|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
481-NCPL
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
|
Người ký:
|
Trịnh Hồng Dương
|
Ngày ban hành:
|
18/11/1992
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
481-NCPL
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 11 năm 1992
|
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 481-NCPL NGÀY
18 THÁNG 11 NĂM 1992 VỀ VIỆC TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Trong thời gian vừa
qua một số Toà án đã có những thiếu sót trong việc áp dụng thay đổi biện pháp
ngăn chặn là tạm giam, hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt
tù, giảm thời gian chấp hành hình phạt tù, miễn chấp hành hình phạt tù... Những
thiếu sót này đã dẫn tới những trường hợp không thể mở đươc phiên toà vì bị cáo
không đến phiên toà (thậm chí có trường hợp bị cáo được trả tự do trước khi xét
xử đã trốn ra nước ngoài), không bắt được người bị phạt tù để buộc chấp hành
hình phạt, người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trốn tránh việc tiếp
tục chấp hành hình phạt (thậm chí có trường hợp bỏ trốn ra nước ngoài sau khi
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù)... Những thiếu sót này đã gây thiệt
hai, gây khó khăn cho công tác xét xử và thi hành án, gây dư luận xấu trong
nhân dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành Toà án. Để khắc phục những thiếu
sót này, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án các cấp lưu ý một số điểm
sau:
1.
Đối với bị can, bị cáo phạm tội thuộc các trường hợp nghiêm trọng, đặc biệt là
đối với những người phạm tội thuộc loại tham nhũng (tham ô tài sản xã hội chủ
nghĩa, nhận hối lộ, cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng, lập quỹ trái phép, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong
khi thi hành công vụ hoặc lạm quyền , lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt
tài sản công dân...), buôn lậu, buôn bán các chất ma tuý... nếu họ chưa bị tạm
giam thì Toà án cần ra lệnh tạm giam họ để bảo đảm cho sự có mặt của họ tại
phiên toà, cũng như để bảo đảm cho việc thi hành án khi họ bị phạt tù.
Theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự thì không tạm giam bị
can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng, là người
già yếu, người bị bệnh nặng mà họ có nơi cư trú rõ ràng, trừ trường hợp đặc biệt.
"Trường hợp đặc biệt" theo điều luật này cần hiểu là các trường hợp bị
can, bị cáo là phần tử nguy hiểm, phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
2.
Đối với các bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng mà Bộ luật
Hình sự quy định hình phạt tù trên một năm thì Toà án cần ra lệnh tạm giam họ nếu
họ không có nơi cư trú rõ ràng hoặc cư trú thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương khác. Trong các trường hợp này Toà án cần sớm mở phiên toà để xét xử
vụ án.
3.
Đối với các bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì tuyệt đối không được trả tự do
cho họ vì các lý do như trả tự do để họ đi định cư ở nước ngoài, để đưa tang
người thân thích: tuyệt đối không được trả tự do cho bị can, bị cáo không có
nơi cư trú rõ ràng.
4.
Tại Công văn số 311/NCPL ngày 25-12-1990 Toà án nhân dân tối cao đã lưu ý các
Toà án các cấp một số điểm về hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù. (Công văn này đã được đăng tải trong Tạp chí Toà án nhân dân số 12
năm 1990). Nay Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án các cấp thêm một số điểm
như sau về hoãn thi hành án phạt tù:
a) Khi đã hết hạn
hoãn chấp hành hình phạt tù theo các điểm 2, 3, 4 Điều 231 Bộ
luật Tố tụng hình sự (từ ba tháng đến một năm đối với phụ nữ có thai hoặc mới
sinh đẻ, một năm đối với ngưới bị kết án là người lao động duy nhất trong gia
đình, sáu tháng đến một năm đối với quân nhân bị kết án). Toà án phải ra ngay
quyết định thi hành án đói với người đã được hoãn chấp hành hình phạt tù và
theo dõi, đôn đốc để việc bắt họ chấp hành hình phạt tù được thực hiện nghiêm
chỉnh.
b) Đối với người
được hoãn chấp hành hình phạt tù vì lý do họ ốm nặng (điểm 1 Điều
231 Bộ luật Tố tụng hình sự) Toà án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú theo dõi bệnh trạng của họ để nếu thấy sức
khoẻ của họ đã hồi phục thì ra ngay quyết định thi hành án phạt tù và theo dõi
đôn đốc để việc bắt họ đi chấp hành hình phạt tù được thực hiện nghiêm chỉnh.
c) Kháng nghị giám
đốc thẩm theo hướng tăng hình phạt tù hoặc giảm một phần hình phạt tù được coi là
kháng nghị đối với một phần quyết định về hình phạt: do đó trong trường hợp có
kháng nghị giám đốc thẩm theo các hướng này, Toà án vẫn ra quyết định thi hành
án phạt tù và theo dõi đôn đốc để việc bắt người bị kết án đi chấp hành hình phạt
tù được thực hiện nghiêm chỉnh.
Trong trường hợp
có kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng tuyên bố không phạm tội, miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt, áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, cho hưởng án
treo đối với người bị phạt tù thì Toà án đã xử sơ thẩm (hoặc Toà án đã được uỷ
thác ra quyết định thi hành án) chưa ra quyết định thi hành án mà cần chờ kết
quả xét xử giám đốc thẩm.
d) Tuyệt đối không
cho người bị kết án hoãn chấp hành hình phạt tù ngoài các trường hợp đã được
quy định tại các điểm 1, 2, 3, 4 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình
sự.
5. Toà án đã ra
quyết định thi hành án chỉ được ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù
trong trường hợp Viện kiểm sát hoặc Ban giám định trại giam đề nghị cho người
đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù vì
các lý do được quy định tại các điểm 1, 2, 3 Điều 231 Bộ luật Tố
tụng hình sự. Do đó, khi các Toà án nhận được đơn của người bị kết án hoặc
của thân nhân của họ hay cơ quan, tổ chức xin cho họ được tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù, thì Toà án cần gửi ngay đơn đó cho Ban giám thị trại giam (nếu
biết rõ nơi họ đang chấp hành hình phạt tù) hoặc gửi đơn đó cho Viện Kiểm sát
cùng cấp (nếu không biết rõ nơi họ đang chấp hành hình phạt tù); đồng thời báo
cho người hoặc cơ quan , tổ chức hữu quan biết và hướng dẫn cho họ biết rõ là
chỉ có Ban giám thị trại giam hoặc Viện Kiểm sát mới có quyền đề nghị và Toà án
chỉ xem xét khi các cơ quan này đã gửi cho Toà án văn bản đề nghị cho người bị
kết án được tạm đỉnh chỉ chấp hành hình phạt tù.
6.
Nếu Ban chấp hành giám thị trại giam hoặc Viện kiểm sát chỉ chuyển đơn cho Toà
án mà không có văn bản chính thức đề nghị Toà án cho người bị kết án được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì Toà án không có quyền ra quyết định tạm
đình chỉ thi hành án phạt tù. Trong trường hợp này Toà án trả lại đơn cho Ban
giám thị trại giam hoặc Viện kiểm sát cùng cấp để các cơ quan này giải quyết
theo thẩm quyền, nghĩa là để các cơ quan này chính thức đề nghị Toà án cho người
bị kết án được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu thấy có đủ căn cứ hoặc
không đề nghị cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu không có đủ
căn cứ theo quy định của pháp luật.
7.
Nếu Ban giám thị trại giam hoặc Viện kểm sát đề nghị cho người bị kết án được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù vì lý do họ bị ốm nặng, nhưng chưa có kết luận
của giám định y khoa, thì Toà án không tự mình tổ chức giám định y khoa và tuỳ
trường hợp cụ thể mà yêu cầu Ban giám thị trại giam hoặc Viện kiểm sát tổ chức
giám định sức khoẻ của người bị kết án và chỉ khi có kết luận của giám định y
khoa thì Toà án mới xem xét để quyết định việc có cho ngưòi bị kết án đượoc tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù hay không.
8.
Nếu Toà án có ấn định thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù thì khi hết thời
hạn đó Toà án phải ra ngay quyết định thi hành án đối với người đã đựoc tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù và theo dõi, đôn đốc để việc bắt họ đi chấp
hành hình phạt được thực hiện nghiêm chỉnh.
9.
Đối với các trường hợp tạm đình chỉ thi hành án phạt tù vì lý do người bị kết
án ốm nặng, các Toà án cần lưu ý một số điểm như sau:
a) Nếu Toà án có ấn
định thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù và khi hết thời hạn đó mà người
bị kết án yêu cầu được tiếp tục tại ngoại để chữa bệnh vì chưa phục hồi sức khoẻ
,thì Toà án tổ chức giám định sức khoẻ của họ để kết luận về bệnh trạng của họ
(kinh phí giám định do họ chịu). Nếu kết luận của giám định y khoa cho thấy sức
khoẻ của họ đã phục hồi thì Toà án cần ra ngay quyết định thi hành án đối với họ
và theo dõi, đôn đốc việc để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù được thực hiện
nghiêm chỉnh. Còn nếu kết luận của giám định y khoa cho thấy là sức khoẻ của họ
chưa được phục hồi, thì Toà án ra quyết định kéo dài việc tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù thêm một thời gian nữa hoặc cho đến khi sức khoẻ của họ phục hồi.
b) Nếu Toà án
không ấn định thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù thì Toà án có trách nhiệm
phối hợp với chính quyền xã, phường thị trấn nơi ngưòi bị kết án cư trú theo
dõi bệnh trạng của họ để nếu thấy sức khoẻ của họ đã phục hồi thì ra ngay quyết
định thi hành án đối với họ. Nếu Toà án thấy khó đánh giá sức khoẻ của họ đã phục
hồi hay chưa phục hồi thì cần tổ chức giám định sức khoẻ của họ (kinh phí giám
định do họ chịu) và kết luận của giám định y khoa là căn cứ để Toà án quyết định
việc cho họ được tiếp tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hoặc buộc họ pháp
tiếp tục chấp hành hình phạt tù.
10. Các Toà án các
cấp cần rà soát lại các trường hợp hoãn thi hành án phạt tù và tạm đình chỉ thi
hành án phạt tù mà hiện nay ngưòi bị kết án chưa chấp hành hoặc chưa chấp hành
xong hình phạt tù do được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để nếu
thấy có trường hợp nào không đúng với quy định của pháp luật và các hướng dẫn
đã có, cũng như các hướng dẫn trong công văn này, thì cần có biện pháp khắc phục
để việc thi hành án đối với họ được thực hiện nghiêm chỉnh. Đặc biệt là đối với
các trường hợp đã có quyết định cho hoan hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù
không đúng với quy định tại Điều 231, 232 Bộ luật Tố tụng hình
sự thì cần huỷ quyết định đó và ra lệnh bắt họ chấp hành hình phạt tù.
11. Cần nghiêm chỉnh
tuân thủ quy định của các điều 49, 51 Bộ luật Hình sự về thời
gian đã chấp hành hình phạt để được xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù lần đầu là một phần ba thời hạn đối với các hình phạt tù 20 năm tù trở xuống
, 10 năm tù đối với chung thân, về việc Toà án chỉ có thể xét giảm váo thời
gian sớm hơn nếu ngưòi bị kết án có lý do đáng được khoan hồng như đã lập công
( cần hiểu là lập công trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù), đã quá già
yếu, đang mắc bệnh hiểm nghèo.
12. Việc xét giảm
thời chấp hành hình phạt phải theo đúng thủ tục đã được quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tại Thông tư liên ngành số
04-89/TTLN ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Cần chấm
dứt việc đại diện các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát, Tư pháp, Nội chính đến trại
giam cùng nhau xét duyệt và quyết định việc giảm hoặc không giảm thời hạn chấp
hành hình phạt cho những người đang chấp hành hình phạt tù.
13. Chỉ theo đề
nghị của Viện kiểm sát, chứ không theo đề nghị của bất cứ cá nhân, tổ chức nào,
Toà án mới xem xét đẻ miễn hoặc không miễn chấp hành toàn bộ hình phạt cho người
chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo và nêú
người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Tuyệt đối không được miễn chấp
hành hình phạt tù cho ngưòi bị kết án không lập công lớn, ngưòi bị kết án không
mắc bệnh hiểm nghèo. Tuyệt đối không được cho miễn chấp hành hình phạt tù chỉ
vì lý do cơ quan hoặc tổ chức yêu cầu cho ngưòi bị kết án được miễn chấp hành
hình phạt để họ tiếp tục công tác hoặc vì lý do để cho ngưòi bị kết án ra nước
ngoài để định cư.
14. Đối với những
ngưòi bị kết án đã đước tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù vì những lý do khác
nhau đã được nêu tại các Điều 231, 232 Bộ luật Tố tụng hình sự
mà không lập công lớn hoặc không mắc bệnh hiểm nghèo thì không được miễn cho họ
chấp hành hình phạt tù còn lại vì các lý do như hoàn cảnh gia đình họ có khó
khăn, họ bị bênh khôg phải mắc bệnh hiểm nghèo... Đối với họ tuỳ trường hợp cụ
thể mà bắt phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù hoặc cho được tiếp tục tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù.
Trong khi chưa có
sửa đổi, bổ sung các quy định về thi hành án phạt tù và các tổ chức quản lý
công tác thi hành án phạt tù, yêu cầu các Toà án các cấp nghiêm chỉnh thực hiện
các hướng dấn trước đây của liên ngành, của Toà án nhân dân tối cao và các hướng
dẫn trong Công văn này.
Công văn về việc tạm giam và thi hành án phạt tù
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn về việc tạm giam và thi hành án phạt tù
12.900
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|