TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
101/NCPL
|
Hà
Nội, ngày 07 tháng 5 năm 1990
|
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 101/NCPL NGÀY 7
THÁNG 5 NĂM 1990 VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Một số Toà án đã hỏi
Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Khoản 3 Điều 31 Pháp lệnh quy
định là “Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải, các đương
sự có thể thoả thuận với nhau về việc chịu án phí. Nếu họ không thoả thuận được
thì Toà án quyết định mức án phí và người phải chịu án phí”, nhưng khoản 4 Điều
này lại quy định là “nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại
các khoản 1, 2, 3, Điều 46 Pháp lệnh này thì số tiền tạm ứng án phí được sung vào quỹ Nhà nước".
Vậy quyết định án phí trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải
thành được thì giải quyết như thế nào?
Án phí là vấn đề
khá phức tạp nên sẽ được quy định cụ thể ở một văn bản riêng như Điều
30 Pháp lệnh đã quy định là "Hội đồng Bộ trưởng phối hợp với Toà án
nhân dân tối cao quy định chế độ án phí". Trong Pháp lệnh chỉ mới quy định
một số nguyên tắc về án phí. Thí dụ: khoản 4 Điều 31 chỉ nêu
nguyên tắc là "nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ thì số tiền tạm ứng
án phí được sung vào quỹ Nhà nước", nhưng chưa xác định rõ về mặt định lượng
là sung một phần hay toàn bộ số tiền tạm ứng án phí, và cũng chưa giải quyết
trường hợp nếu đương sự chưa nộp một phần hoặc toàn bộ số tiền tạm ứng án phí
theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Pháp lệnh thì giải quyết
vấn đề án phí như thế nào nếu họ không được miễn án phí... Vì vậy, việc áp dụng
các quy định của Pháp lệnh cần được đặt trong mối liên hệ với các quy định và
hướng dẫn có liên quan. Hiện nay, trong khi chưa có những quy định mới về chế độ
án phí thì các Toà án vẫn thực hiện theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao
về cách tính án phí tại Thông tư số 85/TATC ngày 6-8-1982 và về mức thu án phí
đã được sửa đổi tại Thông tư số 02/NCPL ngày 28-2-1989.
2.
Trong trường hợp người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc
dù đã được Toà án thông báo hợp lệ việc phải nộp số tiền đó thì Toà án cấp sơ
thẩm có phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm không? Nếu đương sự nộp đơn
kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì
giải quyết như thế nào?
Để thực hiện các
quy định tại các Điều 31, 59, 66 của Pháp lệnh, các Toà án
cần chú ý là:
Nếu người kháng
cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án cấp sơ thẩm
thông báo hợp lệ số tiền phải nộp, thời hạn nộp và hậu quả của việc không nộp,
thì coi như đương sự không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải chuyển hồ
sơ lên Toà án cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc thông báo
đó.
Nếu đương sự kháng
cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì Toà án
cấp sơ thẩm cần điều tra đầy đủ lý do của việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
quá hạn và gửi báo cáo kèm theo hồ sơ vụ án lên Toà án cấp phúc thẩm để Toà án
cấp phúc thẩm xét việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn.
3.
Khi quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời bị khiếu nại hay kiến nghị theo
quy định tại khoản 3 Điều 42 Pháp lệnh
thì Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và
trả lời bằng hình thức ra quyết định hay công văn trả lời?
Qua xem xét nếu thấy
cần thiết phải sửa đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được thẩm phán
quyết định thì Chánh án Toà án ra quyết định; còn nếu thấy biện pháp khẩn cấp tạm
thời đã được thẩm phán quyết định là đúng, thì Chánh án Toà án chỉ cần có công
văn trả lời. Quyết định hoặc công văn trả lời của Chánh án Toà án giải quyết việc
khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được
gửi cho các đương sự có liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.
4.
Thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn như thế nào?
Thủ tục hoà giải
quy định tại Điều 44 Pháp lệnh được áp dụng cho cả trường hợp
giải quyết việc thuận tình ly hôn. Cụ thể là: theo quy định tại Điều
40 Luật Hôn nhân và gia đình thì hoà giải là một thủ tục bắt buộc khi cả
hai vợ chồng có đơn xin thuận tình ly hôn. Do đó, nếu Toà án đã hoà giải đoàn tụ
nhưng hai bên đương sự vẫn kiên quyết xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải
đoàn tụ không thành, sau đó lập biên bản thoả thuận của các đương sự về việc
thuận tình ly hôn và gửi ngay bản sao biên bản này cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Nếu trong thời gian 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản thoả thuận của các đương sự
về việc thuận tình ly hôn mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc Viện kiểm sát phản
đối việc thuận tình ly hôn đó, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử; nếu trong thời hạn
đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Toà án ra quyết định công nhận
sự thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn và quyết định này có
hiệu lực pháp luật.
5. Điều 45 Pháp lệnh quy định
là: “Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án...” vậy ai là người
có thẩm quyền ra quyết định đó và nếu quyết định đó bị khiếu nại thì giải quyết
như thế nào?
Điều
45 Pháp lệnh đã quy định cụ thể các trường hợp Toà án
ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, do đó, thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án
trước khi mở phiên toà; còn tại phiên toà thì hội đồng xét xử ra quyết định đó.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Pháp lệnh thì quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm sẽ xét kháng cáo, kháng nghị, quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm theo thủ tục quy định tại
các Điều 66, 70 Pháp lệnh. Còn quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết vụ án của Toà án cấp phúc thẩm cũng như các quyết định khác của Toà
án cấp phúc thẩm đều là chung thẩm có hiệu lực thi hành; nếu có khiếu nại hoặc
kháng nghị sẽ được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm.
Khi giải quyết việc
kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án cần
lưu ý như sau: vì việc tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không phải là việc chấm
dứt việc giải quyết vụ án và sau khi có quyết định tạm đình chỉ nếu thấy lý do
của việc tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án lại tiếp tục tiến hành giải quyết
vụ án, cho nên ngay sau khi nhận được kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định
tạm đình chỉ, Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ cần kiểm tra lại việc tạm
đình chỉ của mình để: nếu cho rằng việc tạm đình chỉ là đúng thì chuyển ngay hồ
sơ vụ án lên Toà án cấp trên để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; còn nếu thấy
việc tạm đình chỉ là không đúng hoặc lý do của việc tạm đình chỉ đã hết, thì cần
tiến hành ngay việc tiếp tục giải quyết vụ án và báo cho người đã kháng cáo,
cho Viện kiểm sát đã kháng nghị biết để rút kháng cáo, kháng nghị nhằm khỏi phải
giải quyết việc xem xét kháng cáo, kháng nghị ở Toà án cấp trên theo thủ tục
phúc thẩm một cách không cần thiết.
6.
Đối với các quyết định công nhận việc hoà giải thành trước khi Pháp lệnh có hiệu
lực thi hành mà có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm có áp dụng thủ
tục mới quy định tại các Điều 66, 70 của
Pháp lệnh để giải quyết hay không?
Đối với các quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, công nhận việc thuận tình ly hôn
trước khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi hành nếu
có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm không áp dụng thủ tục không mở
phiên tòa theo quy định tại các Điều 66, 70 Pháp lệnh, mà vẫn
phải mở phiên toà xét xử theo thủ tục đã được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn
trước khi có Pháp lệnh này.
7.
Một số Toà án đề nghị giải thích rõ việc thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi theo quy định tại các điểm
b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự.
Theo các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thì thẩm phán phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu "đã có lần điều tra, hoà giải, xét
xử vụ án, trừ các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm", nếu "đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người
giám định, người phiên dịch trong vụ án".
Nên hiểu tinh thần
của các quy định trên đây như sau:
- Thẩm phán đã ra
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự thì không được tham gia xét
xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã
tham gia xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ
án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã
tham gia xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm thì không được tham gia xét xử lại
vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Thẩm phán đã
tham gia xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì không được tham
gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; không được tham gia
xét xử vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở một cấp xét xử khác.
(Thí dụ: đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì
không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia
xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ
ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân
dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không
được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh), trừ trường hợp
các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vẫn tham gia xét xử ở Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Pháp lệnh có quy định
là các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm, nhưng không quy định việc các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân
dân cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Điều này có nghĩa là: nếu Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh huỷ
bỏ bản án sơ thẩm của Toà án cấp huyện và giao vụ án cho Toà án cấp huyện xét xử
lại, mà việc xét xử sơ thẩm này lại sai lầm nghiêm trọng thì bản án có sai lầm
này (nếu không được sửa chữa theo thủ tục phúc thẩm) sẽ không được sửa chữa
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh không
có quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cùng một vụ án đó một lần
nữa, còn Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì cũng không có thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp huyện vì theo quy định của khoản 2 Điều 74 và của Điều 81 Pháp lệnh thì Toà dân sự Toà án
nhân dân tối cao chỉ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của
Toà án cấp tỉnh. Để tránh tình trạng này, có thể là khi huỷ bán án, quyết định
của Toà án cấp huyện theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án cấp tỉnh nên
giữ vụ án lại ở Toà án cấp tỉnh để xét xử theo thủ tục sơ thẩm;
- Thẩm phán đã tiến
hành điều tra, hoà giải ở cấp Toà án này không được tham gia xét xử vụ án đó ở
cấp Toà án khác. Tuy nhiên, thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở một cấp
Toà án vẫn có quyền tham gia xét xử vụ án đó ở cùng cấp Toà án, bởi lẽ thẩm
phán xét xử vụ án ở một Toà án thông thường chính là người đã tiến hành điều
tra, hoà giải trước khi xét xử vụ án đó.
- Thư ký Toà án đã
tham gia tiến hành tố tụng ở một cấp Toà án không được tham gia tố tụng với tư
cách là thẩm phán ở cấp xét xử khác. Tuy nhiên, thư ký Toà án sau khi được bầu
làm thẩm phán vẫn có thể tham gia xét xử vụ án ở cùng cấp Toà án mặc dù trước
đó đã tham gia tố tụng với tư cách là thư ký Toà án trong giai đoạn điều tra,
hoà giải;
- Người đã tham
gia tố tụng với tư cách là kiểm soát viên, giám định viên, người phiên dịch
trong vụ án, thì trong mọi trường hợp không được tham gia tố tụng đối với cùng
một vụ án với tư cách là thẩm phán ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào và ở bất cứ cấp
Toà án nào.