TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
39/KHXX
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 7 năm 1996
|
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 39/KHXXNGÀY 6 THÁNG 7 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN
THI HÀNH MỘT SỐQUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành
đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn
một số điểm như sau:
1.
Về các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có khiếu kiện thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án.
a) Theo quy định tại
khoản1 Điều 4 của Pháp lệnh, thì quyết định hành chính là
quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn
phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc
một số đối tượng cụ thể về một số vấn đề cụ thể (cần lưu ý là các quyết đinh của
Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện chức năng tố tụng của
cơ quan tiến hành tố tụng khi có khiếu nại sẽ được giải quyết theo quy định của
pháp luật tố tụng. Chỉ có các quyết định hành chính như quyết định về buộc thôi
việc cán bộ, nhân viên Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc quyết định
sử phạt vi phạm hành chính do vi phạm trật tự phiên toà, khi có khiếu kiện mới
được xem là vụ án hành chính và được giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính).
Để được coi là một
quyết định hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án, thì trước hết quyết định đó phải là của một trong các cơ quan này hoặc của
Thủ trưởng, cán bộ, viên chức của một trong các cơ quan này và phải được làm bằng
văn bản, trong đó ghi rõ đối tượng cụ thể được áp dụng quyết định hành chính và
nội dung cụ thể của quyết định hành chính. Cần lưu ý rằng các quyết định hành chính
của các cơ quan tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên Đoàn lao động... (tức là các cơ quan, tổ
chức không được liệt kê tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh)
cũng như các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các thành viên của
các cơ quan, tổ chức này nếu có khiếu kiện thì không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án.
b) Theo quy định tại
khoản 2 Điều 4 của Pháp lệnh, thì hành vi hành chính là hành
vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên chức Nhà nước. Để được
coi là một hành vi hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án, thì trước hết hành vi đó phải là của cán bộ, viên chức của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội,
cơ quan Nhà nước địa phuơng, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp
trong khi thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính có
thể là việc thực hiện hoặc có thể là việc không thực hiện công vụ theo quy định
của pháp luật và không được thể hiện bằng văn bản.
Ví dụ: Hành vi
hành chính là việc thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một người
theo quy định pháp luật được giao nhiệm vụ thi hành quyết định hành chính của
người có thẩm quyền về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình phụ của một gia đình
do có sự lấn chiếm đất của công, nhưng khi thi hành công vụ người đó không những
tháo dỡ công trình phụ mà còn có hành vi phá bỏ một phần của ngôi nhà.
Ví dụ: Hành vi
hành chính là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một
cơ quan hoặc một người theo quy định của luật pháp sau khi nhận đủ hồ sơ về việc
xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở, mặc dù hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu cần thiết
thế nhưng quá thời hạn do pháp luật quy định, cơ quan đó hoặc người đó vẫn
không cấp giấy phép xây dựng nhà ở cho người xin phép.
c) Cần chú ý là
không phải tất cả các quyết định hành chính của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh và cũng không phải tất cả các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan đó, nếu
có khiếu kiện đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, mà chỉ có các quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh nếu có khiếu
kiện mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ngoài ra khoản 8 Điều 11 còn quy định cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án "khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo
quy định của pháp luật". Điều này có nghĩa là hiện nay Toà án mới chỉ được
giao thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều
11 của Pháp lệnh còn các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính thuộc các lĩnh vực khác, thì chỉ khi đựơc Quốc hội hoặc Uỷ ban thường
vụ Quốc hội giao mới thuộc thẩm quyền giải quyết cuả Toà án. (Toà án nhân dân tối
cao sẽ có thông báo kịp thời đến các Toà án nhân dân về các khiếu kiện thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án mới được giao thêm này).
2.
Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
a) Điều
2 của Pháp lệnh quy định: "Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức phải khiếu
nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi
hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của
cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính
mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi
kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền". Do đó khi nhận được đơn
kiện, khởi kiện vụ án hành chính, Toà án cần phải xem xét kèm theo đơn kiện đã
có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định
hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đốí với quyết
định hành chính hay hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật
hay chưa? Nếu chưa có bản sao văn bản trả lời, thì Toà án trả lại đơn kiện cho
người khởi kiện và giải thích cho họ biết quy định tại Điều 2
và khoản 3 Điều 31 của Pháp lệnh.
Trong trường hợp
đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định
hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại và nếu thấy vụ
án thuộc thẩm quyền của mình (thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo loại
khiếu kiện hành chính), thì thông báo cho người khiếu kiện biết để họ nộp tiền
tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định
của Chính ohủ và tiến hành thụ lý vụ án theo đúng quy định tại khoản
2 Điều 32 của Pháp lệnh.
b) Theo quy định tại
Điều 5 và Điều 30 của Pháp lệnh, thì người khởi kiện phải
làm đơn kiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của
cơ quan hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc
giải quyết khiếu nại. Đơn kiện phải có các nội dung chính quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh. Trong trường hợp người khởi kiện
chưa làm đơn theo đúng quy định này, thì Toà án cần giải thích cho họ biết và
yêu cầu họ làm lại đơn kiện có các nội dung chính theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh.
Toà án cần kiểm
tra xem người khởi kiện, bên bị kiện cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đã cung cấp đây đủ các văn bản, tài liệu quy định tại Điều
5 của Pháp lệnh hay chưa. Nếu chưa, thì yêu cầu họ có nghĩa vụ cung cấp cho
Toà án.
c) Theo tinh thần
quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh thì trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan phải gửi cho Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện
và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết các vụ án; hết thời hạn
này mà không nhận được ý kiến bằng văn bản thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án
theo thủ tục chung. Điều đó có nghĩa là, hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo, bên bị kiện không cung cấp các tài liệu theo yêu cầu của
Toà án, thì Toà án áp dụng các quy định của Pháp lệnh để tiếp tục giải quyết vụ
án. Ví dụ như áp dụng quy định tại đoạn 4 Điều 5 của Pháp lệnh
để xác minh, thu thập chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết buộc bên bị kiện phải
cung cấp các tài liệu thì có thể áp dụng khoản 2 Điều 33 và khoản
2 Điều 34 của Pháp lệnh ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
buộc đương sự, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu cụ thể nào đó. Trong thời
hạn sáu mươi ngày (đối với vụ án phức tạp thì trong thời hạn không quá chín
mươi ngày), kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên
toà phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều
37 của Pháp lệnh; cụ thể là: đưa vụ án ra xét xử; tạm đình chỉ việc giải
quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án.
d) Trong trường hợp,
Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do "nguyên đơn rút đơn
kiện" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh
nếu sau đó họ khởi kiện lại, thì Toà án vẫn thụ lý, giải quyết theo thủ tục
chung, nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc cơ quan Nhà nước
đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu
nại đến ngày khởi kiện lại chưa quá ba mươi ngày.
3.
Về thẩm quyền của Toà án:
a) Điều
12 của Pháp lệnh quy định cụ thể thẩm quyền của Toà án các cấp, đồng thời
cũng quy định cụ thể những truờng hợp mà Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp
huyện và những trường hợp mà Toà án nhân dân tối cao có thể lấy lên để giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền
của Toà án cấp tỉnh. Do đó, cần lưu ý là:
- Đối với Toà án cấp
dưới, khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo thủ tục
sơ thẩm, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà Toà án cấp trên có thể lấy lên
để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung
thẩm) và xét thấy việc Toà án cấp trên giải quyết là cần thiết, thì chủ động
yêu cầu Toà án cấp trên lấy lên để giải quyết.
- Đối với Toà án cấp
trên khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
của Toà án cấp dưới, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà mình có thể lấy
lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời
chung thẩm) và tự xét thấy việc lấy lên để giải quyết là cần thiết hoặc khi có
yêu cầu của Toà án cấp dưới, thì mới lấy lên để giải quyết.
Cần chú ý là Toà
án cấp trên chỉ có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nếu
vụ án đó thuộc một trong các trường hợp đã được quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh.
b) Khi xem xét thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện hành chính, cần chú ý các quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh về phân biệt thẩm quyền giữa Toà án và cấp
trên trực tiếp mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Trước hết cần xem xét quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó liên
quan đến một người hay liên quan đến một số ngườì mà giải quyết như sau:
- Nếu quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính chỉ có liên quan đến một người, thì theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh việc giải quyết
vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án mặc dù người khởi kiện vừa khởi kiện
vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại lên cấp trên trực tiếp
của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành
chính. Trong trường hợp này Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục
chung, đồng thời thông báo cho cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người
đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính biết và yêu cầu chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có).
- Nếu quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính có liên quan nhiều người, căn cứ vào quy dịnh
tại điểm b khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh, thì trong mọi trường
hợp sau khi nhận được đơn kiện, Toà án cần có văn bản gửi cấp trên trực tiếp của
cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính
mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, yêu cầu
cho Toà án biết bằng văn bản có người nào trong số những người có liên quan khiếu
nại lên cấp trên trực tiếp đó hay không. Trong tường hợp nhận được văn bản trả
lời cho biết có người khiếu nại, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện
hoặc chuyển đơn kiện cùng các tài liệu kèm theo đơn kiện mà Toà án nhận được
cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thông báo cho người khởi kiện
biết. Trong trường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết không có người nào
khiếu nại, thì Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung. Nếu sau
khi thụ lý vụ án mới phát hiện có người khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ
quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà
theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, thì Toà án
áp dụng điểm b khoản 1 Điều 13; điểm e khoản 1 Điều 41 của Pháp
lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án và chuyển hồ sơ vụ án cho
cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ngay sau khi phát hiện việc giải quyết
vụ án không thuộc thẩn quyền của mình.
4.
Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Khi xem xét áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạn thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành
chính bị khiếu kiện" quy định tại khoản 1 Điều 34 của Pháp
lệnh, cần thi hành đúng quy định tại các khoản 2 và 3 Điều
33 của Pháp lệnh: "nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp
nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời", cụ thể là:
a) Cần xem xét việc
ra quyết định hành chính căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật nào. Nếu văn bản
quy phạm pháp luật là Bộ luật, Luật trong đó có quy định quyết định hành chính
đó vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện, thì trong trường
hợp này không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "tạm đình chỉ việc
thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện". Ngược lại, nếu văn bản quy
phạm pháp luật là Bộ luật, Luật trong đó không quy định: "quyết định hành
chính vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện" hoặc quy
định "quyết định hành chính chưa có hiệu lực thi hành, nếu có khiếu nại,
khiếu kiện", thì Toà án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Tạm
đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện". Riêng đối với
quyết định hành chính căn cứ vào Pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật dưới
Pháp lệnh, mặc dù trong Pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật dưới Pháp lệnh
có quy định vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện, thì nếu
xét thấy cần thiết , Toà án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Tạm
đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện".
b) Khoản
1 Điều 33 của Pháp lệnh quy định đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩm cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của
đương sự, bảo đảm việc thi hành án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
yêu cầu của mình, nếu có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy
nhiên, không phải trong mọi trường hợp khi có đơn yêu cầu của đương sự là Toà
án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, mà phải căn cứ vào khoản 3 Điều 33 của Pháp lệnh, tức là phải trong truờng hợp có
đủ căn cứ phápluật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án mới ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
c) Đối với yêu cầu
của Viện kiểm sát thì khoản 2 Điều 33 quy định: "...
Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện kiểm sát có thể ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu trách nhiệm về quyết định
đó. Nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại,
thì phải bồi thường". Theo tinh thần của quy định này, thì Toà án phải chịu
trách nhiệm về quyết định của mình; do đó, khi có yêu cầu của Viện kiểm sát,
Toà án cần phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện và có quyền chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo yêu cầu của mình. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận, Viện kiểm
sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính đó.
Chánh án Toà án phải xem xét và trả lời trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
được kiến nghị của Viện kiểm sát.
5.
Về sự tham gia phiên toà của đương sự và Viện kiểm sát.
a) Theo tinh thần
quy định tại khoản 1 Điều 43 của Pháp lệnh thì đối với
phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của các đương sự, nhưng trong
trường hợp người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt,
thì Toà án vẫn có thể tiến hành xét xử, không cần phải biết lý do vắng mặt của
bên bị kiện có chính đáng hay không chính đáng.
Đối với vụ án mà nội
dung đã rõ ràng, có đủ chững cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu tham
gia phiên toà, thì Tòa án tiến hành phiên toà sơ thẩm không cần sự có mặt của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
Đối với vụ án thuộc
trường hợp này cũng như vụ án khi xét xử sơ thẩm mặc dù có sự tham gia của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác, nhưng do có kháng cáo, kháng nghị,
khi xét xử phúc thẩm họ không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Toà án tiến
hành phiên toà phúc thẩm không cần có sự có mặt của người tham gia tố tụng.
b) Theo quy định tại
khoản 3 Điều 43, Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ
thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án và trong trường hợp có đương
sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hay
đối với các vụ án về khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính: giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ
sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Trong trường hợp
không tham gia phiên toà sơ thẩm được thì phải có ý kiến bằng văn bản. Do đó,
khi có vụ án thuộc một trong các trường hợp này nếu vắng mặt Kiểm sát viên mà
cũng chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát, thì Toà án cấp sơ thẩm phải
hoãn phiên toà.
6.
Về căn cứ pháp luật để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng
hay sai.
Khi giải quyết vụ
án hành chính, căn cứ để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng
hay sai là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định về
lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm ra quyết định hành chính
hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện.
Ví dụ: Nghị định của
Chính phủ quy định về thu thuế đối với một loại hoạt động nào đó với mức tối đa
là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cũng
chỉ hướng dẫn cụ thể hơn và cũng hướng dẫn mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi
nhuận thu được. Uỷ ban nhân dân tỉnh X căn cứ vào địa phương mình cho rằng phải
thu cao hơn nên ra văn bản hướng dẫn việc thu thuế đối với loại hoạt động này ở
địa phương mình với mức tối đa là 8% tổng giá trị lợi nhuận. Khi thu thuế, cán
bộ có thẩm quyền chỉ căn cứ vào văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh nên ra quyết định
thu thuế 7% tổng giá trị lợi nhuận. Quyết định về thu thuế này bị khiếu kiện.
Trong trường hợp này Nghị định của Chính phủ có giá trị pháp lý cao nhất và căn
cứ vào nghị định của Chính phủ, thì quyết định về thu thuế của cán bộ có thẩm
quyền là không đúng; do đó, khi xét xử Toà án quyết định huỷ bỏ quyết định về
thu thuế nói trên và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định thu thuế phải sửa lại quyết
định của mình cho đúng pháp luật.
Cần lưu ý là trong
các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với văn bản quy phạm
pháp luật của cấp trên (như trong ví dụ trên), thì đồng thời việc ra quyết định
huỷ bỏ quyết định hành chính hay kết luận hành vi hành chính là trái pháp luật,
Toà án cần kiến nghị với cơ quan đã ra văn bản quy phạm pháp luật trái với văn
bản quy phạm pháp luật của cấp trên để cơ quan đó tự huỷ bỏ. Nếu trong một thời
gian nhất định mà vẫn chưa huỷ bỏ, thì yêu cầu Viện kiểm sát áp dụng các quy định
tại Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị văn bản nói trên.
Tuy nhiên, để việc
ra quyết định được đúng đắn, Toà án phải xác minh tại thời điểm ra quyết định
hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện thì gồm có bao nhiêu văn bản
quy phạm pháp luật của những cơ quan nào quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực
thi hành để xác định văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.
7.
Về hiệu lực thi hành của Pháp lệnh
a) Theo quy định tại
điều 73 của Pháp lệnh, thì trong trường hợp Điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia không có quy định
khác, thì các quy định này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành
chính, có đương sự là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; cụ thể là không phân biệt
người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan Nhà
nước, tổ chức của Việt Nam hay là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, việc phân biệt
thẩm quyền của Toà án được thực hiện theo quy định tại Điều 12,
Điều 13 của Pháp lệnh và việc giải quyết vụ án hành chính vẫn theo thủ tục
chung.
b) Đối với các quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính trước ngày 1-7-1996 nay có khiếu kiện,
nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết
định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại cho đến
ngày khởi kiện chưa quá ba mươi ngày, thì Toà án vẫn thụ lý giải quyết theo quy
định của Pháp lệnh. Ví dụ một người bị sử phạt vi phạm hành chính ngày 1-6-1996
và không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó, nên đã khiếu nại
với người đã ra quyết định xử phạt. Ngày 20-6-1996 họ nhận được văn bản trả lời
của người đã ra quyết định xử phạt và họ vẫn không đồng ý với việc giải quyết
khiếu nại, nên ngày 9-7-1996 họ khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, thì trong trường hợp này Toà án thụ lý giải quyết theo theo thủ tục
chung, bởi vì kể từ ngày nhận được văn bản trả lời đến ngày khởi kiện mới 20
ngày.
Trong trường hợp
quá ba mươi ngày thì Toà án trả lại đơn kiện và giải thích cho họ biết họ có
quyền khiếu nại theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân. Ví
dụ một người bị xử phạt vi phạm hành chính ngày1-5-1996 và không đồng ý với quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đó, nên đã khiếu nại với người ra quyết định xử
phạt. Ngày 1-6-1996 họ nhận được văn bản trả lời của người ra quyết định xử phạt
và họ vẫn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại nên ngày 5-7-1996 họ khởi
kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì trong trường hợp này Toà án
trả lại đơn kiện, bởi vì kể từ ngày nhận được văn bản trả lời đến ngày khởi kiện
đã quá 30 ngày. Đồng thời Toà án giải thích cho họ biết quyền khiếu nại theo
quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân.
c) Đối với các khiếu
kiện về buộc thôi việc cán bộ, viên chức Nhà nước trước ngày 1-7-1996 theo quy
định của pháp luật được coi là vụ án lao động và được giải quyết theo Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, nếu đã được Toà án thụ lý giải quyết theo
quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì Toà án tiếp tục
giải quyết theo quy định của Pháp lệnh này, không đặt vấn đề chuyển sang giải
quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Đối với các vụ án
loại này đã được giải quyết xong và đúng với các quy định của pháp luật trước
ngày 1-7-1996, thì không đặt vấn đề căn cứ theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm. Trong trường hợp trái với các quy định của Pháp luật trước ngày
1-7-1996 cho nên bị kháng nghị, xét xử theo thủ tục giám đốc thảm hoặc tái thẩm
và bị huỷ để giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm, thì vụ án được giải quyết
theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Trong quá trình thực
hiện, nếu có gì vướng mắc, các Toà án nhân dân các cấp báo về Toà án nhân dân tối
cao, để có hướng dẫn bổ sung kịp thời.