TỔNG CỤC THUẾ
CỤC THUẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1108/CT-TTHT
V/v: thuế thu nhập cá nhân
|
TP.Hồ Chí
Minh, ngày 05 tháng 03 năm 2013
|
Kính gửi:
|
Ngân hàng Mizuho Corporate Bank Ltd - Chi
nhánh TP.HCM
Địa chỉ: Lầu 18 Sunwah 115 Nguyễn Huệ, Quận 1
Mã số thuế: 0304413344
|
Trả lời văn bản ngày 29/01/2013 của Ngân hàng về
thuế thu nhập cá nhân (TNCN), Cục Thuế TP có ý kiến như sau:
Căn cứ Khoản 2.1, Mục II, Phần D Thông tư số
84/2008/TT-BTC ngày 30/09/2008 cuả Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế TNCN:
“Khai thuế đối với cá nhân cư trú
có thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công trong trường hợp
số ngày có mặt tại Việt Nam tính trong năm dương lịch đầu tiên là dưới 183 ngày,
nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là
từ 183 ngày trở lên.
- Năm tính thuế thứ nhất: khai và
nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày tính đủ 12 tháng
liên tục.
- Năm tính thuế thứ hai: khai và
nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày kết thúc năm
dương lịch.
Số thuế phải nộp trong năm thứ 2 sẽ được trừ cho
phần thuế đã nộp trong năm tính thuế thứ nhất tương ứng thời gian trùng với năm
tính thuế thứ 2.
Số thuế tính trùng được trừ vào năm tính thuế
thứ 2 được xác định như sau:
Số thuế tính
trùng được trừ
|
=
|
Số
thuế phải nộp trong năm tính thuế thứ nhất
|
x
|
Số
tháng tính trùng
|
12
|
Ví dụ: Ông A đến Việt Nam làm việc
ngày 01/5/2009 (là ngày ghi trên hộ chiếu của ông A) và có thu nhập chịu thuế
phát sinh tại Việt Nam.
Giả sử từ 01/5/2009 đến
31/12/2009, ông A có mặt tại Việt Nam là 160 ngày; từ ngày 01/01/2010 đến
30/4/2010, ông A có mặt tại Việt Nam 30 ngày. Như vậy, trong năm 2009 ông A
không đủ thời gian có mặt tại Việt Nam để được xác định là cá nhân cư trú (160
ngày nhỏ hơn 183 ngày). Tuy nhiên nếu tính trong 12 tháng liên tục (từ ngày
01/5/2009 đến ngày 30/4/2010) ông A có mặt tại Việt Nam tổng cộng là 190 ngày
(160 ngày cộng 30 ngày), do đó ông A vẫn được xác định là cá nhân cư trú.
Năm tính thuế thứ nhất của ông A
được xác định từ ngày 01/5/2009 đến hết ngày 30/4/2010, ông A phải nộp hồ sơ
quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày 30/4/2010.
Năm tính thuế thứ 2 của ông A được
xác định từ ngày 01/01/2010 đến hết ngày 31/12/2010; ông A phải nộp hồ sơ quyết
toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày 31/12/2010.
Số thuế phải nộp trong năm thứ 2
của ông A được trừ phần thuế đã nộp trong năm thứ nhất tương ứng với thời gian
trùng với năm tính thuế thứ 2 cụ thể là các tháng 1, 2, 3, 4.
Số thuế tính trùng của năm 2009
được trừ vào năm tính thuế thứ 2010 của ông A được xác định như sau:
Số
thuế tính trùng được trừ
|
=
|
Số thuế phải
nộp trong năm 2009
|
x
|
4
tháng”
|
12
|
Căn cứ Tiết b1 Khoản 6 Điều 14 Thông tư số 28/2011/TT-BTC
ngày 28/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản
lý Thuế quy định về khai quyết toán thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập từ
tiền lương, tiền công như sau:
“Cá nhân cư
trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công phải khai quyết toán thuế.
Trường hợp cá nhân
cư trú là người nước ngoài khi kết thúc làm việc tại Việt Nam trước khi xuất
cảnh, đến thời điểm xuất cảnh phải thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế.
Trường hợp cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công duy nhất tại một nơi trong năm dương lịch thì được uỷ quyền quyết
toán thuế cho cơ quan trả thu nhập quyết toán thay. Cá nhân phải có trách nhiệm
làm giấy uỷ quyền quyết toán thuế theo mẫu số 04-2/TNCN ban hành kèm theo Thông
tư này.
Cá nhân đã được tổ chức, cá nhân trả thu nhập cấp chứng từ
khấu trừ thuế thì không được uỷ quyền cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập quyết
toán thay (trừ trường hợp tổ chức, cá nhân trả thu nhập đã thu hồi và huỷ chứng
từ khấu trừ thuế đã cấp cho cá nhân)”.
Căn cứ Điểm 1 Mục II Công văn số 187/2013/TCT-TNCN ngày
15/01/2013 của Tổng cục Thuế hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2012 quy định:
“Trường hợp cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký
hợp đồng dài hạn (trên 3 tháng) duy nhất tại một nơi trong năm dương lịch nếu
có yêu cầu thực hiện quyết toán thì có thể uỷ quyền quyết toán thuế cho cơ quan
trả thu nhập quyết toán thay, kể cả trường hợp cá nhân làm việc chưa đủ 12
tháng trong năm nhưng có thu nhập duy nhất tại một nơi”.
Trường hợp
theo trình bày của Ngân hàng, Ông A là cá nhân người nước ngoài được cử sang
Việt Nam làm việc tại Ngân hàng từ ngày 02/8/2012, trong năm 2012 Ông A có mặt
tại Việt Nam là 149 ngày, không đủ thời gian có mặt tại Việt Nam để được xác
định là cá nhân cư trú trong năm 2012 thì khi kết thúc năm 2012 Ông A không
phải làm thủ tục quyết toán thuế (chỉ phải làm thủ tục quyết toán thuế trong
năm tính thuế đầu tiên tính từ ngày 02/8/2012 đến hết ngày 01/8/2013 (trong
phạm vi 12 tháng liên tục) nếu là cá nhân cư trú tại Việt Nam).
Trường hợp Ngân hàng có người lao động là cá nhân cư
trú trong năm 2012, làm việc tại Ngân
hàng trong năm tính thuế (năm 2012) chưa đủ 12 tháng, nhưng chỉ có thu nhập duy
nhất tại Ngân hàng và có văn bản ủy quyền cho Ngân hàng thực hiện quyết toán
thay theo mẫu số 04-2/TNCN nêu trên thì Ngân hàng thực hiện quyết toán thuế
TNCN thay cho người lao động. Khi quyết toán thuế, thu nhập phát sinh của người
lao động là thu nhập của cả năm 12 tháng.
Cục Thuế TP thông báo Ngân hàng
biết để thực hiện theo đúng quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật đã được
trích dẫn tại văn bản này.
Nơi nhận:
- Như trên;
- P.PC;
- P.KT 2;
- Web CT;
- Lưu: (HC,TTHT)
281-35488/2013 NVTrường
|
KT. CỤC TRƯỞNG
PHÓ CỤC TRƯỞNG
Trần Thị Lệ Nga
|