BỘ NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CỤC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NÔNG LÂM SẢN VÀ THỦY SẢN
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2106/QLCL-TTPC
V/v trả lời chất vấn của ĐBQH: Nguyễn Thanh
Thụy, Huỳnh Minh Hoàng và Trần Trí Dũng
|
Hà Nội, ngày
11 tháng 11 năm 2013
|
Kính gửi: Văn
phòng Bộ.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng tại
Văn bản số 5187/BNN-VP, số 5195/BNN-VP và số 5196/BNN-VP ngày 06/11/2013 về việc
trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XVIII, Cục
Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản chủ trì, phối hợp với các đơn vị
liên quan tổng hợp, đề xuất trả lời các câu hỏi của các đại biểu Quốc hội như
sau:
1. Câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thanh Thụy (tỉnh Bình Định).
Nội dung câu hỏi:
“Hiện nay việc sử dụng hóa chất cấm dùng trong chăn nuôi, chế
biến nông, thủy sản, thực phẩm, việc sản xuất một số sản phẩm kém chất lượng hoặc
do quy trình chế biến hoặc do nhiễm độc từ môi trường đang gây ảnh hưởng xấu đến
xuất khẩu và tiêu dùng. Gần đây các vụ ngộ độc thực phẩm do một số bếp ăn tập
thể cung cấp, nhiều thông tin liên tục về tình hình không đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước làm bùng lên nỗi bức xúc
và sự lo âu cho cả người tiêu dùng lẫn người sản xuất.
Đề nghị Bộ trưởng đánh giá vấn đề trên dưới góc độ quản lý của
ngành mình, đồng thời cho biết giải pháp cụ thể, nhất là các giải pháp phối hợp
với các bộ, ngành chức năng liên quan nhằm khắc phục có hiệu quả tình thực trạng
nêu trên”.
Trả lời:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã nghiêm túc triển khai quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm nông lâm thủy
sản thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý được phân công theo Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, Luật an toàn thực phẩm và các Nghị định hướng dẫn 2 Luật nêu trên.
Để đánh giá thực trạng an toàn thực
phẩm, hàng năm các cơ quan thuộc Bộ đều triển khai giám sát, đánh giá mức an
toàn thực phẩm nông lâm thủy sản. Kết quả lấy mẫu
giám sát trên diện rộng các sản phẩm tiêu thụ nhiều, nguy cơ cao trong các năm
gần đây cho thấy tỷ lệ mẫu rau quả tươi có tồn dư thuốc BVTV vượt ngưỡng cho
phép là 5,6% đến 6,8%; thịt gia súc, gia cầm có tồn dư hoá chất, kháng sinh, chất
tạo nạc vượt ngưỡng cho phép là 2% đến 4,9%; thuỷ sản có tồn dư hoá chất, kháng
sinh vượt ngưỡng cho phép là 0,7% đến 2,6%; tỷ lệ mẫu nhiễm như trên ở mức
tương đương với các nước đang phát triển trong khu vực nhưng còn cao hơn so với
EU, Nhật, Úc... và có xu hướng giảm nhưng chưa ổn định; riêng tỷ lệ mẫu thịt
gia súc, gia cầm nhiễm vi sinh vật còn cao (10% đến 38,7%) do còn nhiều bất cập
ở khâu giết mổ, bày bán mất vệ sinh .
Kết quả giám sát nêu trên cũng cho thấy vẫn còn xẩy ra các
trường hợp mất an toàn thực phẩm gây bức xúc cho người dân như ý kiến của cử
tri phản ảnh với Đại biểu Quốc hội.
Để tạo chuyển biến rõ nét, giảm thiểu nhanh và bền vững tỷ lệ
mẫu giám sát mất an toàn thực phẩm mà hậu quả là dẫn đến các vụ ngộ độc thực phẩm,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang triển khai quyết liệt các giải
pháp sau:
1. Hoàn thiện thể chế:
- Trình Quốc hội 03 dự án Luật: Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật Thú y, Luật Thuỷ sản
sửa đổi. Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 08/2010/NĐ-CP ngày 05/2/2010 về quản lý thức ăn
chăn nuôi, Nghị định quy định về quản lý sản xuất và tiêu thụ cá tra, cá ba sa;
đề án xây dựng và phát triển mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn; hoàn thiện
Đề án Quy hoạch các cơ sở giết mổ, chế
biến gia súc, gia cầm, Đề án Phát triển
sản xuất, tiêu thụ rau an toàn; phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Công thương ban hành
Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Luật ATTP và Nghị định 38/2012/NĐ-CP.
- Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn
bản hướng dẫn dưới Luật, các tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật theo hướng cải cách
hành chính, hài hoà hơn với chuẩn mực thông lệ quốc tế; ưu tiên rà soát các qui
định, qui chuẩn kỹ thuật đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh
và sử dụng vật tư nông nghiệp.
2. Phối
hợp chặt chẽ với các phương tiện thông tin đại chúng, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ
tuyên truyền, vận động, tập huấn người dân, doanh nghiệp liên kết sản xuất đảm
bảo ATTP nông lâm thuỷ sản theo chuỗi và hướng dẫn người tiêu dùng chọn mua sản
phẩm có nhãn nhận diện được xác nhận an toàn.
3. Triển khai đồng bộ, thường
xuyên giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm:
- Tổ chức triển khai thực chất
Thông tư 14/2011/TT-BNNPTNT về thống kê, kiểm tra đánh giá, phân loại các cơ sở
sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản; nghiêm túc thực hiện việc công khai kết
quả đánh giá, xếp loại; tổ chức tái kiểm tra cơ sở loại C và xử lý kiên quyết
theo đúng qui định đối với các cơ sở không chịu khắc phục sai lỗi kể cả đề nghị
thu hồi đăng ký kinh doanh;
- Duy trì lấy mẫu giám sát trên diện
rộng kết hợp với thông tin vi phạm ATTP từ các nguồn khác nhau làm cơ sở đánh
giá nguy cơ, xác định sản phẩm nguy cơ cao, công đoạn nguy cơ cao, địa bàn nguy
cơ cao để tổ chức thanh tra, điều tra nguyên nhân, xử lý nghiêm vi phạm (kể cả thu hồi sản phẩm không
an toàn); kịp thời cung cấp thông tin
đầy đủ, tránh để người dân thiếu thông tin dẫn đến hiểu lầm,
hoang mang, đồng thời giúp người tiêu dùng trong phân biệt,
lựa chọn sản phẩm an toàn
4. Ưu tiên nguồn lực (kinh phí và
nhân lực) để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp triển khai mô hình điểm chuỗi cung
cấp thực phẩm an toàn đại diện cho các vùng sinh thái. Sớm tổ chức đánh giá sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm phổ biến nhân rộng.
5. Kiểm soát chặt chẽ các lô hàng
nông sản nhập khẩu (kiểm tra kỹ về nguồn gốc xuất xứ, lấy
mẫu kiểm tra tăng cường khi có dấu hiệu nghi ngờ ...) theo
quy định tại Thông tư 25/2010/TT-BNNPTNT và Thông tư số 13/2011/TT-BNNPTNT của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các trường hợp
phát hiện lô hàng không đảm bảo an toàn, không đạt tiêu chuẩn theo quy định thì
áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp (tái xuất, tiêu huỷ), đồng thời thông báo đến
cơ quan thẩm quyền nước xuất khẩu yêu cầu điều tra nguyên nhân và áp dụng các
biện pháp khắc phục nhằm tránh tái diễn.
6. Tăng cường nguồn lực
- Chú trọng đào tạo/tập huấn cơ bản và
nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác quản lý, kiểm tra,
kiểm nghiệm, thanh tra chuyên ngành chất lượng ATTP nông lâm thủy sản;
- Đầu tư nâng cấp phòng kiểm nghiệm
kiểm chứng của Ngành, của quốc gia có năng lực tương đương
phòng kiểm nghiệm kiểm chứng các nước trong khu vực. Đẩy mạnh chủ trương xã hội
hóa hoạt động kiểm nghiệm, mở rộng đánh giá, chỉ định phòng kiểm nghiệm tham kết
hợp quản lý chặt chẽ đối với các phòng kiểm nghiệm đã được chỉ định.
2. Câu hỏi của đại biểu Trần Trí Dũng (tỉnh Trà Vinh).
Nội dung câu hỏi:
“Tình hình sản xuất, tàng trữ, buôn bán phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y... kém chất lượng, nhiều loại hàng
giả gây thiệt hại cho nông dân và bức xúc trong dư luận xã hội, mặc dù Bộ có tập
trung chỉ đạo quyết liệt nhưng tình hình vẫn còn diễn biến phức tạp”.
Trả lời:
Đúng là việc sản xuất, tàng trữ,
buôn bán phân bón thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn
nuôi, thuốc thú y... kém chất lượng gây thiệt hại cho nông
dân còn diễn biến phức tạp và bức xúc trong dư luận xã hội như phản ánh của đại
biểu Quốc hội Trần Trí Dũng, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh .
Theo kết quả giám sát trên diện rộng cho thấy tỷ lệ mẫu các
sản phẩm vật tư nông nghiệp nói chung còn cao tuy năm 2013 có cải thiện (năm
2012 lấy mẫu kiểm nghiệm 1706 mẫu, 289 mẫu (17%) vi phạm chất lượng như đã công
bố. Trong 10 tháng năm 2013 lấy mẫu kiểm nghiệm 304 mẫu, 28 mẫu (9,2%) vi phạm chất lượng như đã công bố).
Để khắc phục tình trạng nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã chỉ đạo tập trung triển khai một số giải pháp sau:
a) Đối với sản
xuất, kinh doanh và sử dụng phân bón.
- Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đang phối hợp cùng Bộ Công Thương đã trình Chính
phủ Dự thảo Nghị định về Quản lý phân bón thay thế các văn bản cũ để quản lý tốt
hơn, theo hướng quản lý từ gốc: Đưa phân bón trở thành mặt hàng sản xuất, kinh
doanh có điều kiện; hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia.và quản
lý chất lượng phân bón dựa trên tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia.
Trong khi chờ Chính phủ ký ban
hành Nghị định về quản lý phân bón mới, Bộ đã chấn chỉnh việc đăng ký, khảo kiểm
nghiệm, công nhận, đưa vào Danh mục phân bón; rà soát lại việc thực hiện các quy
định pháp luật trong sản xuất, kinh doanh phân bón, xử lý nghiêm các vi phạm, sửa
đổi, bổ sung các quy định theo hướng chặt chẽ và phù hợp với điều kiện ở Việt
Nam.
- Giải pháp thông tin tuyên truyền:
đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật cho các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực phân bón; tổ chức
tuyên truyền giáo dục cho người sử dụng phân bón để nhận biết và hướng xử lý
khi gặp phân giả, phân bón kém chất lượng.lựa chọn sử dụng các loại phân bón của
các đơn vị có uy tín, có thương hiệu.
- Công tác kiểm tra, thanh tra, xử
lý vi phạm: việc quản lý nhà nước về lĩnh vực vật tư nông nghiệp đã được phân
công, phân cấp cụ thể cho các đơn vị chuyên ngành trực thuộc Bộ và các địa
phương. Tăng cường phối hợp liên Ngành tổ chức kiểm tra,
thanh tra, phát hiện ngăn chăn kịp thời và nghiêm khắc sản
xuất, buôn bán các loại phân bón giả, kém chất lượng.
b) Đối với sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật (BVTV).
- Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã hoàn thành, trình Quốc hội
thông qua Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; đã trình Chính phủ ban hành Nghị định
số 114/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây
trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật; đã ban hành Thông tư số 03/2013/TT-BNNPTNT
ngày 11/01/2013 về quản lý thuốc BVTV và nhiều văn bản chỉ đạo và huy động hệ
thống BVTV từ trung ương đến địa phương vào cuộc quyết liệt để quản lý chặt chẽ
thuốc BVTV ;
- Năm 2013 Bộ đã phát động đợt thanh tra diện rộng, lấy mẫu
kiểm tra chất lượng và xử lý các hành vi vi phạm; tháng 11/2013 Bộ đã mời UBND
các tỉnh biên giới, các Bộ, Ngành có liên quan để họp bàn và tìm giải pháp quản
lý thuốc BVTV nhập khẩu vào Việt Nam.
c) Đối với sản xuất, kinh doanh và sử dụng thức ăn chăn nuôi
(TĂCN).
So với năm 2012, kết quả kiểm tra
năm 2013 cho thấy chất lượng TĂCN đã có chiều hướng tốt hơn, đặc biệt không có
mẫu TĂCN bị phát hiện nhiễm chất cấm nhóm Beta agonist.
Các giải pháp:
- Rà soát lại các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến TĂCN, sửa đổi bổ sung một số văn bản cho phù hợp với thực
tế như Nghị định 08/2010/NĐ-CP; Thông tư số 66/2011/TT-BNNPTNT. Đưa ra khỏi Danh mục những sản phẩm TĂCN
đã đăng ký nhưng doanh nghiệp không còn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu.
Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thức ăn chăn nuôi bổ sung cho gia
súc, gia cầm.
- Tăng cường năng lực kiểm nghiệm chất lượng TĂCN cho các
phòng thử nghiệm; tổ chức các chương trình kiểm tra chéo giữa các phòng thử
nghiệm; chỉ định Phòng thử nghiệm trọng tài để xử lý kết quả khi có tranh chấp.
- Tăng cường hoạt động tuyên truyền về VSATTP trong chăn
nuôi, nhất là các chất cấm sử dụng trong TĂCN; triển khai rộng rãi chương trình
xã hội hóa giám sát vấn đề sử dụng các chất cấm trong chăn nuôi, khuyến khích
hình thức để người chăn nuôi tự giác tham gia giám sát các chất cấm, như ký cac
kết không sử dụng chất cấm với các nhà cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm
và chính quyền cơ sở xã phường, thôn bản.
- Tăng cường kiểm tra chất lượng đối với TĂCN sản xuất trong
nước và nhập khẩu theo hướng phân cấp nhiều hơn cho các địa phương.
d) Về sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc thú y.
- Ban hành Thông tư kiểm tra chất lượng thuốc
thú y theo đúng quy định của Luật chất lượng hàng hóa thay thế Quyết định 72/2007/QĐ-BNN
và Quyết định 100/2007/QĐ-BNN.
- Tiếp tục thực hiện việc kiểm tra, đánh giá
phân loại cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc thú y theo quy định tại Thông tư 14/2011/TT-BNNPTNT;
xử lý nghiêm theo qui định đối với cơ sở vi phạm, tái phạm
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
nghiêm các trường hợp phát hiện thuốc giả, thuốc ngoài danh mục, thuốc kém chất
lượng.
- Tăng cường lấy mẫu giám sát chất lượng thuốc
thú y.
3. Câu hỏi của đại biểu Huỳnh Minh Hoàng (tỉnh Bạc Liêu).
Nội dung câu hỏi:
“1. Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng
hàng hóa có hiệu lực từ năm 2007, sao đến nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chưa ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về phân bón, thuốc thú y và thức ăn thủy
sản.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý chất lượng
thức ăn thủy sản từ khâu sản xuất, lưu thông đến cơ sở nuôi thủy sản như thế
nào? Hiện nay đang buông lỏng quản lý mà chỉ thực hiện việc đăng ký danh mục.
3. Thức ăn thủy sản nhập khẩu được quản lý như thế nào? Thực
trạng hiện nay là không quy chuẩn, không kiểm soát”.
Trả lời:
* Nội dung 1.
“Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng
hàng hóa có hiệu lực từ năm 2007, sao đến nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chưa ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về phân bón, thuốc thú y và thức ăn thủy
sản”.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã chỉ đạo các đơn vị ưu tiên nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện hệ thống qui
chuẩn kỹ thuật làm cơ sở pháp lý, kỹ thuật cho công tác quản lý, cụ thể:
1. Đối với quy chuẩn kỹ thuật về
thức ăn thủy sản.
- Đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật số
QCVN 02-14: 2009/BNNPTNT cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi thuỷ sản - điều
kiện đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh thú y và bảo vệ môi trường.
- Đã ban hành các Tiêu chuẩn ngành
về các sản phẩm thức ăn thủy sản (cá biển, cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm càng
xanh, cá rô phi) và Quy định tạm thời về thức ăn dùng cho tôm thẻ chân trắng,
hiện đang chờ Bộ Khoa học công nghệ công bố chuyển đổi thành các TCVN về thức
ăn cho cá biển, cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh, cá rô phi,…riêng thức ăn tôm
sú đã có TCVN số 9964:2013
2. Đối với quy
chuẩn kỹ thuật về phân bón.
Hiện tại Bộ đã xây dựng hoàn thiện
hai (02) Quy chuẩn kỹ thuật đang chờ
thủ tục ban hành bao gồm:
- QCKT Quốc gia về Chất lượng Phân
bón hữu cơ chế biến công nghiệp, hữu cơ sinh học, hữu cơ khoáng, hữu cơ vi sinh
và phân vi sinh vật
- QCKT Quốc gia về Điều kiện sản
xuất Phân bón hữu cơ chế biến công nghiệp, hữu cơ sinh học, hữu cơ khoáng, hữu
cơ vi sinh và phân vi sinh vật".
- Trong năm 2013 đang xây dựng các
QCKT:
+ QCKT Quốc gia về Điều kiện sản
xuất phân bón lá;
+ QCKT Quốc gia về Khảo nghiệm hiệu
lực phân bón cho cây trồng ngắn ngày;
+ QCKT Quốc gia về Khảo nghiệm hiệu lực phân bón cho cây trồng lâu năm.
- Năm 2014 Bộ tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về lĩnh vực phân bón thuộc thẩm quyền
quản lý của Bộ.
3. Đối với quy chuẩn kỹ thuật về
thuốc thú y.
- Bộ đã ban hành Thông tư số 33/2011/TT-BNNPTNT
ngày 6/5/2011 ban hành Quy chuẩn Việt Nam (QCVN 01-40:2011/BNNPTNT, Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về điều kiện vệ sinh thú y cơ sở kinh doanh thuốc thú y; QCVN
01-42:2011/BNNPTNT, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia điều kiện vệ sinh đối với cơ sở
thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y)
- Năm 2014 Bộ tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về lĩnh vực thuốc thú y thuộc thẩm
quyền quản lý của Bộ.
* Nội dung 2.
“Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý chất lượng
thức ăn thủy sản từ khâu sản xuất, lưu thông đến cơ sở nuôi thủy sản như thế
nào? Hiện nay đang buông lỏng quản lý mà chỉ thực hiện việc đăng ký danh mục”.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang triển khai quản
lý thức ăn thủy sản từ khâu sản xuất, lưu thông đến cơ sở nuôi thủy sản theo
các qui định pháp luật sau:
a) Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 08/2010/NĐ-CP về quản
lý thức ăn chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông
tư hướng dẫn thực hiện Nghi định, trong đó đã quy định cụ thể trong quản lý thức
ăn thủy sản:
- Điều kiện của cơ sở sản xuất, kinh doanh;
- Khảo nghiệm thức ăn mới;
- Kiểm tra chất lượng thức ăn nhập khẩu, trình tự thủ tục kiểm
tra xác nhận chất lượng;
- Đăng ký lưu hành sản phẩm (đăng ký vào Danh mục);
b) Kiểm tra đánh giá phân loại cơ sở sản xuất, kinh doanh thức
ăn được thực hiện theo Thông tư số 14/2011/TT-BNNPTNT Bộ Nông nghiệp & PTNT
quy định kiểm tra, đánh giá cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản
phẩm nông lâm thủy sản và Quy chuẩn kỹ thuật số QCVN 02-14: 2009/BNNPTNT - cơ sở
sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi thuỷ sản - điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm,
vệ sinh thú y và bảo vệ môi trường.
c) Hóa chất kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản
được quản lý theo Thông tư số 15/2009/TT-BNN;
d) Đánh giá, chỉ định phòng kiểm nghiệm thức ăn (theo Thông
tư số 16/2011/TT-BNNPTNT).
đ) Xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến thức ăn thủy sản đã
được quy định tại Nghị định 08/2011/NĐ-CP nay là Nghị định 119/2013/NĐ-CP).
Trong thời gian tới Bộ Nông nghiệp sẽ tập trung nguồn lực để
quản lý chất lượng thức ăn thủy sản trong sản xuất, lưu thông thường xuyên, bài
bản và chặt chẽ hơn.
* Nội dung 3.
“Thức ăn thủy sản nhập khẩu được quản lý như thế nào? Thực
trạng hiện nay là không quy chuẩn, không kiểm soát”.
Thức ăn thủy sản nhập khẩu được quản lý theo các qui
định pháp luật sau:.
a) Thức ăn nhập khẩu phải có trong danh mục được phép lưu
hành, nếu không có trong danh mục phải xin cấp phép. Trình tự, thủ tục cấp phép
nhập khẩu thức ăn (theo Thông tư số 88/2011/TT-BNNPTNT).
b) Thức ăn thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam phải được kiểm
tra chất lượng (Thông tư số 66/2011/TT-BNNPTNT, Quyết định 50/2006/QĐ-TTg và
các Tiêu chuẩn ngành về các sản phẩm thức ăn thủy sản (cá biển, cá tra, cá ba
sa, tôm sú, tôm càng xanh, cá rô phi) và Quy định tạm thời về thức ăn dùng cho
tôm thẻ chân trắng, hiện đang chờ Bộ Khoa học công nghệ công bố chuyển đổi
thành các TCVN về thức ăn cho cá biển, cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh, cá rô
phi,…riêng thức ăn tôm sú đã có TCVN số 9964:2013 )
c) Doanh nghiệp phải công bố Tiêu chuẩn chất lượng thức ăn
do mình sản xuất, kinh doanh;
d) Ban hành các Tiêu chuẩn về chất lượng thức ăn thủy sản,
đã có các tiêu chuẩn ngành từ năm 2004 và nay là các TCVN;
đ) Thức ăn không đạt chất lượng sẽ bị xử lý vi phạm theo quy
định tại Nghị định 08/2011/NĐ-CP nay là Nghị định 119/2013/NĐ-CP.
Trong thời gian tới Bộ Nông nghiệp sẽ tập trung nguồn lực để
hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, qui chuẩn và quản lý kiểm tra chất lượng thức
ăn thủy sản nhập khẩu chặt chẽ hơn.
Đề nghị Văn Phòng tổng hợp báo cáo Bộ trưởng/.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/cáo);
- TT. Nguyễn T. Xuân Thu (để b/c);
- Phòng KHTH (để biết);
- Lưu: VT, TTPC.
|
CỤC TRƯỞNG
Nguyễn Như Tiệp
|