang triển khai dự án “Xây dựng hệ thống thông tin doanh nghiệp quốc
gia” với mục tiêu tin học hóa công tác đăng ký kinh doanh toàn quốc, từng bước
thực hiện đăng ký kinh doanh qua mạng, tạo môi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận dịch vụ công về đăng ký kinh doanh.
|
2
|
Dự án ứng dụng
thương mại điện tử trong mua sắm Chính phủ
|
Đảm bảo tính
rõ ràng và tiết kiệm trong mua sắm hàng hóa và dịch vụ của các cơ quan Nhà nước
từ Trung ương tới địa phương
|
Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì
|
Ngày
14/1/2009, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phê duyệt dự án thử nghiệm “Thiết
lập hệ thống mua sắm điện tử tại Việt Nam” với thời gian thực hiện là 3 năm,
từ 2009-2011. Sau giai đoạn chuẩn bị, hiện hệ thống đấu thầu qua mạng đang được
triển khai thí điểm tại ba đơn vị là Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Tập
đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Đồng thời Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cũng có văn bản số 6086/BKH-QLĐT ngày 31 tháng 8 năm 2010 đề
nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương, các tập đoàn kinh tế, các Tổng
công ty trên toàn quốc tham gia thí điểm đấu thầu qua mạng. Để hướng dẫn hoạt
động đấu thầu qua mạng, ngày 22/7/2010 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành
Thông tư số 17/2010/TT-BKH quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng.
|
IV. CHƯƠNG
TRÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TT
|
Tên
dự án
|
Mục
tiêu
|
Đơn
vị
|
Kết
quả triển khai
|
1
|
Dự án xây dựng
và sử dụng các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử trong thương mại như EDI, ebXML
|
Ban hành và
đưa vào sử dụng các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử đã phổ biến trên thế giới
|
Bộ Thương mại
chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp
|
Trong giai đoạn
5 năm qua, việc ban hành, phổ cập các chính sách, biện pháp nhằm phát triển
công nghệ phục vụ việc quản lý và thuận lợi hóa hoạt động TMĐT đã được các cơ
quan Bộ, ngành rất chú trọng. Bộ Khoa học và Công nghệ với trách nhiệm quản
lý nhà nước về công tác tiêu chuẩn hóa, đã xây dựng và phổ biến nhiều bộ tiêu
chuẩn liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử, bao gồm những tiêu chuẩn
liên quan đến trao đổi dữ liệu thương mại, trao đổi dữ liệu trong hành chính,
thương mại và vận tải (EDIFACT), định dạng trao đổi và phần tử dữ liệu, quy tắc
tạo tệp lược đồ XML, xử lý thông tin, v.v…
Trong năm
2008, Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng và ban hành Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về trao đổi dữ liệu điện tử trong cấp chứng nhận xuất xứ điện tử. Bộ
Tài chính cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về ứng dụng và vận hành hệ
thống công nghệ thông tin trong hoạt động hải quan.
Hiện nay, việc
khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng triển khai ứng dụng
công nghệ mới vào hoạt động ngân hàng và các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc
biệt là dịch vụ thanh toán điện tử đang diễn ra mạnh mẽ. Bộ Tài chính và Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn doanh nghiệp trong ngành thống
nhất sử dụng các tiêu chuẩn công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực thẻ thanh toán,
chuyển tiền quốc tế liên ngân hàng và trao đổi, tích hợp thông tin.
|
2
|
Dự án hiện đại
hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán
|
Cung cấp các dịch
vụ ngân hàng hiện đại, bao gồm thanh toán điện tử
|
Ngân hàng Nhà
nước chủ trì
|
Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã chủ trì triển khai Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh
toán giai đoạn 2 với nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng Thế giới và thời hạn thực
hiện từ tháng 12/2005 đến hết tháng 6/2010. Dự án này bao gồm năm tiểu dự án,
trong đó tiểu dự án Thanh toán điện tử liên ngân hàng do NHNN trực tiếp quản
lý, bốn tiểu dự án còn lại được triển khai tại các ngân hàng thương mại (Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng TMCP Hàng Hải, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam). Sau 5
năm triển khai, Dự án đã đạt được một số kết quả cụ thể:
- Đối với
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thiết lập được 01 hệ thống thanh toán xương
sống với 3 cấu phần: luồng thanh toán giá trị cao (cung cấp dịch vụ thanh
toán trực tuyến tổng tức thời); luồng thanh toán giá trị thấp (cung cấp dịch
vụ thanh toán theo lô); xử lý quyết toán vốn. Hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng được triển khai mở rộng tới 63 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố,
03 đơn vị thuộc NHNN, kết nối 94 tổ chức tín dụng với 787 chi nhánh trên phạm
vi toàn quốc, trung bình xử lý 80.000 giao dịch/ngày với giá trị trên 100.000
tỷ đồng và thời gian xử lý là 10 giây/giao dịch;
- Đối với
các ngân hàng thương mại tham gia dự án, hoàn thiện hệ thống core
banking, 100% các chi nhánh ngân hàng tham gia dự án đã triển khai thành công
hệ thống core banking, bổ sung thêm các module nghiệp vụ, cung cấp cho khách
hàng nhiều dịch vụ tiện ích hơn, nâng cao hiểu biết về công nghệ thông tin. Đặc
biệt có tổ chức tín dụng đã triển khai gần 1000 chi nhánh với trên 2 triệu
giao dịch/ngày.
|
3
|
Dự án xây dựng
mạng kinh doanh điện tử trong một số ngành công nghiệp có quy mô kinh tế lớn
|
Nâng cao năng
lực cạnh tranh, mở rộng thị trường, giảm chi phí giao dịch
|
Bộ Thương mại
chủ trì phối hợp với Bộ Công nghiệp, một số tổng công ty và tập đoàn kinh tế
lớn
|
Dự án Xây dựng
mạng kinh doanh điện tử cho một số doanh nghiệp quy mô lớn ngành Công Thương
đã được Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt tại Quyết định số 5468/QĐ-BCT ngày
30/10/2009, triển khai trong giai đoạn 2010-2012. Dự án hướng tới xây dựng một
Trung tâm trao đổi dữ liệu điện tử của ngành Công Thương theo các tiêu chuẩn
quốc tế, thúc đẩy việc triển khai các ứng dụng trao đổi dữ liệu điện tử giữa
các doanh nghiệp lớn trong ngành. Dự án sẽ bao gồm các hoạt động hỗ trợ chuyển
giao các công nghệ, kỹ thuật để xây dựng và phát triển bộ phần mềm TMĐT trọng
điểm phục vụ cho hệ thống truyền xử lý thông điệp điện tử dựa trên các tiêu
chuẩn quốc tế.
|
V. CHƯƠNG
TRÌNH THỰC THI PHÁP LUẬT LIÊN QUAN TỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TT
|
Tên
dự án
|
Mục
tiêu
|
Đơn
vị
|
Kết
quả triển khai
|
1
|
Dự án chống
các gian lận thương mại và cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động thương
mại điện tử
|
Bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ liên quan tới thương mại trên môi trường mạng và bảo vệ người
tiêu dùng
|
Bộ Thương mại
chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an
|
Ngày
21/7/2008, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 09/2008/TT-BCT hướng dẫn
Nghị định Thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên
website TMĐT (Thông tư 09). Thông tư đưa ra các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi
thiết yếu của người tiêu dùng khi tham gia giao kết hợp đồng trên website
TMĐT. Năm 2009 và 2010, Bộ Công Thương đã triển khai nhiều hoạt động để đôn đốc
việc chấp hành Thông tư trong cộng đồng doanh nghiệp, thông qua các hội thảo
phổ biến Thông tư, tiến hành rà soát định kỳ, gửi công văn nhắc nhở và phối hợp
với Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành thanh tra, kiểm tra một số đơn vị
chủ quản của những website TMĐT tiêu biểu.
Bộ Công Thương
cũng phối hợp với Hiệp hội TMĐT Việt Nam xây dựng và triển khai Chương trình
cấp chứng nhận website TMĐT uy tín Việt Nam (TrustVn) từ năm 2007, nhằm thẩm
định độ tin cậy của các website TMĐT, định hướng cho người tiêu dùng trong việc
lựa chọn và tiến hành giao dịch trên những website TMĐT có uy tín.
|
2
|
Dự án giải quyết
tranh chấp trong hoạt động thương mại điện tử
|
Nâng cao khả
năng giải quyết các tranh chấp cho các cơ quan liên quan
|
Bộ Tư pháp chủ
trì, phối hợp với Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Thương mại và các cơ quan liên quan
|
|
3
|
Dự án thống kê
thương mại điện tử
|
Thống kê
thương mại điện tử theo các tiêu chí của Liên hiệp quốc và các tổ chức quốc tế,
hỗ trợ cho xây dựng chiến lược, chính sách phát triển thương mại
|
Tổng cục Thống
kê chủ trì, phối hợp với Bộ Thương mại, Bộ Bưu chính – Viễn thông và các cơ
quan liên quan khác
|
Tổng cục Thống
kê đã chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương đưa chỉ tiêu về thương mại điện tử
vào Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ ban hành
vào tháng 6/2010 tại Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg. Theo Quyết định này, chỉ
tiêu số 1412: “Số đơn vị có giao dịch TMĐT ở mức độ hoàn chỉnh” được giao Bộ
Công Thương thu thập và tổng hợp.
Ngày 15 tháng
10 năm 2008, Bộ Công Thương đã có Quyết định số 37/2008/QĐ-BCT ban hành hệ thống
chỉ tiêu thống kê về lĩnh vực thương mại điện tử. Triển khai Quyết định này,
trong 2 năm từ 2009-2010 Bộ Công Thương đã thực hiện những bước đầu tiên của
lộ trình nhằm hướng tới xây dựng một cơ sở dữ liệu toàn diện, đồng bộ và nhất
quán về tình hình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam qua các năm:
- Chuẩn hóa
khái niệm, nội dung và phương pháp tính đối với từng chỉ tiêu trong Hệ thống
chỉ tiêu thống kê về lĩnh vực thương mại điện tử.
- Xây dựng
chương trình điều tra thống kê ngành về lĩnh vực thương mại điện tử trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện.
- Triển khai
thí điểm điều tra thống kê ngành về thương mại điện tử trong năm 2010.
- Xây dựng cơ
sở dữ liệu thống kê dựa trên Hệ thống chỉ tiêu thống kê về lĩnh vực thương mại
điện tử.
|
VI. CHƯƠNG
TRÌNH HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TT
|
Tên
dự án
|
Mục
tiêu
|
Đơn
vị
|
Kết
quả triển khai
|
1
|
Dự án tham gia
các hoạt động liên quan tới thương mại điện tử của các tổ chức kinh tế - thương
mại quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác
Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và các tổ chức chuyên trách về thương
mại của Liên hiệp quốc
|
Khai thác được
tối đa sự hỗ trợ về phát triển nguồn nhân lực, công nghệ cho thương mại điện
tử cũng như thúc đẩy thương mại quốc tế.
|
Bộ Thương mại
chủ trì phối hợp với Bộ Bưu chính – Viễn thông và các bộ ngành liên quan
|
Trong khuôn khổ
hợp tác APEC, từ năm 2006 Bộ Công Thương đã đại diện cho Việt Nam tham gia rất
tích cực vào các hoạt động của Nhóm chỉ đạo công tác về thương mại điện tử
(ECSG). Năm 2006 Việt Nam được bầu làm chủ tịch Tiểu nhóm Thương mại phi giấy
tờ của APEC. Trong giai đoạn 2006-2009 ta đã tổ chức nhiều hội thảo quốc tế lớn
trong khuôn khổ APEC về thúc đẩy thương mại phi giấy tờ và bảo vệ dữ liệu cá
nhân trong thương mại điện tử. Từ năm 2007 Việt Nam cũng tích cực tham gia
xây dựng 9 dự án của Chương trình Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong TMĐT của APEC.
Do sự tham gia và đóng góp tích cực vào hợp tác TMĐT của khu vực, tại kỳ họp
SOM III APEC 2010 tại Sendai – Nhật Bản, trưởng đoàn Việt Nam đã được bầu làm
phó trưởng nhóm ECSG trong nhiệm kỳ 2011-2012.
Đối với hợp
tác trong ASEAN, thực hiện Thỏa thuận xây dựng Hệ thống một cửa ASEAN (ASEAN
Single Window), hiện Việt Nam đang tích cực triển khai các hoạt động nhằm xây
dựng Hệ thống Một cửa quốc gia để tích hợp với khu vực vào năm 2012.
Vấn đề công nhận
lẫn nhau về chứng từ điện tử cũng được đưa vào nội dung của Hiệp định về Khu
mậu dịch tự do giữa ASEAN với nhiều nền kinh tế đối tác. Hiện nay, Việt Nam
đã chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ điện tử cho các lô hàng xuất khẩu từ Hàn
Quốc và đang triển khai các hoạt động nhằm tiến tới công nhận lẫn nhau về chứng
nhận xuất xứ điện tử với một số nền kinh tế khác trong khu vực, tạo thuận lợi
cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
|
2
|
Dự án hợp tác
song phương với các nước và nền kinh tế tiên tiến về thương mại điện tử và có
trao đổi thương mại lớn với Việt Nam
|
Hỗ trợ các
doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu tiếp cận có hiệu quả nhất tới công nghệ
và giải pháp tiên tiến về thương mại điện tử, đồng thời thông qua thương mại
điện tử thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam
|
Bộ Thương mại
chủ trì cùng với các bộ ngành liên quan
|
Song song với
các hoạt động hợp tác đa phương, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam cũng đã chủ động
đẩy mạnh hoạt động hợp tác song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ có
trình độ tiên tiến về thương mại điện tử như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Đài Loan, v.v… Hoạt động hợp tác song phương về thương mại điện tử thời gian
qua được thực hiện ở cả cấp độ cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp.
Bộ Công Thương
cũng tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp, Hiệp hội trong việc tham gia các tổ chức
quốc tế về TMĐT như Liên minh TMĐT Châu Á – Thái Bình Dương (PAA), Liên minh
các Tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín thế giới (WTA). Năm 2008,
Trung tâm phát triển TMĐT Việt Nam (Ecomviet) đã trở thành thành viên chính
thức của ATA (Liên minh các tổ chức cấp chứng nhận website thương mại điện tử
uy tín Châu Á – Thái Bình Dương nay là WTA).
|