TỔNG CỤC THUẾ
CỤC THUẾ TP HÀ NỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 39624/CTHN-TTHT
V/v thuế
TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn
|
Hà Nội, ngày 11 tháng 8
năm 2022
|
Kính gửi: Công ty TNHH Ferroli Asean
Đ/c: Lô CN7, KCN Thạch Thất - Quốc Oai, H. Thạch Thất, TP Hà Nội
MST: 0500579201
Trả lời công văn số 06 FER/2022/CV ngày 11/07/2022 của Công
ty TNHH Ferroli Asean (sau đây gọi là Công ty) về thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với hoạt động chuyển nhượng vốn, Cục Thuế TP Hà Nội có ý kiến như sau:
- Căn cứ Khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNDN 14/2008/QH12 quy định
về người nộp thuế:
“2. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế quy định tại
Điều 3 của Luật này phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
…
c) Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại
Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản
thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú;
d) Doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú
tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.”
- Căn cứ Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày
12/2/2015 của Chính phủ quy định về thu nhập chịu thuế:
“3 Thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam của các
doanh nghiệp nước ngoài quy định tại các Điểm c, d Khoản 2 Điều 2 Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp là thu nhập nhận được có nguồn gốc từ Việt Nam từ hoạt
động cung ứng dịch vụ, cung cấp và phân phối hàng hóa, cho vay vốn, tiền bản
quyền cho tổ chức cá nhân Việt Nam hoặc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài đang
kinh doanh tại Việt Nam hoặc từ chuyển nhượng vốn, dự án đầu tư, quyền
góp vốn, quyền tham gia các dự án đầu tư, quyền thăm dò, khai thác, chế biến
tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh
doanh.”
- Căn cứ Hiệp định giữa nước Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Ai-len về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa
việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập (sau đây gọi là Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Ai-len):
+ Tại Điều 2 quy định về các loại thuế bao gồm trong Hiệp
định:
“…
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, hoặc
những phần của thu nhập, bao gồm các loại thuế đối với thu nhập từ việc chuyển
nhượng động sản hoặc bất động sản.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp
định này là:
(a) Tại Việt Nam:
(i) Thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) Thuế thu nhập doanh nghiệp;
(sau đây gọi là “thuế Việt Nam”);
(b) Tại Ai-len:
(i) Thuế thu nhập;
(ii) Thuế công ty; và
(iii) Thuế thu nhập từ chuyển nhượng tài sản;
(sau đây gọi là “thuế Ai-len”).”
+ Tại Điều 6 quy định về thu nhập từ bất động sản:
“…
2. Thuật ngữ “bất động sản” có nghĩa theo như luật
của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi trường hợp
sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia súc và
thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp dụng
theo như các quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động sản và
các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả cho
việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên
thiên nhiên khác; các tàu thủy, thuyền và máy bay sẽ không được coi là bất động
sản.
…”
+ Tại Điều 14 quy định về thu nhập từ chuyển nhượng tài sản:
“1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận
được từ chuyển nhượng bất động sản nêu tại Điều 6 và có tại Nước ký kết kia có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động sản là một phần của
tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp của một Nước ký
kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú
đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp)
hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
…
4. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng:
(a) các cổ phần hoặc các quyền lợi tương tự tạo ra
giá trị hay phần lớn hơn giá trị đó trực tiếp hay gián tiếp từ bất động sản nằm
tại Nước ký kết kia, hoặc
(b) quyền lợi trong công ty hợp danh hay tín thác có tài
sản chủ yếu gồm bất động sản nằm tại Nước ký kết kia hay gồm cổ phần như đề
cập tại điểm (a) trên đây; có thể phải nộp thuế tại Nước kia.
5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào khác
với tài sản nêu tại các khoản 1, 2, 3 và 4 sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết
nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
6. Những quy định tại khoản 5 sẽ không ảnh hưởng đến
quyền của một Nước ký kết, căn cứ theo luật thuế tại Nước đó, thu thuế đối với
thu nhập từ chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào của một cá nhân là đối tượng cư
trú tại Nước ký kết kia và cá nhân đó đã từng là đối tượng cư trú tại Nước ký
kết thứ nhất vào bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn 3 năm ngay trước thời
điểm chuyển nhượng tài sản nếu tài sản đó do cá nhân này nắm giữ trước khi trở
thành đối tượng cư trú của Nước kia.”
- Căn cứ Thông tư số 205/2013/TT-BTC ngày 24/12/2013 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa
Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam:
+ Tại Điều 4 hướng dẫn nguyên tắc áp dụng Hiệp định:
“Khi áp dụng, xử lý thuế đối với từng trường hợp phải
căn cứ theo quy định tại từng Hiệp định (bao gồm cả Nghị định thư và/hoặc Thư
trao đổi nếu có).”
+ Tại Khoản 4 Điều 27 hướng dẫn xác định nghĩa vụ thuế đối
với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản:
“4. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng
vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, trong một tín thác hoặc một hợp danh mà giá trị bất động sản chiếm tỷ lệ
chủ yếu trong tổng số vốn của doanh nghiệp
Trong phần lớn các Hiệp định giữa Việt Nam với các
nước đều có quy định theo đó, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập trong trường
hợp bên nước ngoài chuyển nhượng vốn trong các doanh nghiệp, các tín thác hoặc
các hợp danh là đối tượng cư trú của Việt Nam mà giá trị bất động sản chiếm tỷ
lệ chủ yếu trong tổng số tài sản của doanh nghiệp.
Tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của
doanh nghiệp là số bình quân đơn giản của các tỷ lệ giá trị bất động sản trong
tổng số tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm chuyển nhượng tài sản, thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc năm tính thuế ngay trước năm trong đó tài sản
được chuyển nhượng. Việc xác định giá trị bất động sản được căn cứ vào bảng
tổng kết tài sản đã được kiểm toán của doanh nghiệp tại các thời điểm nêu trên.
Tỷ lệ chủ yếu của giá trị bất động sản trong tổng số
tài sản của doanh nghiệp được xác định như sau:
- Trường hợp tại Hiệp định có quy định cụ thể về tỷ
lệ hoặc về tỷ lệ chủ yếu thì theo tỷ lệ quy định tại Hiệp định, như tại Khoản
4, Điều 13, Hiệp định giữa Việt Nam và Tây Ban Nha quy định tỷ lệ là trên 50%,
hoặc tại Khoản 4, Điều 14, Hiệp định giữa Việt Nam và Ô-man và tại Khoản 4,
Điều 13, Hiệp định giữa Việt Nam và Các tiểu Vương quốc Ả-rập Thống nhất quy
định tỷ lệ chủ yếu là trên 50%.
- Trường hợp tại Hiệp định không quy định cụ thể về
tỷ lệ hoặc về tỷ lệ chủ yếu thì tính chủ yếu được xác định là trên 50%.
…”
- Căn cứ khoản 2 Điều 14 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày
18/6/2014 hướng dẫn về thu nhập từ chuyển nhượng vốn:
“2. Căn cứ tính thuế:
a) Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng vốn được xác
định:
Thu nhập tính thuế
|
=
|
Giá chuyển nhượng
|
-
|
Giá mua của phần vốn
chuyển nhượng
|
-
|
Chi phí chuyển nhượng
|
…
c) Đối với tổ chức nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam
hoặc có thu nhập tại Việt Nam mà tổ chức này không hoạt động theo Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp (gọi chung là nhà thầu nước ngoài) có hoạt động chuyển nhượng
vốn thì thực hiện kê khai, nộp thuế như sau:
Tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng vốn có trách
nhiệm xác định, kê khai, khấu trừ và nộp thay tổ chức nước ngoài số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp. Trường hợp bên nhận chuyển nhượng vốn cũng là tổ
chức nước ngoài không hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp
thành lập theo pháp luật Việt Nam nơi các tổ chức nước ngoài đầu tư vốn có
trách nhiệm kê khai và nộp thay số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp từ hoạt
động chuyển nhượng vốn của tổ chức nước ngoài.
Việc kê khai thuế, nộp thuế được thực hiện theo quy
định tại các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế.”
Căn cứ các quy định nêu trên, Cục Thuế TP Hà Nội có ý kiến
như sau:
Trường hợp tổ chức nước ngoài phát sinh thu nhập có nguồn
gốc từ Việt Nam từ hoạt động chuyển nhượng vốn thì thuộc đối tượng nộp thuế
TNDN tại Việt Nam.
Trường hợp bên nhận chuyển nhượng vốn cũng là tổ chức nước
ngoài không hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp
thành lập theo pháp luật Việt Nam nơi các tổ chức nước ngoài đầu tư vốn có
trách nhiệm kê khai và nộp thay số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp từ hoạt
động chuyển nhượng vốn của tổ chức nước ngoài.
Thuật ngữ “bất động sản” thực hiện theo quy định tại Khoản 2
Điều 6 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Ai-len.
Việc áp dụng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam
và Ai-len đối với hoạt động chuyển nhượng vốn của Công ty tại Ai-len, đề nghị
Công ty nghiên cứu quy định tại Điều 14 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa
Việt Nam và Ai-len và hướng dẫn tại Điều 27 Thông tư 205/2013/TT-BTC nêu trên,
đối chiếu với tình hình thực tế phát sinh để thực hiện theo đúng quy định.
Trong quá trình thực hiện chính sách thuế, trường hợp còn
vướng mắc, đơn vị có thể tham khảo các văn bản hướng dẫn của Cục Thuế TP Hà Nội
được đăng tải trên website http://hanoi.gdt.gov.vn hoặc liên hệ với Phòng
Thanh tra - Kiểm tra số 2 để được hỗ trợ giải quyết.
Cục Thuế TP Hà Nội trả lời để Công ty TNHH Ferroli Asean
được biết và thực hiện./.
Nơi nhận:
- Như
trên;
- Phòng TTKT2;
- Phòng NVDTPC;
- Website Cục Thuế;
- Lưu: VT, TTHT(2).
|
KT. CỤC TRƯỞNG
PHÓ CỤC TRƯỞNG
Nguyễn Tiến Trường
|