BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
104-TC/NSNN
|
Hà
Nội, ngày 11 tháng 11 năm 1993
|
CÔNG VĂN
SỐ 104-TC/NSNN NGÀY 11-11-1993 CỦA BỘ TÀI
CHÍNH VỀ VIỆC KHOÁ SỔ CUỐI NĂM VÀ LẬP QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1993
Kính
gửi:
|
- Các Bộ, Tổng cục, các Uỷ ban
Nhà nước và các cơ quan khác thuộc Chính phủ (Vụ tài chính kế toán),
- Các cơ quan Đảng, đoàn thể ở Trung ương,
- Sở Tài chính - Vật giá và Chi cục Kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.
|
Công tác khoá sổ
thu chi ngân sách và quyết toán Ngân sách Nhà nước hàng năm về cơ bản vẫn thực
hiện theo đúng các quy định tại Thông tư số 57 TC/NSNN ngày 26-11-1990 và các
công văn hướng dẫn số 92 TC/NSNN ngày 23-10-1991, công văn số 118 TC/NSNN ngày
23-11-1992 của Bộ Tài chính.
Năm 1993 do có một
số thay đổi trong công tác quản lý tài chính và quản lý Ngân sách Nhà nước; Bộ
Tài chính đã ban hành các Thông tư số 10 TC/NSNN ngày 12-2-1993 và Thông tư số
56 TC/NSNN ngày 8-7-1993 về việc sửa đổi, bổ sung mục lục Ngân sách Nhà nước hiện
hành để hướng dẫn hạch toán, kế toán và quyết toán các khoản thu, chi Ngân sách
Nhà nước.
Để làm tốt công
tác khoá sổ cuối năm và lập tổng quyết toán thu chi Ngân sách Nhà nước năm
1993; Bộ Tài chính hướng dẫn thêm một số điểm chủ yếu sau đây:
A. CÔNG TÁC KHOẢ
SỔ THU, CHI NGÂN SÁCH CUỐI NĂM 1993
I- ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN
VỊ DỰ TOÁN CẦN LÀM TỐT CÁC VIỆC SAU ĐÂY:
1. Phải đối chiếu
số dư tài khoản HMKF và tài khoản tiền gửi của đơn vị dự toán tại Kho bạc Nhà
nước, đảm bảo khớp đúng trước ngày 25-12-1993.
2. Nộp hết các khoản
phải nộp vào Ngân sách Nhà nước: thu sự nghiệp, thu phí và lệ phí, thu khác...
vào Ngân sách Nhà nước.
3. Thanh toán dứt
điểm các khoản đi vay, cho vay, các khoản phải thu, phải trả.
4. Số tiền còn lại
trên tài khoản tiền gửi của đơn vị đến cuối ngày 31-12 không thuộc nguồn vốn cấp
phát của Ngân sách Nhà nước: tiền các đơn vị khác gửi đến để ký kết hợp đồng,
tiền tự thu được phép để lại để chi tiêu không phải nộp Ngân sách Nhà nước...,
đơn vị phải lập bảng kê chi tiết có xác nhận của Kho bạc Nhà nước nơi lưu ký
tài khoản, kèm theo Công văn gửi cơ quan tài chính đồng cấp xét duyệt cho chuyển
số dư sang năm sau sử dụng tiếp.
5. Đến cuối ngày
31-12 đơn vị nào không làm theo đúng hướng dẫn trên thì Kho bạc Nhà nước tự động
trích số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị nộp vào Ngân sách Nhà nước (đơn vị dự
toán thuộc cấp nào thì chuyển nộp vào ngân sách cấp đó). Cơ quan tài chính
không xét thoái trả số tiền đã cắt nộp Ngân sách Nhà nước do đơn vị làm không
đúng quy định, không kịp thời gian...
II- ĐỐI VỚI CƠ
QUAN TÀI CHÍNH VÀ KHO BẠC NHÀ NƯỚC CÁC CẤP CẦN LÀM TỐT CÁC VIỆC SAU ĐÂY:
Sau ngày 31-12 Kho
bạc Nhà nước phải làm các thủ tục sau:
1. Chi nhánh Kho bạc
Nhà nước lập bảng kê chi tiết các đơn vị dự toán cấp huyện quản lý có số dư tài
khoản tiền gửi đã cắt nộp ngân sách huyện chuyển cho phòng Tài chính huyện; đồng
thời lập bảng kê chi tiết các đơn vị dự toán thuộc cấp tỉnh và cấp Trung ương
quản lý có số dư tài khoản tiền gửi đã cắt nộp ngân sách Trung ương và ngân
sách tỉnh chuyển về Chi cục Kho bạc Nhà nước. Thời gian gửi chậm nhất là ngày
5-1 năm sau.
2- Chi cục Kho bạc
Nhà nước lập bảng kê chi tiết các đơn vị dự toán cấp tỉnh quản lý (bao gồm các
đơn vị có tài khoản tiền gửi mở tại Chi cục Kho bạc Nhà nước và các đơn vị do
Chi nhánh Kho bạc Nhà nước gửi về) có số dư tài khoản tiền gửi đã cắt nộp ngân
sách tỉnh chuyển cho Sở Tài chính Vật giá tỉnh, thành phố; đồng thời lập bảng
kê chi tiết các đơn vị dự toán Trung ương có số dư tài khoản cắt nộp ngân sách
trung ương chuyển về Cục Kho bạc Nhà nước. Thời gian gửi chậm nhất là ngày 15-1
năm sau.
3. Cục Kho bạc Nhà
nước lập bảng kê chi tiết các đơn vị dự toán trung ương có số dư tài khoản tiền
gửi đã cắt nộp ngân sách trung ương (bao gồm các đơn vị dự toán trung ương có
tài khoản tiền gửi tại Cục Kho bạc Nhà nước và các đơn vị dự toán trung ương có
tài khoản tiền gửi do các cục gửi về) chuyển cho vụ ngân sách Bộ Tài chính. Thời
gian gửi chậm nhất là 30-1 năm sau.
4. Số liệu phát
sinh thu chi ngân sách Nhà nước và ngân sách các cấp, cơ quan tài chính kết hợp
với Kho bạc Nhà nước đồng cấp đối chiếu khớp đúng theo chương - loại - khoản -
hạng - mục của mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành; nếu có trường hợp sai sót
thì cơ quan tài chính chủ động bàn với Kho bạc Nhà nước để điều chỉnh cho đúng.
5. Kiểm tra xem
xét lại việc thực hiện tỉ lệ điều tiết của các khoản thu ngân sách Nhà nước cho
các cấp ngân sách theo đúng tinh thần quyết định 168/HĐBT ngày 16-5-1992 và quyết
định số 8-TC/NSNN ngày 5-3-1993 của Bộ Tài chính [riêng thành phố Hà Nội thực
hiện theo đúng quyết định 309 TC/NSNN ngày 25-5-1993 (đối với 6 tháng đầu năm
1993); còn 6 tháng cuối năm 1993 vẫn thực hiện như quyết định 168/HĐB T và quyết
định số 8 TC/NSNN]. Quá trình kiểm tra thấy việc phân chia tỉ lệ điều tiết chưa
đúng với tinh thần của các quyết định nói trên hoặc phân chia sai do hạch toán
nhầm mục thu của mục lục Ngân sách Nhà nước thì cơ quan tài chính và Kho bạc
Nhà nước đồng cấp làm các thủ tục để điều chỉnh lại cho đúng số thu của các cấp
ngân sách được hưởng. Nghiêm cấm các địa phương tự động giữ lại nguồn thu của
ngân sách trung ương để chi tiêu, địa phương nào cố tình vi phạm thì Chi cục
Kho bạc Nhà nước trích tồn quỹ của Ngân sách địa phương cuối ngày 31-12 chuyển
nộp ngân sách trung ương và báo để Sở Tài chính Vật giá biết. Trường hợp không
thực hiện được cần có văn bản báo cáo Bộ Tài chính để Bộ có hướng xử lý kịp thời
trước khi trình quyết toán thu Ngân sách Nhà nước - chi ngân sách địa phương ra
Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt.
III- CÁC KHOẢN
KINH PHÍ SAU ĐÂY ĐẾN CUỐI NGÀY 31-12-1993 ĐƯỢC CHUYỂN SANG NĂM 1994 ĐỂ CHI TIÊU
TIẾP
1. Số dư tài khoản
hạn mức kinh phí và số dư tài khoản tiền gửi của các đơn vị quốc phòng, an
ninh.
2. Hạn mức kinh
phí về lương và có tính chất lương cấp cho năm 1993 nếu do khó khăn về tiền mặt
mà chưa chi kịp trước ngày 31-12-1993 được chuyển vào tài khoản riêng (theo quy
định của Kho bạc Nhà nước) để chi tiêu tiếp.
3. Hạn mức kinh
phí cấp trước cho năm 1994.
4. Kinh phí uỷ quyền
của ngân sách trung ương chuyển về địa phương để chi hộ cho các chương trình, mục
tiêu của trung ương đến cuối ngày 31-12-1993 chi chưa hết được chuyển sang năm
1994 chi tiếp (riêng kinh phí uỷ quyền của ngân sách trung ương chuyển về để
chi cho công tác bảo hiểm xã hội đến cuối ngày 31-12-1993 còn dư đều phải cắt
chuyển toàn bộ nộp về ngân sách trung ương. Trừ trường hợp đặc biệt, nếu do khó
khăn về tiền mặt mà chưa chi kịp, thì Sở Tài chính bàn với Kho bạc Nhà nước cho
phép giữ lại để chi tiêu tiếp và có văn bản báo cáo chi tiết các khoản chưa chi
kịp cho phép giữ lại chuyển sang năm 1994 để chi tiếp về Bộ Tài chính).
B. CÔNG TÁC LẬP
QUYẾT TOÁN NĂM 1993
Trước khi lập tổng
quyết toán thu chi ngân sách Nhà nước năm 1993, các bộ, các cơ quan ngang Bộ, Sở
Tài chính - Vật giá và Chi cục Kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố có trách
nhiệm hướng dẫn các đơn vị trực thuộc làm tốt các việc sau đây:
1. Năm 1993 có bổ
sung và sửa đổi một số mục của mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành. Để việc
chuyển mục cũ sang mục mới được thống nhất, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể thêm
như sau:
- Chuyển số phát
sinh chi từ 1-1-1993 của tổng mục (59 + 64 + 76 + 78 + 82 + 83 + 84) cũ cho đến
thời điểm thực hiện chế độ lương mới, sang hạch toán và quyết toán Mục 64 mới
"Lương chính".
- Chuyển số phát
sinh chi từ 1-1-1993 của tổng mục (65 + 77) cũ cho đến thời điểm thi hành chế độ
lương mới sang hạch toán và quyết toán Mục 65 "Phụ cấp lương".
- Chuyển số chi
phát sinh từ 1-1-1993 của tổng mục 79 cũ và 2% quỹ lương do ngân sách cấp cho
các đơn vị dự toán để chi đóng quỹ bảo hiểm y tế chuyển sang hạch toán và quyết
toán Mục 68 cũ "Bảo hiểm xã hội".
- Chuyển toàn bộ số
chi từ 1-1-1993 của các đối tượng chính sách xã hội trước đây hạch toán ở mục
68 cũ "Bảo hiểm xã hội" sang hạch toán và quyết toán mục 70 mới
"Lương hưu và trợ cấp các đối tượng chính sách xã hội" (kể cả các khoản
trợ cấp 125%, tiền thuê nhà ở, tiền bảo hiểm y tế, tiền học phí, tiền tàu xe đi
nghỉ phép...) cũng được chuyển sang hạch toán và quyết toán Mục 70 mới.
- Tổng mục 70 cũ
"phúc lợi tập thể" phát sinh từ 1-1-1993 cho đến thời điểm thi hành
chế độ lương mới được phân tích chi tiết ra từng khoản chi và chuyển vào hạch
toán và quyết toán theo các mục mới tương ướng sau đây:
+ Tiền tàu xe đi
phép, tiền đền bù vé xe tháng, tiền trợ cấp 125% quỹ lương, tiền nhà điện nước
của CBCNVC đang làm việc chuyển sang hạch toán, quyết toán mục 64 mới
"lương chính".
+ Tiền tàu xe đi
phép của đối tượng quy định tại quyết định số 4306-KTTH ngày 28-8-1993 của Văn
phòng Chính phủ và các khoản chi còn lại ở mục 70 cũ: tiền ăn giữa ca, tiền trang
phục, trợ cấp khó khăn, trợ cấp đặc biệt cho ngành giáo dục, chi phúc lợi tập
thể (nếu có)... chuyển sang hạch toán và quyết toán Mục 97 cũ "chi
khác".
2. Các khoản kinh
phí uỷ quyền của ngân sách trung ương chuyển về địa phương chi hộ; các Bộ, các
ngành, các đơn vị và Sở tài chính vật giá các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương phải mở sổ sách chi tiết để theo dõi, hạch toán và quyết toán theo đúng những
nội dung quy định tại thông tư số 80-TC/NSNN ngày 24-9-1993 của Bộ Tài chính.
3. Các khoản chi bằng
ngoại tệ của ngân sách cấp phát cho các đơn vị hành chính sự nghiệp cheo tinh
thần công văn 770-TC/TCĐN ngày 4-5-1992 của Bộ Tài chính. Năm 1993 các Bộ, các
ngành và các đơn vị phải mở sổ sách để theo dõi và quản lý cuối năm phải lập báo
cáo quyết toán (quy tiền Việt Nam) theo đúng tinh thần hướng dẫn tại công văn số
275-TC/TCĐN ngày 22-9-1993 của Bộ Tài chính.
4. Đối với các khoản
chi Ngân sách địa phương hỗ trợ cho các ngành dọc của trung ương đóng trên địa
bàn địa phương được hạch toán và quyết toán vào chi Ngân sách địa phương như
sau:
+ Các khoản chi hỗ
trợ cho các cơ quan quản lý Nhà nước: Toà án, Viện Kiểm sát, hệ thống Kho bạc
Nhà nước, hệ thống thuế... hạch toán và quyết toán vào Chương 99B - Loại 15 -
Khoản 00 - Hạng 1 - Mục 97.
+ Các khoản chi hỗ
trợ cho các tổ chức Đảng, đoàn thể của trung ương thì hạch toán và quyết toán
vào Chương 99B - Loại 16 - Mục 97.
+ Các khoản chi hỗ
trợ cho các cơ quan của Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ đóng trên địa bàn địa phương
được hạch toán và quyết toán vào Chương 99B - Loại 30 - Khoản 00 - Hạng 1 (Quốc
phòng) hoặc Hạng 2 (An ninh) - Mục 97.
5. Thuế của các
nhà thầu phụ nộp vào ngân sách Nhà nước vẫn được hạch toán và quyết toán vào
các Mục thu tương ứng của Mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành, theo đúng tinh
thần đã hướng dẫn tại Thông tư số 07-TC/TCT ngày 30-3-1992 (không có mục thu
"thuế nhà thầu phụ").
6. Về mẫu biểu và
thời gian nộp báo cáo quyết toán.
Vẫn thi hành như
các quy định tại các Thông tư và các công văn hướng dẫn hiện hành của Bộ Tài chính.
Năm 1993 Bộ Tài chính yêu cầu các Bộ, các ngành và các đơn vị dự toán, các Sở
Tài chính và hệ thống Kho bạc Nhà nước gửi thêm các báo cáo sau đây:
a) Đối với đơn vị
hành chính sự nghiệp:
- Báo cáo quyết
toán chi của các chương trình, mục tiêu do ngân sách trung ương cấp phát theo
chương - loại - khoản - hạng - mục của Mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành
(bao gồm vốn cấp thẳng cho các Bộ, các ngành trung ương và vốn chuyển về địa
phương uỷ quyền cho các Sở Tài chính vật giá chi hộ).
- Báo cáo quyết toán
chi ngoại tệ (quy tiền Việt Nam).
- Bảng thuyết minh
số thu, chi của đơn vị; tăng, giảm so với kế hoạch, lý do ?
- Bảng giải trình
chi tiết số kinh phí thừa chuyển qua năm sau: bằng tiền, bằng hiện vật (quy tiền);
ý kiến đề nghị của đơn vị bằng văn bản:
+ Số tiền nộp tại
ngân sách Nhà nước.
+ Số tiền đề nghị
chuyển qua năm sau để quyết toán tiếp.
+ Số tiền đề nghị
trừ vào kinh phí cấp phát của năm sau để nộp giảm cấp phát năm trước.
Báo cáo quyết toán
gửi về cơ quan chủ quản cấp trên phải có xác nhận của Sở Tài chính vật giá và
Chi cục Kho bạc Nhà nước nơi đơn vị lưu ký tài khoản.
b) Đối với Sở Tài
chính và Chi cục Kho bạc Nhà nước
- Báo cáo tổng hợp
quyết toán kinh phí uỷ quyền của ngân sách trung ương chuyển về; quyết toán được
chi tiết đến từng loại vốn và ghi rõ số kinh phí năm trước chuyển qua, số kinh
phí chuyển về trong năm, số kinh phí đề nghị quyết toán, số kinh phí đã chuyển
nộp lại ngân sách trung ương, số kinh phí xin chuyển qua năm sau chi tiếp; kiến
nghị của Sở Tài chính đối với từng loại vốn; báo cáo quyết toán gửi về Bộ Tài
chính phải có xác nhận của Chi cục Kho bạc Nhà nước đồng cấp.
- Số liệu báo cáo
quyết toán thu ngân sách Nhà nước, chi Ngân sách địa phương trước khi trình Uỷ
ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố phải được đối chiếu khớp đúng
đến chương - loại - khoản - hạng - mục của Mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành
và khớp đúng đến từng cấp ngân sách (ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh, ngân
sách huyện).
- Báo cáo quyết
toán thu ngân sách Nhà nước và chi Ngân sách địa phương trước khi gửi về Bộ Tài
chính và Cục Kho bạc Nhà nước nhất thiết phải có xác nhận của cơ quan Kho bạc
Nhà nước đồng cấp và ngược lại báo cáo quyết toán của chi cục Kho bạc Nhà nước
gửi Cục Kho bạc Nhà nước phải có xác nhận của cơ quan tài chính đồng cấp.
Trên đây là một số
điểm hướng dẫn công tác khoá sổ cuối năm và lập tổng quyết toán ngân sách Nhà
nước năm 1993. Trong quá trình thực hiện, nếu có điểm nào chưa rõ hoặc có khó
khăn vướng mắc, đề nghị phản ánh về Bộ Tài chính nghiên cứu và có ý kiến giải
quyết.