BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 0658/TM-XNK
V/v Đàm phán điều chỉnh Hiệp định hàng dệt
may với EU
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2002
|
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Căn cứ phương án đàm phán điều chỉnh
Hiệp định về buôn bán hàng dệt may đã ký giữa Việt Nam và EU trình Thủ tướng
Chính phủ tại công văn số 2016/TM/XNK ngày 14 tháng 8 năm 2001 và được Thủ tướng
Chính phủ cho phép tại công văn số 4014/VPCP-QHQT ngày 31 tháng 8 năm 2001 của
Văn phòng Chính phủ, sau khi làm việc với các Bộ, các ngành Bộ Thương mại đã
chính thức đề nghị EU loại bỏ 24/29 mặt hàng đang áp dụng hạn ngạch và tăng hạn
ngạch những mặt hàng nhạy cảm còn lại từ 2 đến 3 lần.
Trong đợi đàm phán vừa qua tại
Bruxelles, từ ngày 13 đến 15 tháng 3 năm 2002, phía EU cho rằng những nhân nhượng
về mở thị trường của Việt Nam khó có thể thuyết phục các nước thành viên chấp
nhận phương án Việt Nam đưa ra nhưng có thể bàn tiếp trên cơ sở đáp ứng những
yêu cầu mới của EU.
Phía EU đề nghị mở cửa thị trường cho
hàng hoá và các dịch vụ sau:
- Giảm thuế hàng dệt may,
- Vận tải biển,
- Bảo hiểm,
- Xe hai bánh gắn máy (mô tô và xe
scooters),
- Dược phẩm,
- Rượu vang và rượu mạnh,
- Hàng không,
- Xe ô tô con,
- Ngân hàng,
- Nghĩa vụ kết hối ngoại tệ một phần
bằng đồng Việt Nam của các công ty,
Về các vấn đề trên, Bộ Thương mại xin
báo cáo Thủ tướng Chính phủ như sau:
1/- Hàng dệt may, phía EU đề nghị giảm
thuế nguyên liệu xuống: 0%; chỉ, sợi: 5%; vải: 10%; quần áo: 17,5%.
Năm 1995 ta và EU đã thoả thuận lịch
trình giảm thuế đến năm 2005, để đạt mức: Sơ: 7%; chỉ, sợi: 12%; vải: 20%; quần
áo: 30%.
Bộ Thương mại đang bàn với Bộ Công
nghiệp và Bộ Tài chính chỉ đưa các dòng thuế còn lại vào lịch trình giảm dần
như đã cam kết.
2/- Vận tải biển, EU đề nghị:
- Các công ty hàng hải EU được cung cấp
toàn bộ các dịch vụ về vận tải và bến cảng;
- Được cấp giấy phép thành lập chi
nhánh và liên doanh có vốn nước ngoài từ 51% trở lên;
- Các doanh nghiệp EU được hưởng quy
chế đối xử quốc gia về thuế cảng, lệ phí cảng như các doanh nghiệp Việt Nam.
Về việc này xin được báo cáo như sau:
- Nghị định số 10/2001/NĐ-CP ngày 19
tháng 3 năm 2001 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ hàng hải đã quy
định "Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì vốn góp của Bên Việt
Nam không dưới 51%, riêng đối với hai loại dịch vụ: dịch vụ đại lý tàu biển và
dịch vụ lai dắt tàu biển, chỉ doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước được phép
kinh doanh".
- Phí, lệ phí hàng hải đối với tàu
thuỷ vận tải quốc tế đã được quy định tại Phụ lục 1, Quyết định số
48/2001/QĐ/BTC ngày 28/5/2001 của Bộ Tài chính. Mức thu không phân biệt
tàu nước ngoài hoặc tàu Việt Nam.
3/- Về bảo hiểm, EU đề nghị cấp thêm
giấy phép cho công ty 100% vốn của EU.
- Hiện nay đã có 3 công ty bảo hiểm
100% số vốn của EU được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam là Prudential,
Allianz và Groupparma, trong đó có một công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential, EU
đề nghị cấp thêm giấy phép cho công ty bảo hiểm nhân thọ.
Bộ Thương mại cho rằng nếu có sự cạnh
tranh giữa các công ty nước ngoài sẽ có lợi cho người mua bảo hiểm, khuyến
khích doanh nghiệp của ta vươn lên (thực tế vừa qua cũng chứng minh là như vậy),
do đó đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét cấp giấy phép cho một công ty bảo hiểm
nhân thọ nữa trong trường hợp EU xoá bỏ hạn ngạch đối với các mặt hàng ta đều
nghị và tăng đáng kể những mặt hàng nhậy cảm còn lại.
4/- EU đề nghị miễn áp dụng quy chế mới
đối với nhập khẩu linh kiện xe hai bánh gắn máy PIAGGIO;
Về việc này xin được báo cáo như sau:
Xe hai bánh gắn máy PIAGGIO do Italia
sản xuất khó có khả năng nội địa hoá theo quy định tại Quyết định số
38/2002/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2002 và thị phần mặt hàng này cũng rất thấp
so với số lượng nhập khẩu hàng năm (năm 2001 lắp ráp khoảng 1000 chiếc). Do đó
xin đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét khả năng cho hạn ngạch nhập khẩu đặc biệt
khoảng 2000 bộ linh kiện CKD, thời hạn từ 1 đến 2 năm để có thời gian trang bị
các máy móc cần thiết, thực hiện tỷ lệ nội địa hoá theo quy định.
5/- Về vấn đề để giảm thuế rượu thì
năm 2001, khi bỏ giấy phép nhập khẩu, ta đã tăng thuế 20%. Bộ Tài chính thống
nhất giảm xuống bằng mức trước khi tăng vào cuối năm 2003. Trình Thủ tướng
Chính phủ cho phép rút ngắn thời hạn vào tháng 6/2003 nếu hạn ngạch hàng dệt
may đạt mức tăng cao.
6/- Về mở cửa thị trường dược phẩm: Bộ
Y tế đã có chương trình xây dựng quy chế gia công dược phẩm thu phí vào tháng 6
năm 2002 và cắt giảm thêm hai hoạt chất thuộc danh mục không được đăng ký lại.
7/- Hàng không: về máy bay, trong quá
trình đàm phán mua máy bay Airbus nên ép EU tăng hạn ngạch dệt may thì mới
mua 5 chiếc đã ký MOU với điều kiện giá cạnh tranh và dịch vụ kỹ thuật sau khi
mua tốt.
Với việc giảm thuế hàng dệt may theo
lịch trình đã cam kết và các nhân lượng mở cửa thị trường đối với dược phẩm và
giảm thuế rượu, Bộ Thương mại cùng với các Bộ, ngành sẽ phấn đấu đặt mức tăng hạn
ngạch theo phương án đã trình Thủ tướng Chính phủ. Trường hợp mở thêm các dịch
vụ khác như: vận tải biển, bảo hiểm và cấp hạn ngạch nhập khẩu linh kiện xe 2 bánh
gắn máy PIAGGIO thì ta sẽ gắn với hạn ngạch được tăng tương ứng.
Mặc dù thị trường Mỹ đã được mở, nhiều
doanh nghiệp đánh giá rằng làm ăn với khách hàng EU có nhiều thuận lợi và hiệu
quả cao hơn so với các thị trường khác. Hơn nữa hạn ngạch các mặt hàng nhậy cảm
xuất khẩu vào EU đến nay đã sử dụng gần hết. Nhu cầu tăng hạn ngạch rất cấp
bách. Phía EU đã chấp nhận vào Hà Nội đàm phán tiếp từ ngày 27 đến 31 tháng 5
năm 2002.
Kính trình Thủ tướng Chính phủ cho ý
kiến chỉ đạo để Bộ Thương mại cùng các Bộ ngành liên quan triển khai công tác
chuẩn bị đàm phán đạt hiệu quả, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện nay cho doanh
nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch đề ra.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
Vũ Khoan
|