BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2195/TCT-CS
V/v chính sách thu tiền sử dụng đất.
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 06 năm 2015
|
Kính gửi: Cục
Thuế thành phố Cần Thơ.
Trả lời Công văn số 20/CT-KTNB ngày 23/01/2015 của
Cục Thuế thành phố Cần Thơ về việc xin ý
kiến thu tiền sử dụng đất, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
- Tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của
Chính phủ bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai:
+ Khoản 4, Điều 14 quy định:
“Điều 14. Cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp đất
do hộ gia đình, cá nhân sử dụng từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 mà không có
một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật
Đất đai
4. Hộ gia đình, cá nhân không được cấp Giấy chứng
nhận đối với phần diện tích đất được sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993
trong trường hợp tại thời điểm bắt đầu sử
dụng đất đã có một trong các hành vi vi phạm sau đây (trừ trường hợp quy định tại
khoản 5 Điều này):
a) Vi phạm quy hoạch chi tiết xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt và công
khai;
b) Vi phạm quy hoạch chi tiết mặt bằng xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt và công khai đối với diện
tích đất đã giao cho tổ chức, cộng đồng
dân cư quản lý;
c) Lấn, chiếm hành lang bảo vệ an toàn công
trình công cộng đã được công bố, cắm mốc;
d) Lấn, chiếm lòng đường, lề đường, vỉa hè đã có
chỉ giới xây dựng;
đ) Lấn, chiếm đất sử dụng cho mục đích công cộng,
đất chuyên dùng, đất của tổ chức, đất
chưa sử dụng và các trường hợp vi phạm khác đã có văn
bản ngăn chặn nhưng người sử dụng đất vẫn cố tình vi phạm.”
+ Điều 45 quy định:
“Điều 45. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước
thu hồi đất đối với đất sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về sau mà
không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
1. Trường hợp thu hồi đối với đất đã sử dụng
trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 nhưng không có Giấy chứng nhận
hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản
1 Điều 50 của Luật Đất đai và được Ủy ban
nhân dân cấp xã xác nhận đất đó không có tranh chấp thì việc bồi thường, hỗ trợ
về đất thực hiện theo quy định sau:
a) Trường hợp đất đang sử dụng là đất có nhà ở
và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều
14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường về đất theo diện
tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường không vượt quá hạn
mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của
Luật Đất đai tại thời điểm có quyết định
thu hồi đất và giá trị bồi thường phải trừ đi tiền sử dụng đất phải nộp theo mức
thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP. Đối với phần diện tích vượt hạn
mức đất ở và phần diện tích đất vườn, ao
trên cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được công nhận là đất ở thì được bồi
thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp;
b) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp (không phải là đất ở) và không thuộc một trong các trường hợp
sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất
được bồi thường về đất đối với diện tích
đất thực tế đang sử dụng nhưng phải trừ đi tiền sử dụng đất phải nộp theo mức
thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP. Giá đất tính thu tiền sử dụng đất
là giá đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp cùng loại. Trường hợp trên thửa
đất có cả phần diện tích đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì phần diện
tích đó được bồi thường, hỗ trợ về đất
theo quy định đối với đất nông nghiệp;
c) Trường hợp đất đang sử dụng thuộc nhóm đất
nông nghiệp mà người đang sử dụng đất là
hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường, hỗ
trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP;
d) Trường hợp đất đang sử dụng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này hoặc diện tích đất
nông nghiệp vượt hạn mức giao đất quy định tại Điều 70 của Luật
Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
thì người sử dụng đất không được bồi thường về đất; nếu đất đang sử dụng là đất có
nhà ở mà người có đất bị thu hồi không có chỗ ở nào khác thì được giải quyết
theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP.
2. Đất do lấn, chiếm và đất được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng
7 năm 2004 trở về sau thì người có hành vi lấn, chiếm hoặc được giao đất, thuê đất
không đúng thẩm quyền không được bồi thường về đất khi thu hồi đất.”
- Tại Khoản 1, Điều 14 Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ bổ sung về quy hoạch sử dụng đất,
giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ
và tái định cư quy định:
“Điều 14. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ
1. Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng
có đủ điều kiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10
và 11 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của
Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau
đây gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP)
và các Điều 44, 45 và 46 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25
tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi là Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP) thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện
được bồi thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ.”
Căn cứ hồ sơ kèm theo, năm 1998 bà Tăng Thị Lệ Oanh
và bà Dậu có Hợp đồng mua bán nhà đất với diện tích 72,47 m2, được Ủy ban nhân dân phường Trà Nóc xác nhận.
Căn cứ các quy định nêu trên, đối với trường hợp của
bà Tăng Thị Lệ Oanh: do năm 1998 bà Tăng Thị Lệ Oanh làm thủ tục hợp thức hóa
thửa đất có diện tích 72,47 m2 và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định,
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 17,58 m2, phần diện tích
54,89 m2 không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Nhà nước quy hoạch
lộ giới.
Vì vậy, năm 2010 bà Tăng Thị Lệ Oanh không được bồi
thường đối với phần diện tích tích 54,89 m2 đất khi Nhà nước thu hồi theo quy định
tại điểm d, Khoản 1, Điều 45 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP. Việc
Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ đã có
văn bản cho phép bồi thường đối với toàn bộ diện tích phần diện tích 72,47 m2
nêu trên (bao gồm cả 54,89 m2 do Nhà nước quy hoạch lộ giới) là đúng thẩm quyền
phù hợp với quy định tại Khoản 1, Điều 14 Nghị định số
69/2009/NĐ-CP nêu trên.
Căn cứ quy định
về chính sách tiền sử dụng đất thì việc thu tiền sử dụng đất chỉ áp dụng đối với
trường hợp người sử dụng đất được cấp
GCNQSDĐ hoặc trường hợp được bồi thường đối với đất đang sử dụng quy định tại điểm d, Khoản 1, Điều 45 Nghị đinh số 84/2007/NĐ-CP nêu trên.
Đề nghị Cục Thuế thành phố Cần Thơ căn cứ hồ sơ cụ
thể của bà Tăng Thị Lệ Oanh để thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục Thuế thành phố cần Thơ
được biết./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Vụ Pháp chế (BTC);
- Cục QLCS (BTC);
- Vụ Pháp chế, Vụ KTNB (TCT);
- Lưu: VT, CS (3b).
|
TL. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG VỤ CHÍNH SÁCH
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Ngô Văn Độ
|