PHỤ LỤC 03
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CHÍNH
SÁCH THUẾ NHÀ THẦU ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP LẮP RÁP ÔTÔ, NHẬP KHẨU ÔTÔ NGUYÊN
CHIẾC, NHẬP KHẨU MÁY MÓC, THIẾT BỊ, HÀNG HÓA CÓ BẢO HÀNH
(Ban hành kèm theo Công văn số 3342/TCT-CC ngày 20/9/2012 của Tổng cục Thuế)
I. Về việc thu thuế đối với Nhà thầu nước ngoài cung
cấp linh kiện, phụ tùng ô tô hoặc nhập khẩu ô tô nguyên chiếc có kèm theo dịch
vụ bảo hành tại Viêt Nam
1. Đối với hoạt động cung cấp linh kiện, phụ tùng để
lắp ráp ô tô có kèm theo dịch vụ bảo hành:
a.
Trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế của Nhà thầu nước ngoài:
- Nhà
thầu nước ngoài cung cấp linh kiện, cụm linh kiện có kèm theo dịch vụ bảo hành
sản phẩm cho doanh nghiệp lắp ráp ôtô Việt Nam sẽ phải chịu thuế nhà thầu (thuế
GTGT và thuế TNDN).
- Nhà
thầu nước ngoài có trách nhiệm đăng ký MST và tự tính thuế nhà thầu nếu là đối
tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ kê khai hoặc theo phương pháp hỗn hợp.
Trường hợp nhà thầu nước ngoài không thuộc đối tượng nêu trên thì phải nộp thuế
theo phương pháp ấn định tỷ lệ (ấn định tỷ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế
GTGT và ấn định tỷ lệ thuế TNDN trên doanh thu tính thuế TNDN) và doanh
nghiệp lắp ráp ô tô có trách nhiệm tính thuế, khấu trừ, kê khai và nộp thuế
thay cho nhà thầu nước ngoài với cơ quan thuế quản lý trực tiếp.
Việc
xác định thuế nhà thầu được thực hiện theo Thông tư 134/2008/TT-BTC (giai đoạn
từ 1/1/2009 đến 26/5/2012) và Thông tư số 60/2012/TT-BTC (giai đoạn từ
27/5/2012 đến nay).
b.
Thực tế kê khai, nộp thuế nhà thầu của doanh nghiệp lắp ráp ôtô Việt Nam
Môt
số doanh nghiệp lắp ráp ôtô tại Việt Nam có mua linh kiện, cụm linh kiện có kèm
theo bảo hành sản phẩm của Nhà thầu nước ngoài chưa tính thuế, khấu trừ thuế,
kê khai thuế và nộp thay thuế nhà thầu đối với các khoản thu nhập này.
Các
tính chất, đặc điểm của hoạt động lắp ráp ô tô tại Việt Nam và trách nhiệm, bảo
hành sản phẩm khi mua linh kiện, cụm linh kiện có bảo hành sản phẩm tại Việt
Nam diễn ra như sau:
-
Tính chất hoạt động lắp ráp:
+
Doanh nghiệp lắp ráp nhập khẩu cụm linh kiện CKD từ công ty mẹ và các công ty
liên kết trong cùng tập đoàn để lắp ráp thành thành phẩm. Công ty Việt Nam và
Công ty mẹ ký kết hợp đồng khung về cung cấp linh kiện, phụ tùng. Từ đó cho
thấy vai trò điều hành, chỉ đạo về loại (dòng sản phẩm) được lắp ráp để tiêu
thụ tại Việt Nam đã được công ty mẹ áp đặt ngay từ đầu. Đồng thời, mỗi loại xe
được gắn với điều kiện về bản quyền thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm có thời
hạn, qua đó cho thấy chủng loại sản phẩm đưa vào Việt Nam là lắp ráp đơn giản,
không có chuyển giao công nghệ về sản xuất nội địa hóa nên Việt Nam thực chất
chỉ là “xưởng lắp ráp”, không thể phát triển được nền công nghiệp ôtô của Việt
Nam.
+
Trên cơ sở Hợp đồng khung, các doanh nghiệp lắp ráp Việt Nam thực hiện ký kết
các hợp đồng chi tiết mua linh kiện, phụ tùng với các Công ty con khác. Công ty
lắp ráp ô tô tại Việt Nam do không có quyền thương lượng hợp đồng, lựa chọn
nguồn cung cấp linh, phụ kiện nên thực chất thì các hợp đồng chi tiết chỉ là
một hình thức “hợp pháp hóa” giấy tờ cùng tập đoàn theo các điều kiện đã cam
kết tại Hợp đồng khung để có hợp đồng thương mại làm căn cứ tính thuế nhập khẩu
và hạch toán giá vốn. Trước khi ký hợp đồng chi tiết này, Công ty mẹ hoặc công
ty trung gian cung cấp linh kiện, phụ tùng đã sắp xếp và chỉ định các đầu mối
tiêu thụ sản phẩm sau khi lắp ráp tại Việt Nam.
-
Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp lắp ráp ô tô và trách nhiệm bảo hành sản
phẩm:
+
Đặc điểm hoạt động lắp ráp:
Sản phẩm
|
SKD
|
CKD
|
IKD
|
CKD1
|
CKD2
|
THÙNG,
VỎ XE
|
Đã
sơn hoàn chỉnh và liên kết với nhau. Cánh cửa, ghế, ắc quy rời khỏi thùng, vỏ
xe
|
Đã
liên kết với nhau, chưa sơn
|
Rời
thành từng mảng; chưa hàn, tán; chưa sơn
|
Sản
xuất trong nước
|
KHUNG
XE
|
Đã
liên kết với nhau và sơn hoàn chỉnh (Tùy theo đặc điểm công nghệ của xe,
khung xe có thể liên kết với thùng xe)
|
Đã
liên kết với nhau và chưa sơn
|
Sản
xuất trong nước
|
ĐỘNG
CƠ
|
Hoàn
chỉnh và đã lắp trên khung, vỏ xe
|
Hoàn
chỉnh và có thể lắp liền với côn và hộp số
|
CẦU
XE
|
Hoàn
chỉnh và đã lắp trên khung, vỏ xe
|
Đã
lắp cùng với trống phanh và cơ cấu phanh
|
HỆ
THỐNG ĐIỆN, ĐÈN VÀ TIỆN NGHI
|
Hệ
thống dây điện và bảng điện đã lắp trên thùng và vỏ xe. Các cụm đèn để rời
|
Hệ
thống dây điện, bảng điện, đèn và tiện nghi để rời
|
|
|
|
|
|
|
· Lắp ráp giản đơn
(còn được gọi là sản xuất theo hợp đồng):
o
Lắp ráp các cụm linh kiện dạng CKD thành thành phẩm tiêu thụ;
o
Lắp ráp theo các mẫu mã có sẵn nhằm tiêu thụ cho thị trường trong nước (mẫu mã
và tên thương hiệu của sản phẩm đã được thừa nhận trên thị trường)
o Số
lượng lao động trực tiếp thực hiện chức năng lắp ráp không lớn
o
Công việc thực hiện:
- Mua
linh kiện, cụm linh kiện (CKD) từ các nhà cung cấp nước ngoài B (bên liên kết);
B chịu trách nhiệm bảo hành các sản phẩm do B cung cấp;
- Mua
phụ tùng và nguyên liệu khác từ các doanh nghiệp trong nước; DN trong nước chịu
trách nhiệm bảo hành một số loại phụ tùng do DN này cung cấp;
- Thực
hiện lắp ráp thành sản phẩm ô tô hoàn chỉnh;
- Bán
cho các đại lý để phân phối cho người tiêu dùng;
- Là
người đại diện bảo hành chung toàn bộ sản phẩm cho người tiêu dùng (trực tiếp
thành lập xưởng sửa chữa, bảo hành; Thuê các đại lý bảo hành).
-
Trách nhiệm bảo hành sản phẩm và một số nội dung hợp đồng:
+
Hợp đồng mua linh kiện, cụm linh kiện từ các nhà cung cấp nước ngoài B (bên
liên kết) được thể hiện nội dung bảo hành theo 3 hình thức sau:
Hình
thức 1: Hợp đồng tách giá trị dịch vụ bảo hành (không phổ biến): Tách riêng giá
trị hàng hóa và giá trị dịch vụ bảo hành;
Hình
thức 2: Hợp đồng gộp chung giá trị dịch vụ bảo hành vào giá trị hàng hóa (Rất
phổ biến tại nhiều doanh nghiệp lắp ráp): Chỉ thể hiện đơn giá hàng hóa
cung cấp và trách nhiêm bảo hành thuốc về B. ® xét về bản
chất thì hàng hóa đươc cung cấp có kèm theo dịch vụ bảo hành; trong cơ cấu giá
hàng hóa thực chất đã bao gồm giá trị hàng hóa và giá tri dịch vụ bảo hành.
Hình
thức 3: Hợp đồng hỗ trợ dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp B: Chỉ thể hiện đơn
giá hàng hóa cung cấp (cao hơn đơn giá trong giao dịch độc lập khách quan có
điều kiện giao dịch tương đương), không thể hiện B có trách nhiệm bảo hành.
® Xét về thực tế thì hàng hóa linh kiện và cụm linh
kiện ô tô là những hàng hóa mang tính kỹ thuật cao, đòi hỏi độ chính xác cao,
bắt buộc nhà cung cấp phải có trách nhiệm bảo hành sản phẩm (Đây là thông lệ
quốc tế). ® Về bản chất thì hàng hóa được cung cấp có kèm theo dịch
vụ bảo hành; trong cơ cấu giá hàng hóa thực chất đã bao gồm giá trị hàng hóa và
giá trị dịch vụ bảo hành. Tuy nhiên B là bên liên kết với C (02 bên cùng chung
lợi ích) ® để tránh thuế TNDN tại Việt Nam, C đã thực hiện bảo
hành sản phẩm thay B và hỗ trợ cho B chi phí bảo hành sản phẩm thực tế phát
sinh mà không thu tiền).
+
Thực hiện bảo hành sản phẩm:
Nhà
thầu nước ngoài B cam kết bảo hành sản phẩm bán cho doanh nghiệp Việt Nam C. Có
02 trường hợp xảy ra như sau:
- Nếu
trong thời hạn bảo hành theo cam kết, sản phẩm không bị hỏng hóc do lỗi kỹ
thuật của nhà sản xuất thì B không phát sinh chi phí bảo hành {trường hợp
này Nhà thầu có phát sinh thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ bảo hành (thu nhâp
đã nằm trong giá bán sản phẩm như nêu trên) nhưng không phát sinh chi phí bảo
hành sản phẩm};
- Nếu
trong thời hạn bảo hành theo cam kết, sản phẩm bị hỏng hóc do lỗi kỹ thuật của
nhà sản xuất thì B phát sinh chi phí bảo hành {trường hợp này Nhà thầu có
phát sinh thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ bảo hành (thu nhập đã nằm trong giá
bản sản phẩm như nêu trên) và có phát sinh chi phí bảo hành sản phẩm}.
Đối
với trường hợp này, thông thường B sẽ không trực tiếp bảo hành mà thuê C đứng
ra bảo hành thay và trả chi phí bảo hành cho C. C trực tiếp bảo hành sản phẩm
cho người tiêu dùng hoặc thuê đại lý bảo hành sản phẩm cho người tiêu dùng. Thể
hiện như sau:
*
Có tính phí bảo hành với nhà cung cấp B (đối với hình thức Hợp đồng 1 và 2):
Trực
tiếp bảo hành: Xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp Việt Nam và Nhà
cung cấp nước ngoài và hạch toán doanh thu bảo hành sản phẩm vào doanh thu của C
(ghi có TK 511); đồng thời thực hiện thanh toán bù trừ doanh thu bảo hành với
chi phí mua phụ tùng, linh kiện của nhà cung cấp.
Thuê
đại lý bảo hành: Tiếp nhận hóa đơn bảo hành từ đại lý để hạch toán vào chi phí;
đồng thời xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp Việt Nam và Nhà cung
cấp nước ngoài và hạch toán doanh thu bảo hành sản phẩm vào doanh thu của C
(ghi có TK 511); đồng thời thực hiện thanh toán bù trừ doanh thu bảo hành với
chi phí mua phụ tùng, linh kiện của nhà cung cấp.
*
Hỗ trợ phí bảo hành cho nhà cung cấp B (đối với hình thức Hợp đồng 3):
Trực
tiếp bảo hành: Không xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp nước ngoài
và không hạch toán doanh thu bảo hành này vào doanh thu của C; không tính phí
bảo hành phải thu từ nhà cung cấp nước ngoài.
Thuê
đại lý bảo hành: C tiếp nhận hóa đơn bảo hành từ đại lý để hạch toán vào chi
phí tính thuế TNDN của C; C không xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung
cấp nước ngoài và không hạch toán doanh thu bảo hành này vào doanh thu của C;
không tính phí bảo hành phải thu từ nhà cung cấp nước ngoài.
2. Đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu ô tô có bảo
hành sản phẩm:
a.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại:
- Mua
xe ô tô nguyên chiếc (CBU) từ các nhà cung cấp nước ngoài B (bên liên kết); B
chịu trách nhiệm bảo hành các sản phẩm do B cung cấp;
- Bán
trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc bán cho các đại lý để phân phối lại cho
người tiêu dùng;
- Là
người đại diện bảo hành sản phẩm cho người tiêu dùng (trực tiếp thành lập xưởng
sửa chữa, bảo hành; thuê các đại lý bảo hành).
b.
Trách nhiệm bảo hành sản phẩm và một số nội dung hợp đồng:
Hợp
đồng mua xe nguyên chiếc từ các nhà cung cấp nước ngoài B (bên liên kết) được
thể hiện nội dung bảo hành theo 3 hình thức sau:
- Hình
thức 1: Hợp đồng tách giá trị dịch vụ bảo hành (không phổ biến): Tách
riêng giá trị hàng hóa và giá trị dịch vụ bảo hành;
- Hình
thức 2: Hợp đồng gộp chung giá trị dịch vụ bảo hành vào giá trị hàng hóa (rất
phổ biến tại nhiều doanh nghiệp nhập khẩu): Chỉ thể hiện đơn giá hàng hóa
cung cấp và trách nhiệm bảo hành thuộc về B. ® xét về bản
chất thì hàng hóa đươc cung cấp có kèm theo dịch vụ bảo hành; trong cơ cấu giá
hàng hóa thực chất đã bao gồm giá trị hàng hóa và giá trị dịch vụ bảo hành.
- Hình
thức 3: Hợp đồng hỗ trợ dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp B: Chỉ thể hiện đơn
giá hàng hóa cung cấp (cao hơn đơn giá trong giao dịch độc lập khách quan có
điều kiện giao dịch tương đương), không thể hiện B có trách nhiệm bảo hành.
® Xét về thực tế thì hàng hóa ô tô là hàng hóa mang
tính kỹ thuật cao, đòi hỏi độ chính xác cao, bắt buộc nhà cung cấp phải có
trách nhiệm bảo hành sản phẩm (Đây là thông lệ quốc tế), ® Về bản chất thì hàng hóa được cung cấp có kèm theo dịch vụ bảo hành;
trong cơ cấu giá hàng hóa thực chất đã bao gồm giá trị hàng hóa và giá trị dịch
vụ bảo hành. Tuy nhiên B là bên liên kết với C (02 bên cùng chung lợi ích) ® để tránh thuế TNDN tại Việt Nam, C đã thực hiện bảo hành sản phẩm thay
B và hỗ trợ cho B chi phí bảo hành sản phẩm thực tế phát sinh mà không thu
tiền).
c.
Thực hiện bảo hành sản phẩm:
Nhà
thầu nước ngoài B cam kết bảo hành sản phẩm bán cho doanh nghiệp Việt Nam C. Có
02 trường hợp xảy ra như sau:
- Nếu
trong thời hạn bảo hành theo cam kết, sản phẩm không bị hỏng hóc do lỗi kỹ
thuật của nhà sản xuất thì B không phát sinh chi phí bảo hành {trường hợp
này Nhà thầu có phát sinh thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ bảo hành (thu nhập
đã nằm trong giá bán sản phẩm như nêu trên) nhưng không phát sinh chi
phí bảo hành sản phẩm};
- Nếu
trong thời hạn bảo hành theo cam kết, sản phẩm bị hỏng hóc do lỗi kỹ thuật của
nhà sản xuất thì B phát sinh chi phí bảo hành {trường hợp này Nhà thầu có
phát sinh thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ bảo hành (thu nhập đã nằm trong giá
bán sản phẩm như nêu trên) và có phát sinh chi phí bảo hành sản phẩm}.
Đối
với trường hợp này, thông thường B sẽ không trực tiếp bảo hành mà thuê C đứng
ra bảo hành thay và trả chi phí bảo hành cho C. C trực tiếp bảo hành sản phẩm
cho người tiêu dùng hoặc thuê đại lý bảo hành sản phẩm cho người tiêu dùng. Thể
hiện như sau:
*
Có tính phí bảo hành với nhà cung cấp B (đối với hình thức Hợp đồng 1 và 2):
Trực
tiếp bảo hành: Xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp Việt Nam và Nhà
cung cấp nước ngoài và hạch toán doanh thu bảo hành sản phẩm vào doanh thu của
C (ghi có TK 511); đồng thời thực hiện thanh toán bù trừ doanh thu bảo hành với
chi phí mua phụ tùng, linh kiện của nhà cung cấp.
Thuê
đại lý bảo hành: Tiếp nhận hóa đơn bảo hành từ đại lý để hạch toán vào chi phí;
đồng thời xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp Việt Nam và Nhà cung
cấp nước ngoài và hạch toán doanh thu bảo hành sản phẩm vào doanh thu của C
(ghi có TK 511); đồng thời thực hiện thanh toán bù trừ doanh thu bảo hành với
chi phí mua xe nguyên chiếc, mua phụ tùng, linh kiện của nhà cung cấp.
*
Hỗ trợ phí bảo hành cho nhà cung cấp B (đối với hình thức Hợp đồng 3):
Trực
tiếp bảo hành: Không xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung cấp nước ngoài
và không hạch toán doanh thu bảo hành này vào doanh thu của C; không tính phí
bảo hành phải thu từ nhà cung cấp nước ngoài.
Thuê
đại lý bảo hành: C tiếp nhận hóa đơn bảo hành từ đại lý để hạch toán vào chi
phí tính thuế TNDN của C; C không xuất hóa đơn dịch vụ bảo hành cho nhà cung
cấp nước ngoài và không hạch toán doanh thu bảo hành này vào doanh thu của C;
không tính phí bảo hành phải thu từ nhà cung cấp nước ngoài.
II. Thuế Nhà thầu nước ngoài đối với doanh nghiệp mua
máy móc, thiết bị có kèm theo việc cung cấp dịch vụ hướng dẫn sử dụng, bảo hành
sản phẩm tại Việt Nam
1.
Nghĩa vụ thuế nhà thầu đối với các bên:
Việc
xác định nghĩa vụ thuế nhà thầu của các bên giống như trường hợp kinh doanh
nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc có bảo hành nêu trên. Các tổ chức, cá nhân nhập
khẩu hàng năm có thể đề nghị Tổng cục Hải quan cung cấp theo Phụ lục đã hướng
dẫn tại Thông tư số 98/2010/TTLT-TC-YT-NNPTNT.
2.
Nhận định về kê khai thuế nhà thầu:
Nhiều
doanh nghiệp nhập khẩu máy móc, thiết bị có kèm theo dịch vụ hướng dẫn sử dụng,
bảo hành sản phẩm tại Việt Nam chưa kê khai, khấu trừ và nộp thay thuế đối với
các khoản thu nhập nêu trên của Nhà thầu nước ngoài. Đây là một nguồn thu rất
lớn chưa được quản lý thu, có thể truy thu cho NSNN nhiều tỷ đồng.
PHỤ LỤC 04
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CHÍNH
SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI NHÀ THẦU NƯỚC NGOÀI CÓ THU NHẬP TẠI VIỆT NAM TỪ HOẠT ĐỘNG
LIÊN KẾT ĐÀO TẠO
(Ban hành kèm theo Công văn số 3342/TCT-CC ngày 20/9/2012 của Tổng cục Thuế)
Các
Trường Đại học, Cao đẳng và các cơ sở đào tạo trong nước có các Chương trình
liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài để thực hiện đào tạo hệ cao
đẳng, cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ thì ngoài việc thực hiện kê khai nghĩa vụ thuế
của chính cơ sở mình, còn có nghĩa vụ thực hiện kê khai, nộp thay thuế Nhà thầu
cho bên nước ngoài liên kết theo quy định của pháp luật và hướng dẫn tại Phụ
lục này như sau:
1. Xác định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế:
a)
Về thuế GTGT:
Thông
tư số 134/2008/TT-BTC và Thông tư số 60/2012/TT-BTC quy định: “Đối tượng
chịu thuế GTGT: ... Dịch vụ hoặc dịch vụ gắn với hàng hóa thuộc đối tượng
chịu thuế GTGT do Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài cung cấp tại
Việt Nam và tiêu dùng tại Việt Nam;”. Tuy nhiên, Thông tư số
129/2008/TT-BTC và Thông tư số 06/2012/TT-BTC lại quy định về đối tượng không
chịu thuế GTGT: “13. Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật bao gồm
cả dạy ngoại ngữ, tin học; dạy múa, hát, hội họa, nhạc, kịch, xiếc, thể dục, thể
thao; nuôi dạy trẻ và dạy các nghề khác nhằm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ văn hóa, kiến thức chuyên môn nghề nghiệp”.
® Không thu thuế GTGT
đối với nhà thầu thực hiện hoạt động liên kết đào tạo;
b)
Về thuế TNDN:
Đào
tạo tại Viêt Nam: Thông tư số 134/2008/TT-BTC và Thông tư số 60/2012/TT-BTC quy
định: “Thu nhập chịu thuế TNDN... Thu nhập của Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu
phụ nước ngoài phát sinh từ hoạt động cung cấp dịch vu, dịch vụ gắn với hàng hóa
tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ… Thu nhập phát
sinh tại Việt Nam của Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài là các khoản
thu nhập nhận được dưới bất kỳ hình thức nào trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp
đồng nhà thầu phụ ... không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành hoạt động kinh
doanh của Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài”
® Thu nhập từ hoạt
động đào tạo tại Việt Nam của Nhà thầu nước ngoài giai đoạn 01/01/2009 đến nay
phải chịu thuế TNDN.
Đào
tạo tại nước ngoài: Thông tư số 60/2012/TT-BTC quy định: “Điều 4. Đối tượng
không áp dụng…… 4. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện cung cấp dịch vụ dưới
đây cho tổ chức, cá nhân Việt Nam mà các dịch vụ được thực hiện ở nước
ngoài:.... - Đào tạo (trừ đào tạo trực tuyến)...”
® Thu nhập từ hoạt
động đào tạo của nhà thầu nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài nhưng là loại
hình đào tạo trực tuyến giai đoạn 27/5/2012 đến nay (Thông tư số
60/2012/TT-BTC có hiệu lực thi hành) phải chịu thuế TNDN.
Như
vậy, việc xác định nghĩa vụ thuế nhà thầu đối với dịch vụ đào tạo theo chương
trình liên kết có yếu tố nước ngoài cần xác định cụ thể theo Thông tư số
134/2008/TT-BTC (từ giai đoạn 01/01/2009 27/5/2012 và theo Thông tư số
60/2012/TT-BTC quy định (từ 27/5/2012 đến nay) do có sự hướng dẫn nghĩa vụ thuế
khác nhau đối với hoạt động đào tạo tại nước ngoài theo hình thức trực tuyến
cho Tổ chức, cá nhân Việt Nam (người học tại Việt Nam).
- Nhà
thầu nước ngoài có thể nộp thuế theo 02 hình thức sau:
+
Nhà thầu nước ngoài tự kê khai và tự nộp thuế với cơ quan thuế Việt Nam nếu đủ điều
kiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ kê khai hoặc theo phương pháp hỗn hợp;
+
Trường hợp Nhà thầu nước ngoài không đủ điều kiện tự kê khai, nộp thuế thì phải
nộp thuế theo phương pháp ấn định tỷ lệ (ấn định tỷ lệ thuế TNDN là 5% trên
doanh thu tính thuế TNDN);
a.
Xác định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế nhà thầu của Tổ chức Viêt Nam liên
kết đào tạo với Nhà thầu nước ngoài hoặc thuê Nhà thầu nước ngoài đào tạo
Trường
hợp Nhà thầu nước ngoài không đủ điều kiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
kê khai hoặc theo phương pháp hỗn hợp hoặc đủ điều kiện nhưng không đăng ký nộp
thuế theo các phương pháp này thì Bên Việt Nam có trách nhiệm đăng ký MST, tính
thuế, khấu trừ, kê khai và nộp thuế thay cho nhà thầu nước ngoài với cơ quan
thuế quản lý trực tiếp doanh nghiệp theo phương pháp ấn định tỷ lệ.
2. Thực tế kê khai, nộp thuế nhà thầu đối với trường
hợp nộp thuế theo phương pháp ấn định tỷ lệ
Trong
thực tế nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã liên kết với một số
Trường Đại học tại nước ngoài để thực hiện ký hợp đồng cùng đào tạo hệ cao
đẳng, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ tại Việt Nam; dưới các hình thức: Cơ sở đào tạo
tại Việt Nam thực hiện tuyển sinh và tổ chức đào tạo cho học viên theo chương
trình đào tạo liên kết và trực tiếp thu tiền của học viên, sau đó chia tiền cho
bên liên kết nước ngoài theo tỷ lệ đã thỏa thuận trong hợp đồng liên kết đào
tạo.
Tuy
nhiên, việc quản lý hoạt động cũng như kê khai thu thuế đối với hoạt động này
nhiều năm qua chưa thực hiện tốt, nên đến nay nhiều trường Đại học, cao đẳng
thuộc mô hình đào tạo liên kết với các trường đại học nước ngoài chưa thực hiện
nghiêm túc nghĩa vụ thu nộp NSNN cũng như chưa kê khai, khấu trừ và nộp thay
thuế cho Nhà thầu nước ngoài đối với các khoản thu nhập phát sinh tại Việt Nam
(Thanh tra Chính phủ và Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thanh tra một số cơ
sở đào tạo nêu trên) dẫn đến thất thu cho NSNN nhiều tỷ đồng
(Tham
khảo Danh mục Chương trình liên kết đào tạo có yếu tố nước ngoài tại các trường
Đại học, Cao đẳng kèm theo).