BỘ
KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
4723/BKHĐT-TH
V/v xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013
|
Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2012
|
Kính gửi:
|
-
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và các cơ quan trung
ương khác;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các Tập đoàn kinh tế nhà nước, Tổng công ty 91;
- Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội
|
Thực
hiện Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về
việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước
năm 2013 và Kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước 3 năm 2013-2015, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư xin gửi đến Quý cơ quan Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2013 (bao gồm các phụ lục mẫu biểu báo cáo kèm theo). Tài
liệu này có thể tải về từ Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(www.mpi.gov.vn).
Đề nghị
các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Khung hướng
dẫn này, hướng dẫn của Bộ Tài chính và tình hình, đặc điểm cụ thể của bộ,
ngành, địa phương mình, khẩn trương xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2013 và gửi Báo cáo bằng văn bản về Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2 bản), Bộ
Tài chính trước ngày 20 tháng 07 năm 2012, và gửi kèm file theo địa chỉ email: [email protected],
để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.
Nơi nhận:
-
Như trên;
- VPCP
(để b/c Thủ tướng Chính phủ);
- Các
Sở KH&ĐT;
- Bộ
KH&ĐT: Lãnh đạo Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ, Cổng TTĐT;
-
Lưu: VT, THKTQD (10b).
|
BỘ TRƯỞNG
Bùi
Quang Vinh
|
KHUNG HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
(Kèm theo công văn số 4723/BKHĐT-TH ngày 29 tháng 6 năm 2012)
Thực hiện Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 18
tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Kế hoạch đầu tư từ
ngân sách nhà nước 3 năm 2013 - 2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi đến quý cơ quan
Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM
2012 VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012
Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá
XIII đã thông
qua Nghị quyết số 11/2011/QH13 ngày 09 tháng 11 năm 2011 về kế hoạch
phát triển phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, với mục tiêu tổng
quát là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng
hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm phúc lợi xã hội
và
an
sinh xã
hội,
cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng,
bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại
và hội nhập quốc tế.
Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 28 tháng 11 năm 2011 giao chỉ
tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012; Quyết định số 2113/QĐ-TTg ngày 28 tháng 11 năm 2011 giao dự toán ngân sách nhà
nước năm
2012; Quyết định số
102/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2012 giao kế hoạch vốn đầu tư
phát triển nguồn
ngân sách nhà nước năm 2012; Các quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2012,
số 602/QĐ-TTg ngày 24
tháng 5 năm 2012, số 699/QĐ-TTg ngày 09
tháng 6 năm 2012 giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính
phủ giai đoạn 2012 - 2015 và năm
2012; Quyết định số 512/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm 2012 giao dự toán ngân sách trung ương thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia năm 2012.
Quán triệt các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 về những
giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, tập trung vào các giải pháp: kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô; thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế,
đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh;
nâng cao chất lượng nhân lực, đẩy nhanh ứng dụng khoa học và công nghệ; bảo đảm
an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức
khoẻ, bảo đảm đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân; tăng cường phòng chống
thiên tai, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường phòng,
chống tham nhũng; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại.
Trong những tháng đầu năm 2012, mặc dù còn
nhiều khó khăn thách thức, nhưng nhờ xác định đúng mục tiêu và triển khai tổ
chức thực hiện chủ động, tích cực, có hiệu quả các cơ chế, chính sách, giải
pháp phù hợp, cùng với sự phấn đấu, nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng
doanh nghiệp và toàn xã hội, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả tích
cực: Lạm phát kiềm chế ở mức thấp; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; an sinh xã hội
được bảo đảm. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; sức mua của
thị trường giảm; nền kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng thấp hơn so
với cùng kỳ năm 2011.
Trước
tình hình đó,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về các
giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường nhưng vẫn
nhất quán trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thực hiện tái cơ cấu nền kinh
tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh đang là nhiệm vụ
trọng tâm trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ để bảo đảm thực hiện đạt mức
cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã đề ra.
Thực hiện các Nghị quyết của Trung
ương, Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và
toàn dân đã nỗ lực phấn đấu và đã đạt được những kết quả tích cực bước dầu,
đúng hướng trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội, duy trì tăng trưởng hợp lý. Việc triển khai khẩn trương và những kết
quả đó đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội,
sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trước những khó khăn, thách thức hiện nay.
Dưới đây là tình hình kinh tế - xã hội quốc gia 6 tháng đầu
năm và dự báo khả năng hoàn thành kế hoạch cả năm 2012:
I.
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2012
1. Về thực hiện mục tiêu ưu
tiên kiềm
chế lạm phát và
ổn
định kinh tế vĩ mô:
a) Về giá cả và lạm phát:
Nhờ thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ các biện
pháp kiềm chế lạm phát, như: thắt chặt tiền tệ, quản lý chặt chẽ chi tiêu và
giảm bội chi ngân sách nhà nước, cắt giảm vốn đầu tư và đổi mới nâng cao hiệu
quả đầu tư công,… nên tốc độ tăng giá đã có xu hướng giảm ngay từ tháng 7 năm
2011. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng giá giảm liên tục. So với tháng
trước, chỉ số giá tháng 1 tăng 1%, tháng 2 tăng 1,37%, tháng 3 tăng 0,16%,
tháng 4 tăng 0,05%, tháng 5 tăng 0,18%, tháng 6 giảm (-) 0,26%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 tăng 2,5% so với
tháng 12/2011, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước; thấp hơn nhiều so với tốc độ
tăng giá tiêu dùng của nhiều năm trước[1].
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm tăng 12,2% so với cùng kỳ năm
trước.
b) Về tiền tệ, tín dụng:
Việc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ,
kiểm soát lượng tiền cung ứng, chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp đã góp phần
quan trọng vào việc giảm tổng cầu có khả năng thanh toán, đã phát huy tác dụng
đưa lại kết quả tích cực trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tính đến ngày
20/6/2012, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 6,84% so với 31/12/2011. Thanh khoản VND của toàn hệ thống ngân hàng đầu
năm gặp khó khăn, nhưng đã có chuyển biến và cải thiện trong thời gian gần đây.
Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng
7,83% so với 31/12/2011. Tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế đã tăng dần trở lại
trong những tháng gần đây
nhưng so với 31/12/2011 vẫn còn giảm 0,2%.
Nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm giảm mặt bằng
lãi suất như: giảm lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, liên ngân hàng, trần
lãi suất tiền
gửi. Từ đầu năm đến nay, sau 3 lần điều chỉnh, trần lãi suất huy động đã giảm
từ 14% xuống 9%. Lãi suất tiền gửi trên thị
trường cũng giảm dần và mức cao nhất hiện nay đối với thời hạn 01 tháng đến 12
tháng ở mức 8,8-9%/năm.
Với sự điều chỉnh giảm lãi suất huy động,
nhiều ngân hàng tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất cho vay bằng VND. Hiện nay, lãi suất cho vay các lĩnh vực: nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ phổ biến ở mức 12-13%/năm, cho
vay sản xuất kinh doanh khác 14-17,5%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất
16,5-20%/năm. Tuy lãi suất giảm nhưng do nợ xấu tăng cao, nhiều doanh
nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Trong 6 tháng đầu năm, tỷ giá giao dịch VND/USD trên thị trường cơ bản ổn định; tỷ giá mua - bán đô la Mỹ của các ngân hàng thương mại
hiện đang phổ biến ở mức dưới 21.000 VND/USD, thấp hơn cuối năm 2011. Thanh khoản ngoại tệ toàn hệ thống được cải thiện. Nguồn cung ngoại tệ khá
dồi dào do xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu tăng chậm
và nhu cầu đồng nội tệ đang mạnh lên nhờ việc giảm lãi suất.
Cán
cân thanh toán quốc tế có thặng dư khá lớn[2]; dự trữ
ngoại hối được cải
thiện.
c) Về thu chi ngân sách nhà nước:
Thu ngân
sách nhà nước 6 tháng đầu năm đạt thấp so với yêu cầu tiến độ thực hiện dự
toán. Những khó khăn do lạm phát tăng cao từ năm trước vẫn tiếp tục ảnh
hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm thu
ngân sách nhà nước. Trong khi đó, những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 của Chính phủ mới
được triển khai, cần phải có thời gian để phát huy hiệu quả.
Tổng thu ngân sách nhà nước đến hết ngày
15 tháng 6 năm 2012 ước đạt 316.828 tỷ đồng, bằng 42,8% dự toán, trong đó: thu
nội địa ước đạt 41,1% dự toán, thu từ dầu thô đạt 60,1% dự toán (giá dầu thanh
toán bình quân khoảng 114,5 USD/thùng, cao hơn 29,5 USD/thùng so với giá xây
dựng dự toán); thu
cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 38,3% dự toán.
Tổng chi ngân sách nhà nước đến hết
ngày 15 tháng 6 năm 2012 ước đạt 376.831 tỷ đồng, bằng 41,7% dự toán, trong đó
chi đầu tư phát triển đạt 40,9% dự toán, chi trả nợ và viện trợ đạt 47,3% dự
toán, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, an ninh, quản lý nhà nước (bao
gồm cả chi cải cách tiền lương) đạt 42,6% dự toán; tập trung đảm bảo các nhu
cầu chi phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, quản lý nhà nước và
thanh toán các khoản chi trả nợ đến hạn, đảm bảo chi trả kịp thời các khoản
lương và có tính chất lương đến các đối tượng thụ hưởng ngân sách nhà nước, góp
phần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
d) Về xuất, nhập khẩu:
Ước 6 tháng đầu năm 2012 xuất khẩu đạt 53,127 tỷ USD, tăng 22,2%,
trong đó, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) đạt 28,8 tỷ USD, tăng
41,5% so với cùng kỳ.
Ước nhập
khẩu đạt 53,812 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó, kim ngạch
nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 28 tỷ USD, tăng 26,1%;
nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 25,8 tỷ USD, giảm 8,2%. Ước nhập siêu 6 tháng khoảng 685 triệu USD, bằng 1,3% tổng
kim ngạch xuất khẩu.
Các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu tiếp tục duy trì tốc độ tăng
trưởng khá, đặc biệt mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện tăng gần 130%;
điện tử, máy vi tính và linh kiện tăng gần 85%, đã đóng góp đáng kể cho tăng
trưởng xuất khẩu (riêng 2 mặt hàng này 6 tháng đầu năm tăng 4,2 tỷ USD so với
cùng kỳ năm 2011). Nhóm hàng nông, lâm
nghiệp, hải sản xuất khẩu tăng thấp (tăng 800 triệu USD), chủ yếu do giá xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2011.
Khu
vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao trong 3 năm liên tục
và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu
năm 2012 của cả nước tăng 9,7 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của khu vực
FDI (không kể dầu thô) tăng 8,5 tỷ USD. Như vậy, xuất khẩu của khu vực doanh
nghiệp trong nước chỉ tăng 1,2 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011.
Tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu 6 tháng của khu vực FDI là 26,1%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng
nhập khẩu chung của cả nước do các mặt hàng chủ lực của khu vực này là gia
công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực
này tăng gần 5,8 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011 trong khi nhập khẩu của các
doanh nghiệp trong nước giảm 2,3 tỷ USD.
Việc giảm mạnh tốc độ tăng nhập khẩu và giảm
nhập siêu sẽ góp phần giảm áp lực trong cân đối ngoại tệ và ổn định tỷ giá, nhưng mặt khác cho thấy nhu cầu nhập khẩu
phục vụ cho đầu tư và sản xuất đang có xu hướng giảm sút[3],
đặc biệt là của khu vực doanh nghiệp trong nước, có khả năng ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế và xuất khẩu trong thời gian tới.
đ) Về đầu tư phát triển:
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 6
tháng đạt khoảng 431,7 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 34,5% GDP, tăng 10,1% so với
cùng kỳ năm trước; nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 9,6%.
Vốn
đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước lũy kế từ đầu năm đến 15/6/2012 ước đạt 73,6 nghìn tỷ đồng, bằng 40,9%
kế hoạch năm. Vốn tín dụng cho vay đầu tư trung
và dài hạn của Nhà nước 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 10,8 nghìn tỷ đồng, bằng
46% kế hoạch năm.
Vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài: Trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng vốn đăng ký ước đạt khoảng
6,38 tỷ USD, bằng 72,3% so với cùng kỳ năm 2011 (6 tháng năm 2011 đạt 8,83 tỷ
USD) và chỉ bằng 60,9% so với cùng kỳ năm 2010 (6 tháng năm 2010 đạt 10,48 tỷ
USD). Tuy vốn đăng ký giảm nhưng vốn thực hiện dự kiến vẫn đạt 5,4 tỷ USD, tăng
gần 2% so với cùng kỳ năm 2011 và bằng cùng kỳ năm 2010.
Nguyên
nhân suy giảm vốn FDI đăng ký một mặt do kinh tế thế giới phục hồi chậm, các
nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn về nguồn lực tài chính và sự cạnh tranh thu hút
vốn của các nước trong khu vực; mặt khác do yêu cầu tăng cường quản lý đầu tư và
nâng cao chất lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài,... trước mắt vốn đăng ký trong
ngắn hạn giảm so với trước, nhưng sẽ tăng trở lại trong trung và dài hạn.
Vốn ODA,
trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết với nhà trợ
đạt 2.106,67 triệu USD (Trong đó: vốn vay là 2.100,94 triệu USD, viện trợ không
hoàn lại là 5,73 triệu USD) so với cùng kỳ năm ngoái là 1.661,29
triệu USD.
Vốn ODA giải ngân 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 1.750 triệu USD, bằng 73% so với
cùng kỳ năm 2011;
trong đó, vốn vay ước đạt 1.588 triệu USD, bằng 73,9%, viện trợ
không hoàn lại ước đạt 162 triệu USD, bằng 64,8%.
2. Về thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế:
a) Tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP):
Do phải tập trung thực hiện mục tiêu kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế 6
tháng đầu năm 2012 đạt thấp hơn
tốc độ
tăng cùng kỳ năm trước và thấp hơn so với kế hoạch đề ra, nhưng bắt đầu có xu
hướng cải thiện hơn trong Quý 2[4]. Tính chung, tốc độ
tăng GDP
6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 4,38%, thấp hơn
tốc độ tăng 6 tháng đầu năm 2011 (5,63%); trong đó:
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,81%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,81%; dịch vụ
tăng 5,57%.
b) Sản xuất công nghiệp có chuyển biến.
Những tháng đầu năm,
ngành công nghiệp gặp nhiều khó khăn do giá đầu vào và lãi suất ở mức cao, tiêu
thụ chậm, tồn kho tăng cao; hiệu quả sản xuất giảm sút. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2012
tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2011, chỉ bằng 46% mức tăng 6 tháng đầu năm 2011
(9,7%), trong đó: công
nghiệp khai thác mỏ tăng 3%; công nghiệp chế biến tăng
4%;
sản xuất, phân phối điện, gas, nước tăng 14,2%.
Tuy nhiên, nhờ thực hiện
mạnh mẽ các biện pháp tháo gỡ khó khăn như: giảm lãi suất, chính sách hỗ trợ
tín dụng, giãn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng; hỗ trợ
cho sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ,… sản xuất công nghiệp 4
tháng gần đây đã có chuyển biến và có chiều hướng cải thiện khá rõ nét, nhất là
công nghiệp chế biến. So với cùng kỳ các năm trước, chỉ số IIP 2 tháng đầu năm
tăng 3,9%, 4 tháng tiếp theo đều tăng 6,5-8%[5],
trong đó chỉ số IIP công nghiệp chế biến (chiếm khoảng 75% giá
trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp) 2 tháng đầu năm tăng 2,4%, 4 tháng tiếp theo
đều tăng 7-9%[6]).
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/6/2012 của
ngành công nghiệp chế biến tăng 26% so với cùng thời điểm năm trước. Tuy chỉ số
tồn kho còn ở mức cao nhưng đã có xu hướng giảm dần, từ 34,9% trong tháng 3
giảm xuống lần lượt là 32,1% và 29,4% trong tháng 4 và tháng 5, đến tháng 6
giảm xuống 26%[7].
c) Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp
tục phát triển ổn định.
Trong
6 tháng đầu năm 2012 sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển tương đối
ổn định. Giá trị sản xuất toàn
ngành (theo giá cố định 1994) ước tăng 3,8%,
trong đó nông nghiệp tăng 3%, lâm nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 5,8%.
Sản lượng lúa vụ đông
xuân ước đạt 20,26 triệu tấn, tăng khoảng 477,8 nghìn tấn với vụ đông xuân năm
trước chủ yếu do tăng diện tích và năng suất ở các tỉnh phía Nam, đảm bảo an ninh
lương thực và xuất khẩu.
Chăn
nuôi trâu bò 6 tháng đầu năm còn chuyển biến chậm, tính đến ngày 01/4/2012, cả nước có 2,7 triệu con
trâu, giảm 5,1%; 5,3 triệu con bò, giảm 7% so với cùng thời điểm năm 2011. Chăn
nuôi lợn còn gặp một số khó khăn do dịch bệnh và tình hình sử dụng chất cấm
trong chăn nuôi, tính đến 01/4/2012 cả nước có 26,7 triệu con lợn, tăng 1,5% so
với cùng thời điểm năm 2011. Đàn gia cầm phát triển tương đối tốt do dịch cúm
gia cầm đã được khống chế, tính đến 01/4/2012 cả nước có 310,7 triệu con, tăng
5,8%. Tổng sản lượng thịt hơi các loại 6 tháng đầu năm ước đạt 2,6 triệu tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2011.
Sản xuất lâm nghiệp 6
tháng đầu năm tương đối thuận lợi do thời tiết ấm nóng và có mưa. Ước diện tích
trồng rừng tập trung 6 tháng đầu 2012 đạt 53,8 ngàn ha, tăng 4,47% so với cùng
kỳ năm 2011; sản lượng gỗ khai thác 6 tháng 2012 ước đạt 2.248,8 ngàn m3,
tăng 12,05% so cùng kỳ.
Tổng sản lượng thuỷ
sản 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 2.649,2 nghìn tấn, tăng 5,4% so với năm 2011;
trong đó, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 1.386,8 nghìn tấn, tăng 6,8%; sản
lượng khai thác đạt 1.262,4 nghìn tấn, tăng 4% so với cùng kỳ.
d) Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển khá.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ trong 6
tháng đầu năm 2012 ước đạt 5,57% so với cùng kỳ năm 2011, cao hơn nhiều so với
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Xuất khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm
2012 ước đạt trên 4,5 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó một số
dịch vụ có giá trị xuất khẩu lớn là du lịch, viễn thông, vận tải, ngân hàng,...
Tổng mức
lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2012
ước đạt 1.137,4 nghìn tỷ đồng, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2011, nếu loại trừ
yếu tố giá thì tăng 6,5%.
Hoạt động du
lịch tiếp tục phát triển khá. Sáu tháng đầu năm 2012, doanh thu của ngành
du lịch ước đạt khoảng 75.000 tỷ đồng, tăng khoảng 18% so với cùng kỳ năm 2011.
Số lượt khách quốc tế đến Việt Nam, ước đạt khoảng 3,36 triệu lượt, tăng khoảng
13,9% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khách đến từ Hàn Quốc tăng 41,3%, Đài
Loan tăng 23,8%, Malaysia tăng 25,6%, Nhật Bản tăng 22,8%, Thái Lan tăng
28,6%,... Số lượt khách du lịch nội địa 6 tháng ước đạt 17,2 triệu lượt, tăng khoảng
8% so với cùng kỳ năm trước.
Sáu tháng đầu năm 2012, khối lượng hàng
hoá vận chuyển dự kiến đạt 433,6 triệu tấn, tăng 10,1%; khối lượng hàng hoá
luân chuyển đạt khoảng 92 tỷ tấn.Km, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm 2011. Khối
lượng hành khách vận chuyển dự kiến đạt 1.657,4 triệu lượt người, tăng 13% so
với cùng kỳ năm 2011; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 68,1 tỷ lượt
người.Km, tăng 10,9%.
Số thuê bao điện thoại phát triển mới
6 tháng đầu năm ước đạt 5,5 triệu thuê bao, bằng 117,8% cùng kỳ năm trước. Số
thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 6/2012 ước đạt 135,9 triệu thuê
bao, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 15,2 triệu thuê bao cố định,
giảm 1,8% và 120,7 triệu thuê bao di động, tăng 2,8%.
Số thuê bao internet trên cả nước đến
cuối tháng 6/2012 ước đạt 4,39 triệu thuê bao, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm
trước. Số người sử dụng internet tính đến cuối tháng 6 năm 2012 ước đạt 32,36
triệu người. Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông 6 tháng đầu năm ước đạt 74,93
nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước.
đ) Về phát triển doanh nghiệp:
Trong 6 tháng đầu năm
2012, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới ước đạt 36,2 nghìn doanh nghiệp với tổng
số vốn đăng ký là 232,6 nghìn tỷ đồng,
giảm 12,4% về số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và giảm 3,5% về số vốn đăng
ký so với cùng kỳ năm trước.
Số doanh nghiệp gặp khó
khăn phải giải thể, tạm ngừng hoạt động tiếp tục tăng đáng kể so với cùng kỳ
năm trước. Trong 6 tháng đầu năm, tổng số doanh nghiệp đã thực hiện việc giải
thể và dừng hoạt động là 26.320 doanh nghiệp, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2011[8].
Việc thực hiện mục tiêu
ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp do tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế suy giảm. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp gặp
khó khăn, giải thể là do năng lực tài chính yếu, sản phẩm cạnh tranh kém; vì
vậy, đây cũng là cơ hội để sàng lọc doanh nghiệp thông qua cạnh tranh, góp phần
nâng cao hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.
3. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm phúc
lợi xã hội và
an
sinh xã
hội,
cải thiện đời sống nhân dân:
a) Về bảo đảm an
sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo:
Các cấp, các ngành đã tích cực triển khai thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội, như: thăm hỏi, động viên và tặng quà cho các đối tượng chính sách, người có công; hỗ
trợ cho các hộ thiếu đói; hỗ trợ giá điện, hỗ trợ về nhà ở, xóa nhà dột
nát; hỗ trợ tín dụng cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số để ổn định chỗ ở, phát
triển sản xuất; hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo; đào tạo và dạy nghề
cho lao động nông thôn; tích cực triển khai chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới; điều chỉnh mức lương tối thiểu; theo dõi sát tình hình thiếu đói giáp
hạt, thiệt hại do thiên tai, kịp thời tổ chức cứu trợ và đề xuất giải pháp khắc
phục hậu quả, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân;...
Thực hiện trợ cấp xã
hội thường xuyên cho gần 2,3 triệu người thuộc nhóm đối tượng bảo trợ xã hội,
trong đó có trên 40 ngàn người trong các cơ sở bảo trợ xã hội. Đối với các
tỉnh, thành phố có điều kiện, thực hiện nâng mức trợ cấp cao hơn mức quy định
của Chính phủ; các tỉnh nghèo được bổ sung ngân sách đảm bảo xã hội để đảm bảo
chi trả đầy đủ cho các đối tượng theo quy định. Từ đầu năm đến nay, đã hỗ trợ
hơn 33 nghìn tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 18 địa phương để cứu trợ kịp
thời cho người dân trong kỳ giáp hạt và dịp Tết Nguyên đán.
Các chính sách chăm
sóc người có công đã được triển khai bảo đảm đúng đối tượng chính sách được
hưởng, góp phần nâng cao mức sống người có công, được các tầng lớp nhân dân
đồng tình ủng hộ.
b) Về lao động, việc làm:
Trong 6 tháng đầu năm, ước giải quyết
việc làm cho khoảng 735
nghìn
lao động, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm
2011, đạt 45,9% chỉ tiêu kế hoạch năm 2012; trong đó: giải quyết
việc làm trong nước cho khoảng 696 nghìn người, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm
2011, đạt 46,1% kế hoạch;
đưa
khoảng 38,8 nghìn lao động đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bằng 83,7% cùng kỳ năm 2011, đạt 43,1% kế
hoạch.
Số lượng lao động nước ngoài đang làm
việc tại Việt Nam đến tháng 6/2012 ước tính có 76,7 nghìn người (trong đó có 64% đã được cấp
giấy phép lao động). Đây là những lao động có đủ điều kiện được các doanh
nghiệp, tổ chức báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xin cấp giấy phép lao động.
Về bảo hiểm thất
nghiệp, tổng hợp đến ngày 20/5/2012, cả nước có khoảng 213 nghìn người đăng ký
thất nghiệp, tập trung chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Đà
Nẵng,… Trong đó, số lao động bị mất việc làm trong các doanh nghiệp bị giải
thể, phá sản hoặc thu hẹp sản xuất chiếm khoảng 14% số lao động đăng ký thất
nghiệp.
c) Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Mạng lưới khám chữa bệnh từ trung ương đến
địa phương được tập trung đầu tư; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được nâng
cấp; chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh được cải thiện đáng kể; quan tâm và
triển khai thực hiện các chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới
6 tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách xã hội, người có
công. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên từng bước được khắc phục,
việc luân chuyển cán bộ, chuyển giao công nghệ cho tuyến dưới đã đạt được những
kết quả tích cực. Tăng cường quản lý nhà nước về giá dịch vụ y tế, thực hiện
chính sách viện phí và giá dịch vụ y tế mới nhằm huy động sự đóng góp của các
tầng lớp nhân dân và giảm bớt sự bao cấp tràn lan trong công tác khám chữa
bệnh. Nguồn thu viện phí đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm kinh phí
hoạt động của các bệnh viện trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, tạo
điều kiện để Nhà nước có nguồn kinh phí mua và hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế cho một
số đối tượng chính sách xã hội.
Công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn thực
phẩm
được đẩy
mạnh, nhất
là trong những đợt nắng nóng; tích cực triển khai công tác thanh tra, kiểm
tra,
thông báo công khai và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm. Triển khai các
biện pháp phòng chống dịch bệnh; xử lý kịp thời, không để dịch bệnh
bùng phát, lây lan.
Tăng
cường giám sát tại các cửa khẩu, kịp thời ngăn chặn và giảm thiểu việc xâm
nhập, lây truyền dịch bệnh;... Trong 6 tháng đầu năm 2012, cả nước có 57,89 nghìn trường hợp mắc bệnh tay
chân miệng, trong đó có 29 trường hợp tử vong; 23,166 nghìn người mắc bệnh
sốt xuất huyết, trong đó có 11 trường hợp tử vong;… Tính đến ngày
17/6/2012, số trường
hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 203.164 người, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 51.325 người, số
người nhiễm HIV đã tử vong 53.285 trường hợp.
Các chỉ số về số vụ
ngộ độc thực phẩm, số mắc, số đi viện và tử vong,... trong 6
tháng đầu năm đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Tích lũy 6 tháng đầu
năm 2012, toàn quốc đã xảy ra 58 vụ ngộ độc thực phẩm với 1.901 người mắc,
1.408 người đi viện và 14 trường hợp tử vong. Tuy nhiên, tỷ lệ ngộ
độc thực phẩm ở Việt Nam vẫn còn cao so với các nước trong khu vực do chưa kiểm
soát tốt nguồn cung cấp thực phẩm, vai trò của các chủ doanh nghiệp chưa được
đề cao, trách nhiệm của chính quyền địa phương chưa được thể hiện đầy đủ, còn
nhiều khó khăn tồn tại trong việc kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm thức ăn
đường phố. Nhiễm độc hoá chất bảo vệ thực vật cũng là vấn đề đáng lưu ý. Các vi
phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn xảy ra ở tất cả các công đoạn
của chuỗi cung cấp thực phẩm từ sản xuất, chế biến, lưu thông và tiêu thụ sản
phẩm.
d) Về lĩnh vực văn hoá:
Hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy
di sản văn hóa được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Các di tích lịch sử quan trọng
của quốc gia tiếp tục được quy hoạch, tu bổ, tôn tạo. Hoạt động quản lý bảo tồn
và phát triển hệ thống bảo tàng tiếp tục được quan tâm chỉ đạo. Các di sản văn
hóa phi vật thể tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ và phát huy nhằm từng bước góp phần
làm đa dạng hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Các ngày lễ, hội truyền
thống của dân tộc tiếp tục diễn ra sôi nổi, phong phú. Công tác
quản lý và tổ chức lễ hội của các địa phương trên toàn quốc đã có nhiều chuyển
biến tích cực.
Nhiều hoạt động văn
hoá, nghệ thuật quần chúng trong năm 2012 được tổ chức nhằm chào mừng sự thành
công của các sự kiện chính trị quan trọng. Các hoạt động văn
hóa, văn nghệ phát triển rộng khắp ở cơ sở với nhiều hình thức đa dạng, phong
phú, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia; chất lượng các hội thi, hội
diễn, liên hoan dần được nâng lên, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống
văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục được đẩy mạnh.
Hoạt động văn hoá
phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi được quan tâm với nhiều hoạt
động giao lưu văn hóa được tổ chức. Các hoạt động thư viện, điện ảnh, nghệ thuật
biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm tập trung hoạt động
vào việc tuyên
truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị trên phạm vi cả nước.
d) Về thể dục thể
thao:
Các hoạt động thể
thao quần chúng tiếp tục được triển khai rộng rãi trên toàn quốc nhằm hưởng ứng
cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Các hoạt
động thể dục thể thao trong nhà trường tiếp tục được ngành giáo dục đào tạo,
các cấp các ngành đẩy mạnh nhằm hướng tới xã hội thể thao toàn diện.
Công tác thể thao
thành tích cao được đẩy mạnh. Đến hết tháng 6/2012, đã có 76 giải thể
thao quốc gia và quốc tế, 15 lớp tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn cho trọng tài, huấn luyện viên thể thao được ngành Thể thao Việt Nam
tổ chức thành công. Nhiều đoàn vận động viên tham gia các giải thi đấu thể thao
cấp khu vực, châu lục và thế giới,... giành được nhiều thành tích. Đến nay,
Việt Nam đã có 13 vận động viên chính thức đạt chuẩn Olympic và sẵn sàng tham
dự Thế vận hội Olympic Luân Đôn năm 2012.
4. Về giáo dục - đào tạo và khoa học - công
nghệ:
a) Về giáo dục và đào tạo:
Công tác đổi mới quản lý giáo dục tiếp tục
được đẩy mạnh theo yêu cầu tăng cường phân công, phân cấp, tăng quyền tự chủ,
xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo quy hoạch, kế hoạch.
Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em 5 tuổi được phê duyệt tại Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09 tháng 02 năm 2010 được tiếp tục triển
khai thực hiện. Tính đến hết
tháng 02/2012 đã có 1.542/11.069 xã được công nhận đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ em năm tuổi; 3.473 trường mầm non bán công được chuyển đổi
sang công lập.
Chương trình giáo dục phổ thông tiếp tục được
đánh giá sâu và điều chỉnh ở một số môn học. Việc đổi mới phương pháp dạy học,
đổi mới kiểm tra đánh giá có tiến bộ. Chất lượng giáo dục được nâng lên. Tính đến tháng 6 năm 2012 có 59/63 tỉnh, thành phố
được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; số trường tiểu
học đạt chuẩn quốc gia từ 6.181 trường được nâng lên 6.730
trường. Trong kỳ thi tốt
nghiệp trung học phổ thông năm 2012, cả nước có 963.051 thí sinh dự thi. Tổng
số thí sinh đỗ tốt nghiệp là 940.225 người, đạt tỷ lệ 97,63%; trong đó tỷ lệ đỗ
loại giỏi là 2,34%, tỷ lệ đỗ loại khá là 25,5%.
Hệ thống mạng lưới các
trung tâm giáo dục thường xuyên được tiếp tục củng cố và phát triển theo mô
hình dạy văn hóa kết hợp với hướng nghiệp, dạy nghề. Củng cố vững chắc kết quả
chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học. Đến nay cả nước có 70 trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp tỉnh; 636 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện; 10.696
trung tâm học tập cộng đồng.
Đề án đào tạo giảng viên có trình độ
tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng từ nay đến năm 2020 tiếp tục được triển khai.
Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý về những sai phạm nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đại học. Tích cực chuẩn
bị và chỉ đạo công tác thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2012
ổn định theo giải pháp ba chung và có sự điều chỉnh hợp lí.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, hệ thống
thư viện trường học ở các cơ sở giáo dục mặc dù còn thiếu thốn nhưng đã đáp ứng
tốt hơn các yêu cầu dạy và học theo hướng kiên cố hoá, hiện đại hóa, theo các
chuẩn quốc gia đã ban hành. Việc ứng dụng công nghệ thông tin tiếp tục có những
chuyển biến tốt.
b) Về khoa học và công nghệ:
Trong 6 tháng đầu năm, công tác xây dựng cơ
chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ được
triển khai tích cực với nhiều Nghị định, Quyết định quan trọng về khoa học và
công nghệ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ được đẩy
mạnh triển khai thực hiện như: Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm
2020, Chương trình quốc gia về phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương
trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020,… Thị trường khoa học và công
nghệ ngày càng phát triển thông qua việc tổ chức các hội trợ công nghệ và thiết
bị ở cả trung ương và địa phương. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ được
đẩy mạnh. Công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa đã được tăng cường.
Công tác hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ được chú trọng và thực hiện dưới
nhiều hình thức. Tăng cường công tác đảm bảo an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân,
đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.”
Trong 6 tháng đầu năm
đã tổ chức thành công một số hoạt động về khoa học và công nghệ như: Phóng
thành công vệ tinh viễn thông VINASAT-2 vào quỹ đạo; khánh thành “Trung tâm
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đất hiếm” tại Hà Nội;…
5. Về lĩnh vực môi trường:
Hệ thống các văn bản pháp lý về quản lý
tài nguyên, bảo vệ môi trường tiếp tục được rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Trong 6 tháng
đầu năm 2012, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09/3/2012 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Khoáng sản; Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26/3/2012
quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã ban hành Thông tư số 01/2012/TT-BTNMT ngày 16/3/2012 quy định về lập,
thẩm định, phê duyệt và kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đề án bảo vệ môi
trường chi tiết, lập và đăng ký đề án bảo vệ môi trường đơn giản; Thông tư số
02/2012/TT-BTNMT ngày 19/3/2012 về việc quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
chuẩn thông tin địa lý cơ sở. Việc tổng kết và nghiên cứu sửa đổi Luật Tài
nguyên nước,
Luật
Đất đai; nghiên cứu
xây dựng Luật Bảo vệ tài
nguyên môi trường biển, hải đảo, Luật Khí tượng thủy văn,… đang được triển khai
tích cực.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, đã tập trung
xử lý các vấn đề về phòng ngừa, xử lý ô nhiễm môi trường ở những điểm
nóng, bức xúc. Trong đó tập
trung xử lý ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt ở các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ -
Đáy, sông Đồng Nai, nơi phát sinh dịch bệnh; xử lý chất thải rắn ở các đô thị,
khu công nghiệp; đánh giá ô nhiễm môi
trường các làng nghề; kiểm soát việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hóa chất,
thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học dùng trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản; kiểm soát việc nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng. Đồng thời đã tăng
cường kiểm tra, kiểm soát, xử lý các doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định
về xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường.
6. Trật tự an toàn giao
thông
có chuyển biến tích cực.
Các bộ, ngành chức năng
và các địa phương đã tích cực triển khai các biện pháp bảo đảm trật tự an toàn
giao thông, giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông. Trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 4.740 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên, làm chết 4.732 người và làm bị thương 4.017 người. So với cùng kỳ
năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 20,5%, số người chết giảm 19,29%
và số người bị thương giảm 22,59%.
Đánh giá tổng quát về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2012:
Tình hình kinh tế - xã
hội 6 tháng đầu năm 2012 đã có chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực
bước đầu, đúng hướng. Các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô
tiếp tục phát huy hiệu quả. Chỉ số giá tiêu dùng giảm mạnh; kim ngạch xuất khẩu
tăng cao hơn đáng kể so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Lãi suất giảm; dư nợ tín
dụng tăng dần trở lại; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện; dự
trữ ngoại hối tăng lên; tỷ giá ổn định. Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn
định; năng suất, sản lượng lúa đông xuân cao hơn năm trước. Khó khăn trong sản
xuất công nghiệp từng bước được tháo gỡ và có chuyển biến; chỉ số sản xuất công
nghiệp chế biến có xu hướng tăng; chỉ số tồn kho đang từng bước được giảm
xuống. Thị trường trong nước bắt đầu có chuyển biến với tốc độ tăng trưởng cao
hơn so với 2 tháng đầu năm. Hoạt động du lịch diễn ra sôi động, lượng khách quốc
tế tăng mạnh. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm. Tai nạn
giao thông giảm, trật tự an toàn giao thông chuyển biến tích cực. Các hoạt động
văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao tiếp tục phát triển. Quốc phòng, an ninh
được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định. Công tác đối ngoại tiếp tục đạt
kết quả tích cực.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu
trên, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm vẫn còn một số tồn tại và hạn
chế: Nền
kinh tế vẫn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn
nhiều so với cùng kỳ các năm trước. Chỉ số phát triển công nghiệp 6 tháng chỉ
bằng 46% tốc độ tăng cùng kỳ năm 2011. Khu vực doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,
khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng do lãi suất còn cao và không đáp ứng được các điều
kiện vay; chỉ số tồn kho giảm nhưng còn ở mức cao; số doanh nghiệp giải thể,
ngừng hoạt động tăng; thu ngân sách nhà nước đạt thấp, nhất là thu
nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Đời sống nhân dân, nhất là người
nghèo, các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc, số lao động mất việc làm ở các
trung tâm công nghiệp,... còn gặp nhiều khó khăn; các tệ nạn xã hội và trật tự
an toàn xã hội còn bức xúc ở một số nơi.
II. DỰ BÁO KHẢ NĂNG
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2012
Với những diễn biến về kinh tế thế giới
và trong nước thời gian qua và triển vọng sắp tới, có thể thấy áp lực là rất
lớn để có thể đạt được những mục tiêu Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của
Chính phủ đã đề ra trong năm 2012.
Ước tính năm 2012, chỉ số sản xuất công
nghiệp tăng 5,3% so với năm 2011 (Kế hoạch 2012 là tăng 8,5-9%). Trong đó, công
nghiệp khai thác mỏ tăng 0,2%; công nghiệp chế biến tăng 6,5%; sản xuất, phân
phối điện, gas, nước tăng 15,2%. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 6 tháng
cuối năm tiếp tục có nhiều thuận lợi và khá ổn định. Ước giá trị sản xuất
cả năm 2012 tăng
khoảng 4,3-4,5% so cùng kỳ
năm trước; trong đó nông nghiệp tăng khoảng 3,7%, lâm nghiệp
tăng khoảng
5,82%, thuỷ sản
tăng
khoảng 5,75%. Tốc độ tăng
trưởng khu vực dịch vụ năm 2012 ước đạt khoảng 6,1-6,5%.
Xuất khẩu năm 2012 ước đạt khoảng 109-110 tỷ
USD, tăng 13% so với năm 2011, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra; nhập khẩu đạt khoảng
115-116 tỷ USD, tăng 8%. Nhập siêu dự kiến là 6 tỷ USD, bằng 5,5% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu dịch vụ năm 2012 ước đạt 9,7 tỷ USD, tăng 10% so với
năm 2011. Nhập khẩu dịch vụ ước đạt 12 tỷ USD, tăng 6-7% so với năm 2011; thâm
hụt cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ là 2,3 tỷ USD.
Với xu hướng phát triển các ngành,
lĩnh vực như trên, tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng cuối năm có thể đạt cao hơn 6
tháng đầu năm 2012. Dự
báo GDP cả năm tăng khoảng 5,4-5,7%, thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra (6-6,5%).
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng cuối
năm có thể sẽ cao hơn so với đầu năm do chủ động thực hiện các giải pháp thúc
đẩy tăng tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhưng chỉ số giá tiêu dùng cả năm
2012 sẽ được kiềm chế ở mức khoảng 7-8%.
Tóm lại, trong 6 tháng cuối năm 2012,
với
điều
kiện thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu nêu trong Nghị quyết 01/NQ-CP ngày
03/01/2012 và Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ, dòng vốn tín dụng
được khơi thông, khó
khăn của doanh nghiệp về vốn, thị trường,... sẽ dần được tháo gỡ; tăng trưởng
công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến sẽ được cải thiện; sản xuất
nông nghiệp ổn định, các lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển; việc làm và
thu nhập của người dân sẽ được cải thiện, sức mua của người dân sẽ tăng lên.
Các chỉ tiêu xã hội, môi trường sẽ có thể đạt mục tiêu đề ra cho năm 2012 mặc dù một số chỉ
tiêu đòi hỏi sự phấn đấu cao là chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo và chỉ tiêu số lao
động được tạo việc làm.
Dưới đây là ước thực hiện các chỉ tiêu Nghị
quyết Quốc hội đề ra:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn vị
|
Chỉ tiêu Quốc hội
|
Ước thực hiện năm
2012
|
1
|
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
|
%
|
6-6,5
|
5,4-5,7
|
2
|
Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu
|
%
|
13
|
13
|
3
|
Tỷ lệ nhập siêu so
với
tổng kim
ngạch xuất khẩu
|
%
|
11-12
|
5,5
|
4
|
Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP
|
%
|
4,8
|
4,8
|
5
|
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so
với GDP
|
%
|
~33,5
|
34,0
|
6
|
Chỉ số giá tiêu dùng
|
%
|
<10
|
~7
|
7
|
Tạo việc làm
|
Triệu người
|
1,6
|
1,6
|
8
|
Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số
lao động đang làm việc trong nền kinh tế
|
%
|
46
|
46
|
9
|
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị
|
%
|
~4
|
3,51
|
10
|
Giảm tỷ lệ hộ nghèo
Riêng các huyện nghèo giảm
|
%
%
|
2
4
|
1,5-2
4
|
11
|
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
|
%
|
16,6
|
16,6
|
12
|
Số giường bệnh trên 1 vạn dân (không tính
giường trạm y tế xã)
|
Giường bệnh
|
21,5
|
21,5
|
13
|
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng được xử lý
|
%
|
79
|
83
|
14
|
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang
hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường
|
%
|
70
|
70
|
15
|
Tỷ lệ che phủ rừng
|
%
|
41
|
41
|
Như vậy, trong tổng
số 15 chỉ tiêu Quốc hội đề ra trong kế hoạch năm 2012, dự kiến có 01 chỉ tiêu
không đạt kế hoạch là tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP), 14 chỉ tiêu còn lại đều có triển vọng đạt và vượt kế
hoạch.
III. MỘT SỐ GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2012
Qua đánh giá tình hình và kết quả thực hiện
những tháng đầu năm, trong những
tháng cuối năm phải quyết tâm thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2012,
bao gồm: chủ động điều hành kiềm chế lạm phát ở mức khoảng 7-8% (mục tiêu Quốc hội đề ra là tăng dưới 10%), ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng ở mức hợp lý, phấn đấu đạt
mức cận dưới của kế hoạch đề ra là khoảng 6% và bảo đảm thực hiện các mục tiêu
an sinh xã hội theo kế hoạch đã đề ra từ đầu năm.
Để đạt được các mục tiêu
đó cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt
và có hiệu quả các giải pháp,
chính sách đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số
13/NQ-CP của Chính phủ, tập trung vào các nhóm giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Tập trung tháo gỡ
khó khăn, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tăng sức mua,
đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa nhưng không làm bất ổn kinh tế vĩ mô và lạm phát cao
trở lại.
Rà soát các chính
sách liên quan đến môi trường đầu tư để tháo gỡ khó khăn, tạo
mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích sản xuất đối với các lĩnh vực, sản phẩm
có lợi thế, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công
nghiệp hỗ trợ, các hoạt động dịch vụ, du lịch chất lượng cao. Kiểm soát chặt chẽ các loại giá, phí ảnh hưởng hoặc trực tiếp làm tăng
chi phí đầu vào của sản phẩm. Thực hành tiết kiệm triệt để, giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, cải tiến
mẫu mã, hình thức sản phẩm phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng.
Nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, nhất là các mặt hàng sản xuất từ nguyên
liệu trong nước. Thực hiện các biện pháp để duy trì đà tăng trưởng cao của các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất
khẩu, tạo nhiều việc làm như: gạo, cà phê, hải sản, cao su, dệt may, giầy dép,
hàng điện tử, máy tính, điện thoại và linh kiện,… Nâng cao chất lượng để tăng
giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thuỷ sản)
không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Bằng nhiều biện pháp linh hoạt
tranh thủ sự phục hồi từng bước của các thị trường chính, như: Hoa Kỳ, Nhật
Bản, EU để tăng kim ngạch xuất khẩu. Khai thác chiều sâu, chiều rộng thị trường
truyền thống cùng với thị trường có chung biên giới. Đẩy mạnh công tác thông
tin, dự báo với thị trường ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua
các rào cản kỹ thuật.
Kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu. Kiểm soát chất
lượng hàng nhập khẩu gắn với chống gian lận hàng hóa, hàng giả, hàng kém chất
lượng. Xác định mức độ ưu tiên tiếp cận ngoại tệ đối với các nhóm hàng không
thiết yếu, không khuyến khích nhập khẩu, hàng trong nước sản xuất được, đưa ra
quy định, nguyên tắc khi cho vay nhập khẩu. Xây dựng cơ chế chính sách cụ thể
để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mặt khác kiểm soát chặt chẽ lượng hàng
hoá nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn
kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng. Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện
pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Triển khai các chương trình khuyến
mại, kích thích tiêu thụ và tiêu dùng; phát triển thị trường trong nước, khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng về nông thôn; hỗ trợ các
doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho. Thắt chặt công tác quản lý,
kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp
biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây
sốt giá ảo;
bảo đảm chất lượng và giá cả các mặt hàng thiết yếu, nhất là giá sữa, giá thuốc
chữa bệnh cho người, thuốc bảo vệ động, thực vật, phân bón,... và giá cả nguyên
vật liệu là đầu vào cho hoạt động sản xuất.
2. Chủ động điều hành kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô.
a) Chính sách tiền tệ, tín dụng:
Điều hành chủ
động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ;
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân
hàng, nhưng không trở lại chính sách nới lỏng tiền tệ dẫn đến lạm phát cao. Đẩy
nhanh việc giảm lãi suất cho vay phù hợp với mức giảm chỉ số giá tiêu dùng. Ưu
tiên tín dụng đối
với doanh nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động. Tiếp
tục theo dõi sát diễn biến thị trường để có các biện pháp điều hành tỷ giá linh
hoạt phù hợp với các cân đối vĩ mô, hướng tới mục tiêu ổn định giá trị của VND.
Chủ động xây dựng phương án tái cơ cấu các ngân hàng thương mại, trong đó có
các biện pháp hỗ trợ thông qua công cụ chính sách tiền tệ. Kết hợp các biện
pháp quản lý hoạt động ngân hàng, thanh tra, giám sát ngân hàng và điều hành
chính sách tiền tệ để hạn chế tác động bất lợi của quá trình tái cơ cấu ngân
hàng đến an toàn hệ thống.
b) Về chính sách tài khóa:
Thực hiện chính sách tài khóa một cách hợp
lý, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với chính sách tiền tệ, tín dụng. Giữ mức bội
chi ngân sách không vượt quá chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua.
Thực
hiện miễn, giảm, gia hạn một số khoản thu ngân sách nhà nước theo Nghị quyết
của Quốc hội và Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ, như: gia hạn nộp thuế giá
trị gia tăng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm tiền thuê đất, gia hạn
nộp tiền sử dụng đất, miễn thuế môn bài đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản
xuất muối,…
c) Thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước, trái phiếu Chính phủ và khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh
tế:
Đẩy nhanh việc thực hiện và giải ngân vốn đầu
tư, nhất là đối với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ,
vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA.
Xem xét cho ứng trước kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2013 đối với các
công trình, dự án có khả năng hoàn thành trong năm 2012, 2013. Triển khai thực
hiện các biện pháp để huy động, bổ sung nguồn vốn đầu tư hạ tầng, kiên cố hoá
kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, trạm bơm điện phục vụ sản
xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và làng nghề ở nông thôn.
Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu để tăng tổng cầu, giảm hàng tồn kho
và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tăng cường thu hút vốn ODA, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, trong đó chú trọng thu hút làn sóng đầu tư mới, quy mô lớn,
công nghệ cao. Rà soát, sửa đổi hoặc xoá bỏ các rào cản đầu tư bất hợp lý, tạo
mọi điều kiện thuận lợi về hạ tầng, mặt bằng, nguồn nhân lực, thủ tục hành
chính,… nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư của
các thành phần kinh tế trong nước và đầu tư từ nước ngoài.
3. Bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền
vững, bảo đảm an ninh quốc phòng, tăng cường phòng chống tham nhũng.
Thực hiện các biện pháp tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động. Đặc biệt chú trọng đối với lao động mất việc
làm từ các doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, nhất là ở khu vực công
nghiệp tập trung, hộ gia đình thuộc diện giải tỏa, thu hồi đất sản xuất.
Đẩy mạnh các giải
pháp hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo, các xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai; hỗ trợ kịp thời,
không để xảy ra tình trạng người dân thiếu đói; tập trung nguồn lực thực hiện
hiệu quả, đúng tiến độ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2011 - 2015.
Tăng cường các
biện pháp kiểm tra, kiểm soát để nâng cao hiệu quả các chính sách an sinh xã
hội, hỗ trợ cho người nghèo, vùng chịu thiên tai,... Xử lý nghiêm các trường
hợp vi phạm, tham ô, trục lợi, lãng phí, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện
các chính sách an sinh xã hội. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phòng
chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
PHẦN THỨ HAI
KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
I. DỰ BÁO BỐI CẢNH
THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
Kinh tế thế giới năm 2013 được dự báo còn khó khăn nhưng nhiều khả năng sẽ có những chuyển biến
tích cực hơn so với năm 2012. Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2013 đạt khoảng
4,1% (năm 2012 dự báo tăng khoảng 3,5%), trong đó các nước phát triển tăng 2%,
các nước mới nổi và đang phát triển tăng 6%.
Kinh tế Châu Âu được dự báo sẽ tăng trưởng
0,2% trong năm 2012 và tăng lên 1,4% trong năm 2013; trong đó khu vực đồng Euro được
dự báo suy giảm 0,3% trong năm 2012 nhưng sẽ hồi phục nhẹ trong năm 2013 với
tốc độ tăng trưởng gần 1%. Với chỉ số niềm tin tiêu
dùng tăng, số người thất nghiệp giảm, thị trường chứng khoán phục hồi, và lần
đầu tiên có thặng dư ngân sách kể từ tháng 12/2008, kinh tế Mỹ được dự
báo sẽ có mức tăng trưởng tốt hơn năm 2011 và sẽ đạt 2,1% và 2,4% cho các năm
2012 và 2013, góp phần bù đắp cho sự suy giảm kinh tế của khu vực đồng Euro. Kinh tế Nhật Bản tiếp tục phục hồi với những dấu hiệu khả quan: Chỉ số
sản xuất, đặc biệt là ngành chế tác tăng; số đơn đặt hàng và doanh số bán lẻ tăng; GDP Quý I/2012 tăng 4,1%, cao hơn 1% so với Quý
IV/2011[9].
Tuy vậy, Nhật Bản vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như thâm hụt thương
mại và nợ quốc gia khá lớn[10]. Kinh tế Hàn Quốc sẽ tăng
trưởng khá với sự phục hồi mạnh mẽ của đầu tư tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực
xây dựng, và xuất khẩu tăng lên sau khi Hiệp định thương mại tự do với Mỹ được
ký kết.
Ở khu vực các nước đang phát triển châu Á,
tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2012 dự báo giảm xuống mức 8,2% do
phải điều chỉnh phù hợp với sự suy giảm nhu cầu nhập khẩu thế giới nhưng được
dự báo sẽ tăng trưởng cao hơn trong năm 2013 với tốc độ tăng khoảng 8,8%. Đây
sẽ là yếu tố tác động tích cực đến tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu
vực do nhu cầu nội địa của Trung Quốc đóng góp tới 60-70% sự phục hồi của Châu
Á. Các hoạt động tái thiết sau lũ lụt ở Thái Lan; chi tiêu Chính phủ tăng mạnh,
kiều hối dồi dào, và sự khởi động các dự án đối tác công tư ở Philippin; việc
triển khai thực hiện các dự án đầu tư trong kế hoạch chuyển đổi kinh tế ở
Malaysia sẽ là động lực cho sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia Đông Nam Á
này trong nửa cuối năm 2012 và năm 2013 với tốc độ tăng trưởng được dự báo đạt
5,4% trong năm 2012 và tăng lên 6,2% trong năm 2013. Các quốc gia châu Á có thu
nhập thấp được dự báo sẽ có tốc độ tăng trưởng khá trong năm 2013 với đóng góp
chủ yếu của ngành du lịch, kiều hối và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cải cách về
chính trị và kinh tế là động lực mới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn và
thúc đẩy tăng trưởng cao tại Myanmar.
Tăng trưởng thương mại thế giới năm 2013 được
dự báo duy trì ở mức khoảng 5,6%, tăng cao hơn so với mức 4% trong năm 2012.
Năm 2013, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được dự báo đạt 1.900 tỷ USD là
mức đỉnh cao trước cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới năm 2008. Giá
dầu thô bình quân năm 2013 dự báo sẽ có thể giảm so với năm 2012.
Tuy nhiên, những khó khăn thách thức còn rất
lớn. Nợ công cao và thâm hụt ngân sách ở châu Âu chưa được giải quyết triệt để,
vừa tiềm ẩn rủi ro tác động xấu đến sự phát triển khu vực và thế giới. Những
diễn biến xung đột chính trị cục bộ khu vực, thiên tai, dịch bệnh là những yếu
tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế thế giới và của nước ta.
Ở trong nước, với việc phối hợp hài hoà chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa cùng những giải pháp đồng bộ khác trong
những tháng cuối năm 2012 nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh có thể
làm khơi thông nguồn vốn, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong nước. Quá trình
thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế cũng như những tác động của quá trình này
cũng là yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và ổn định kinh tế Việt Nam
2013. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2013 có thể sẽ đạt mức cao hơn năm 2012.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn
thách thức. Kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định; áp lực tăng lạm phát vẫn còn
khá lớn; việc thực hiện các chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô sẽ gây những
khó khăn nhất định đối với tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiêu thụ gặp khó
khăn do sức mua chưa được phục hồi mạnh; việc mở rộng xuất khẩu ở các thị
trường lớn như Châu Âu,... gặp nhiều khó khăn do các nền kinh tế này tăng
trưởng chậm, thậm chí có thể rơi vào suy thoái và phải cạnh tranh gay gắt với
các nước xuất khẩu khác. Những rủi ro do thiên tai, bão lũ, dịch bệnh có thể
xảy ra ảnh hưởng đến sự phát triển và ổn định đời sống nhân dân.
II. MỤC TIÊU NHIỆM VỤ
VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH NĂM 2013
1. Mục tiêu tổng
quát:
Nâng cao chất lượng tăng trưởng gắn với tái
cơ cấu nền kinh tế đi đôi với việc tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm nền
kinh tế phát triển bền vững, tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Bảo đảm an
sinh xã hội
và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội.
2. Dự kiến các
chỉ tiêu chủ yếu của năm 2013:
a) Các chỉ tiêu kinh tế:
Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng khoảng 6-6,5%
so với năm 2012; GDP theo giá thực tế khoảng 3.302,7-3.357,2
nghìn tỷ đồng. Trong đó: Giá
trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 2,5-2,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng khoảng 6,6-7,3%; khu vực dịch vụ tăng khoảng 6,7-7%.
Dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2013 đạt khoảng 122-123 tỷ
USD,
tăng 12% so với năm
2012. Giữ tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch
xuất khẩu ở mức
dưới 10%.
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so
với GDP là 4,7%.
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội chiếm khoảng 33-34,6% GDP.
Chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng
tổng sản phẩm trong nước (GDP).
b) Các chỉ tiêu xã hội:
Tuyển mới đại học, cao đẳng chính quy
tăng 7%; trung cấp chuyên nghiệp tăng 6,7%; cao đẳng nghề và trung cấp nghề
tăng 6,1%.
Mức giảm tỷ lệ sinh: 0,2%o.
Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao
động, trong đó đưa 9 vạn lao động
đi làm việc ở nước ngoài.
Giảm 1,5-2% tỷ lệ hộ nghèo cả nước;
giảm 4% tỷ lệ hộ nghèo đối với các huyện nghèo so với cuối năm 2012.
Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy
dinh dưỡng xuống dưới 16%.
Số giường bệnh trên 1 vạn dân (không
tính giường trạm y tế xã): 22 giường.
Diện tích sàn nhà ở đô thị bình quân
đầu người: 23,6 m2/người.
c) Các chỉ tiêu môi trường:
Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ
sinh: 82%.
Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch:
80%.
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng được xử lý: 84%.
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất
đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường
là: 75%.
Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu
gom: 84%
Tỷ lệ che phủ rừng: 41,3%.
III. DỰ KIẾN MỘT SỐ
CÂN ĐỐI LỚN CỦA NỀN KINH TẾ TRONG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
1. Lao động và việc
làm:
Năm 2013, lực lượng lao động
cả nước có khoảng 53,15 triệu người, trong đó số lao động làm việc trong nền
kinh tế quốc dân khoảng 51 triệu người.
Dự kiến năm 2013 giải quyết
việc làm cho 1,6 triệu người, trong đó đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài 9 vạn người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị dự kiến ở mức 4%. Tỷ lệ lao
động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là 46%, công nghiệp và xây dựng là 23,5%, dịch
vụ là 30,5%.
2. Cân đối thu, chi
ngân sách nhà nước:
Dự kiến khả năng cân đối ngân sách nhà nước năm 2013 như sau:
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước
năm 2013 khoảng
824-867 nghìn tỷ
đồng, bằng khoảng 24,9-25,8% GDP; trong đó thu nội địa (không kể thu từ dầu
thô) khoảng 564,6-596 nghìn tỷ
đồng; thu từ dầu thô 92 nghìn tỷ
đồng; thu từ xuất nhập khẩu khoảng 162,6-174,4 nghìn tỷ đồng; thu viện trợ
không hoàn lại và quỹ dự trữ tài chính 4,8 nghìn tỷ đồng.
Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2013 khoảng
980-1.025 nghìn tỷ
đồng; trong đó chi đầu tư phát triển khoảng 196-205 nghìn tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước dự kiến
bằng khoảng 4,7% GDP.
3. Cân đối vốn
đầu tư phát triển:
Trên cơ sở cân đối tích luỹ tiêu dùng,
đồng thời với việc triển khai đồng bộ các giải pháp để thu hút nguồn vốn trong
và ngoài nước cho đầu tư phát triển, dự báo khả năng huy động nguồn vốn đầu tư
phát triển năm 2013 vào khoảng 1.115-1.155 nghìn tỷ
đồng, bằng khoảng 33-34,6% GDP. Dự
kiến huy động các nguồn vốn như sau:
- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước khoảng 196-205 nghìn tỷ
đồng, chiếm khoảng 17,6-17,7% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 45 nghìn tỷ
đồng, chiếm 3,9-4% tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước khoảng 61-63 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,5% tổng nguồn vốn đầu
tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp
nhà nước khoảng 120 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng
10,4-10,8% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn đầu tư của dân cư và doanh
nghiệp tư nhân khoảng
488-514 nghìn tỷ
đồng, chiếm 43,9-44,5% tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài dự kiến khoảng 190-193 nghìn tỷ
đồng, chiếm 16,7-17% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn khác dự kiến khoảng 15 nghìn tỷ
đồng, chiếm 1,3% tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội.
4. Cân đối
xuất nhập khẩu:
Năm 2013, tổng kim ngạch xuất khẩu dự
kiến đạt khoảng 122-123 tỷ USD, tăng
12% so với năm 2012, trong đó
xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) dự kiến khoảng 66-66,5 tỷ USD, chiếm
54% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tổng kim ngạch nhập khẩu dự kiến đạt khoảng
129-130 tỷ USD, tăng
12,2% so với năm
2012. Trong đó,
nhập khẩu của khu
vực
đầu tư nước ngoài đạt khoảng 65,8-66,3 tỷ USD, chiếm 51% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập
siêu năm 2013 tiếp tục
được duy trì ở mức dưới 10% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Dự kiến xuất khẩu dịch vụ năm 2013 là
10,5 tỷ USD, tăng 8,2% so với năm 2012; nhập khẩu dịch vụ là 12,9 tỷ USD, tăng
6% so với năm 2012; thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ là 2,4 tỷ USD.
5. Cán cân thanh toán
quốc tế:
Năm 2013, dự kiến cán cân thương mại
thâm hụt khoảng 4,44 tỷ USD, cán cân vãng lai thâm hụt khoảng 6,94 tỷ USD, cán
cân vốn thặng dư 12 tỷ USD, cán cân tổng thể thặng dư 4,56 tỷ USD.
6. Cân đối về điện:
Về
nguồn điện, năm 2013 với dự kiến sẽ đưa vào vận hành 2.940 MW nguồn điện mới và
khả năng nguồn điện có đến hết năm 2012 có thể đạt 26.380 MW, điện năng sản
xuất có thể đạt 135-150 tỷ Kwh.
Năm
2013, với mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5%, nhu cầu điện năm 2013
tăng khoảng 13%, nhu cầu điện thương phẩm năm 2013 khoảng 120 tỷ kWh, trong khi
đó điện sản xuất năm 2013 là khoảng 135 tỷ kWh.
Như vậy, nếu các dự án nguồn điện thực hiện đúng tiến độ
và các biện pháp tiết kiệm điện có hiệu quả thì có thể đáp ứng đủ nhu cầu điện
năm 2013. Tuy nhiên, các nguồn điện mới đi vào vận hành tập trung chủ yếu ở
miền Bắc và miền Trung nên cần tập trung thúc đẩy phát triển các nguồn điện khu
vực miền Nam và tối ưu hóa việc cung cấp điện, đề phòng tình trạng thiếu điện ở
khu vực này.
7. Cân đối về lương
thực:
Năm 2013, dự kiến kế hoạch gieo trồng
lúa cả năm cả nước là 7,61 triệu ha (bằng diện tích năm 2012), sản lượng lúa dự
kiến đạt 42,6 triệu tấn, được sử dụng cho các nhu cầu trong nước khoảng 27,7
triệu tấn, bao gồm để giống 0,8 triệu tấn, hao hụt và chăn nuôi 5,3 triệu tấn
và nhu cầu ăn của dân cư là 21,6 triệu tấn. Với tổng nguồn cung dự kiến đạt
42,6 triệu tấn lúa, sau khi trừ chi dùng nội địa 27,7 triệu tấn lúa, lượng lúa
hàng hoá có thể xuất khẩu khoảng 14,8 triệu tấn (tương đương 7,4 triệu tấn
gạo).
IV.
NHIỆM VỤ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH VÀ LĨNH VỰC
Với các mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ định hướng
phát triển ngành, lĩnh vực chủ yếu trong năm 2013 đề ra như sau:
1. Về phát triển các
ngành, lĩnh vực và huy động nguồn lực đầu tư phát triển:
Phát triển
các sản
phẩm
công nghiệp có lợi
thế cạnh tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu,
ưu tiên phát triển những sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng
công nghệ cao, công nghệ sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ
môi trường. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến,
chế tạo, năng
lượng tái tạo, công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp
sinh học và công nghiệp môi trường.
Thực hiện các giải
pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển nông thôn gắn
với phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
Khuyến khích tập
trung ruộng đất, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn với năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Phát triển chăn nuôi theo
hướng sản xuất công nghiệp, đảm bảo hợp vệ sinh an toàn thực phẩm. Rà soát và
phát triển giống cây trồng và giống vật nuôi quốc gia. Phát triển kinh tế rừng,
phát triển các vùng rừng nguyên liệu tập trung, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn
quốc gia. Khai thác có hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản và phát triển đánh bắt xa bờ
bảo đảm phát triển bền vững.
Đẩy mạnh xuất
khẩu nông sản có chất lượng, giá trị gia tăng cao, tạo việc làm, thu nhập cho
người lao động
đồng thời với việc bảo đảm vững chắc an ninh lương thực.
Tiếp tục
triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, có cơ chế chính
sách phù hợp để tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển mạnh các lĩnh vực
dịch vụ có giá
trị cao, tiềm
năng và lợi thế
lớn,
có hàm lượng khoa
học và
công nghệ cao,
mang
lại giá trị gia tăng cao.
Phát triển các dịch vụ như du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán
và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia mạng phân phối toàn
cầu; xây dựng thương hiệu hàng hoá và một số lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam.
Tập trung đẩy
mạnh xuất khẩu, nhất là những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; có biện pháp kiểm
soát nhập khẩu phù hợp với các quy định của WTO, giảm nhập siêu ở mức hợp lý. Giảm dần tỷ
trọng hàng xuất khẩu là nguyên liệu thô và sơ chế. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng không thiết yếu, các
mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Cấm
nhập khẩu thiết bị công nghệ lạc hậu. Tích cực, chủ động khai thác, mở
rộng thị trường, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác.
Tiếp tục đẩy
mạnh tái
cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, nâng
cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế,
các tổng công ty nhà nước. Tiếp tục rà soát, sắp
xếp các dự án đầu tư, tập trung đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh chính; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sửa đổi các văn bản
pháp luật có liên quan để xác định rõ cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước; có chế tài đủ mạnh, rõ ràng, minh bạch để quản lý, giám sát có hiệu
quả việc sử dụng
vốn và tài sản tại các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đảm bảo khu vực doanh nghiệp nhà nước thực
hiện tốt vai trò của mình trong nền kinh tế, đóng góp vào phát triển kinh tế -
xã hội tương xứng với nguồn lực hiện có.
Cải thiện môi
trường kinh doanh, hỗ
trợ đẩy
mạnh cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tăng cường cung cấp
thông tin hỗ trợ doanh nghiệp. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong giải quyết các thủ tục hành chính tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp.
Tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin doanh nghiệp giữa các cơ quan quản lý
nhà nước; thực hiện đồng bộ việc giám sát của các cơ quan quản lý chuyên ngành
về hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký thành lập.
Triển
khai thực hiện Luật Hợp tác xã (sửa đổi), ban hành các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật; tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo hướng tập
trung phục vụ hoạt động kinh tế và đời sống của thành viên, góp phần xoá đói
giảm nghèo bền vững, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội tại các địa
bàn cơ sở. Hỗ trợ thành lập mới, đào tạo, bồi dưỡng các bộ hợp tác xã, tổ hợp
tác; hỗ trợ tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ thành viên, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, khuyến công, khuyến
nông, khuyến ngư; tạo điều kiện để các hợp tác xã tiếp cận
các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng và từ Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã;
từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác tác xã và kinh tế thành viên.
Tiếp tục tăng cường thu
hút, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Tập trung
vốn nhà nước vào đầu tư đồng
bộ các công trình, dự án trọng yếu; ưu tiên đầu tư đẩy nhanh tiến độ các công
trình, dự án trọng
điểm, quan
trọng quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông
thôn mới.
Xây dựng chiến lược
thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, định hướng vào những lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, công nghiệp “xanh”, thân thiện với môi trường; lĩnh vực công nghệ cao;
chế biến sâu tài nguyên khoáng sản; đào tạo nguồn nhân lực; lĩnh vực tạo liên
kết với các khu vực kinh tế khác và liên kết vùng; những lĩnh vực, dự án có giá
trị gia tăng cao; lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, tham gia mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu… Nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài. Phát huy
vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển
đất nước.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, theo
dõi, đánh giá việc triển khai thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách.
2. Về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ:
Từng bước phát triển
giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và hội nhập
quốc tế đến năm 2020. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, quan tâm hơn
nữa đến vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghiên cứu và
ban hành bổ sung chính sách về giáo dục mầm non, giáo dục ở miền núi. Đổi mới
mạnh mẽ giáo dục đại học, cao đẳng theo hướng tăng tính tự chủ cho cơ sở giáo
dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng, mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề phù hợp với Quy
hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Coi trọng đào tạo nghề
cả về mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng. Nhân rộng các mô hình dạy nghề có
hiệu quả, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Thực hiện tốt công
tác xã hội hoá giáo dục để đảm bảo nhu cầu học tập của các đối tượng, nhất là
giáo dục mầm non.
Phát triển khoa học
và công nghệ phải gắn với nhu cầu đời sống kinh tế xã hội của đất nước, là nhân
tố quan trọng để tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là động lực cho
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ cơ chế, chính sách phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt
động khoa học - công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên nguồn
lực thực hiện các chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, phát triển công
nghệ cao, đổi mới công nghệ, phát triển thị trường khoa học - công nghệ, nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, phát triển tài sản trí tuệ, hỗ trợ
ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế
về khoa học - công nghệ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thu hút thêm các
nguồn vốn xã
hội hóa đầu tư cho khoa học và công nghệ để đạt mức trên 2% GDP vào năm 2020. Từng bước hoàn thiện
hệ thống chuẩn đo lường quốc gia, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia và
đánh giá sự phù hợp đạt chuẩn quốc tế phục vụ có hiệu quả việc nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020. Đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cung cấp
luận cứ khoa học cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
3. Tạo việc làm, giảm
nghèo và các lĩnh vực an sinh xã hội khác
Tập trung hỗ trợ, tạo
cơ hội cho hộ nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về hạ tầng phục vụ sản
xuất, đất đai, tín dụng, dạy nghề, tạo việc làm, khuyến nông - lâm - ngư, tiêu
thụ sản phẩm,... từ đó phát triển sản xuất, tự vươn lên thoát nghèo, khá giả;
từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Thực
hiện tốt các chính sách xã hội đã ban hành, đặc biệt là các chính sách trợ giúp
đối tượng xã hội nhằm hỗ trợ những người yếu thế, nghèo khó trong xã hội, tạo
thuận lợi để họ tự vươn lên hoà nhập cộng đồng.
Chú trọng tạo việc
làm ổn định, cải thiện môi trường và điều kiện lao động, tăng thu nhập và nâng
cao mức sống cho người lao động; giải quyết kịp thời các chế độ an sinh xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp đối với lao động mất việc làm.
Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động; tăng cường các
hoạt động về thông tin thị trường lao động, hoạt động tư vấn, giới thiệu việc
làm; tiếp tục xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động phục vụ cho việc
hoạch định các chính sách thị trường lao động cũng như quản lý cung cầu lao
động; tăng cường giám sát và điều tiết quan hệ cung cầu lao động. Tăng cường
các hoạt động dạy nghề và hỗ trợ người lao động học nghề để người lao động mất
việc làm có điều kiện học nghề phù hợp.
Theo dõi sát tình hình thiếu đói giáp hạt, thiệt hại do
thiên tai để chỉ đạo kịp thời hoạt động cứu trợ tại địa phương và đề xuất các
giải pháp khắc phục hậu quả, đảm bảo hỗ trợ kịp thời, không để xảy ra tình
trạng người dân thiếu đói; tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội để khắc
phục hậu quả, bảo đảm nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Tiếp tục nâng cao
chất lượng công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; giảm quá tải
tại bệnh viện, nhất là tại các bệnh viện đầu ngành tuyến trung ương. Chủ động
triển khai công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh lớn xẩy ra. Triển khai có
hiệu quả các biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống ngộ độc
thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội và bảo hiểm y tế đặc biệt là nhóm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, từng bước
thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới cơ chế giá dịch vụ khám chữa bệnh
đồng bộ với đổi mới về cơ chế đối với các dịch vụ công cho y tế. Đẩy mạnh xã hội hóa
và đa dạng hoá nguồn lực đối với các lĩnh vực y tế.
Tăng cường quản lý nhà nước về sản xuất, nhập khẩu, lưu thông, cung ứng dược
phẩm. Phát triển công nghiệp sản xuất thuốc,
chú trọng sản xuất thuốc từ dược liệu, vắcxin, sinh phẩm y tế; bảo tồn và phát triển nguồn cây
thuốc, quy hoạch và phát triển các vùng dược liệu.
Phát triển toàn diện,
đồng bộ các lĩnh vực thông tin, văn hoá, thể thao. Phát huy các giá trị
tốt đẹp và truyền thống văn hóa dân tộc,
đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa thế
giới. Triển khai kế hoạch, chương trình
phát triển văn hoá gắn với phát triển du lịch và các hoạt động kinh tế. Đẩy
mạnh xã hội hóa và đa dạng hoá nguồn lực đối với lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao. Đẩy mạnh phát triển thể dục thể thao quần
chúng và thể thao thành tích cao. Tổ chức tốt các sự kiện thể thao, đặc biệt là
chuẩn bị sự kiện Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ 7 tại Nam Định năm 2014. Tăng cường quản lý các lễ hội, hoạt động văn hoá, thông
tin, thể thao; hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách nhà
nước để tổ chức lễ hội. Tiếp tục nâng cao chất lượng các hoạt
động thông tin, báo chí, xuất bản; tăng phủ sóng phát thanh, truyền hình tiếng
dân tộc thiểu số tới các vùng sâu, vùng xa miền núi.
Xây dựng môi
trường sống an toàn, thân thiện với trẻ em; bảo đảm thực hiện quyền trẻ em đối với các
cấp, các ngành. Ưu tiên hỗ trợ bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, trẻ em nghèo nhằm giảm bất bình đẳng về cơ hội phát triển của trẻ em.
Đưa các nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội các cấp, các ngành.
Xây dựng môi
trường phát triển toàn diện cho thanh niên đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Từng bước bảo
đảm bình đẳng giới trong mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội;
thu hẹp khoảng cách giới, xóa dần định kiến về giới trong đời sống xã hội.
Tập trung giải quyết
những bức xúc trong nhân dân, nhất là trong việc giải toả đền bù thu hồi đất và
những tiêu cực trong y tế, giáo dục, đào tạo, an toàn giao thông, ùn tắc giao thông ở
các thành phố lớn.
Bảo đảm trật tự an toàn xã hội; tăng cường phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
4. Về tài
nguyên, môi trường,
ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững:
Tiếp
tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ sở pháp lý về
quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Tăng cường
hiệu quả, hiệu lực quản lý để bảo vệ, khai thác hợp lý, hiệu quả đất
đai, tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ
tài nguyên môi trường. Xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm quy định về bảo vệ môi trường; ngăn chặn việc khai thác trái phép, khai
thác lãng phí các nguồn tài nguyên, thiên nhiên. Giảm thiểu mức độ gia
tăng ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức và trách nhiệm của toàn xã hội về bảo vệ môi trường. Chủ động đẩy mạnh hợp
tác quốc tế, nhất là việc quản lý, khai thác các dòng sông với các nước có liên
quan.
Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện Chương trình chống
thất thoát, thất thu nước sạch, xử lý chất thải rắn; xây dựng quy hoạch hệ
thống thoát nước, nước thải, trước hết là các khu dân cư, khu công nghiệp.
Tiếp tục kiểm tra, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất
sửa đổi, bổ sung phù hợp, kịp thời các quy định, cơ chế, chính sách bảo đảm mục
tiêu bảo vệ môi trường, sử dụng khoáng sản, năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Tiếp tục thực hiện
đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng; tăng cường
bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; khuyến khích phát triển nhanh rừng sản
xuất. Có cơ chế, chính sách phù hợp để bảo đảm quyền lợi và khuyến khích nhân
dân tham gia trồng, bảo vệ và khai thác rừng một cách hợp lý, hiệu quả. Ngăn chặn có
hiệu quả nạn phá rừng;
thực hiện tốt phòng chống cháy rừng.
Tiếp tục tập trung tổ
chức triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu, nhất là nước biển dâng, ưu tiên nguồn lực cho các vùng xung yếu, ven
biển.
Xây dựng các chương
trình hành động thực hiện Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 - 2020
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4
năm 2012. Triển khai thực hiện các nhiệm vụ nêu trong Chiến lược tăng trưởng
xanh. Tổ chức huy động và thực hiện có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện các
chương trình.
Tiếp tục nâng cao năng
lực dự báo
thông qua đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cho các cơ sở nghiên
cứu, dự báo về thiên tai, biến đổi khí hậu; nâng cao năng lực dự báo thời tiết,
khí tượng thủy văn phục vụ sản xuất và đời sống; ứng phó có hiệu quả
với các thảm họa thiên nhiên. Hoàn thiện kế hoạch
hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Thực hiện đầy
đủ các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu mà Việt Nam đã ký kết.
5. Về quốc
phòng, an ninh:
Tiếp tục tập trung
thực hiện nhiệm vụ tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nâng cao chất lượng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân trong tình hình mới. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội, quan tâm đặc biệt đến các vùng,
địa bàn trọng điểm về an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Phát triển kinh tế xã hội kết hợp chặt chẽ với tăng cường củng cố
quốc phòng - an ninh. Tập trung hoàn
thành phân giới, cắm mốc biên giới đất liền bảo đảm an ninh biên giới đất liền và
an ninh, an toàn trên biển; nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biên giới và chủ
quyền lãnh thổ, biển đảo.
6. Thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ:
Tăng cường hợp
tác quốc tế
và hội nhập thế giới, tạo môi trường hòa bình, ổn định và tranh thủ mọi nguồn
lực từ bên ngoài để phát triển đất nước. Xây dựng và tiếp tục thực hiện các chương
trình hành động triển khai quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược giữa
Việt Nam và một số quốc gia, vùng lãnh thổ. Nâng cao hiệu quả hội nhập sâu rộng
với các nước trên thế giới và khu vực, từng bước tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu. Qua đó mà nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
V.
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU
Để hoàn thành các mục tiêu, định hướng phát triển của nền
kinh tế trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, cần tập trung thực
hiện tốt các giải pháp chính sách chủ yếu sau đây:
1. Về ổn định kinh tế vĩ mô:
Kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa để bảo đảm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô vững
chắc và sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong trung và dài hạn.
a) Thực hiện
chính sách tiền tệ chặt
chẽ, thận
trọng;
sử dụng chủ động, linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện
kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm phát triển
bền vững.
Có cơ chế phù hợp để
giảm lãi suất vay; tăng khả năng vay vốn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ và khu
vực nông nghiệp, nông thôn.
Điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối
linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình
cung - cầu ngoại tệ, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa trong nước, khuyến khích
xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ
ngoại hối nhà nước. Tăng cường quản lý hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường
ngoại tệ và thị
trường vàng. Tiếp tục thực hiện cơ
cấu lại các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính khác; bảo đảm an
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; từng bước phát triển thị trường mua bán nợ.
b) Thực hiện
chính sách tài khóa phối
hợp hài hoà với chính sách tiền tệ trong việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh
tế vĩ mô và phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng. Đẩy mạnh và đa dạng
hoá các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho cộng đồng
xã hội. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc kê khai nộp thuế. Đẩy mạnh
công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Kiểm soát chặt
chẽ và minh bạch thu,
chi
ngân sách nhà nước, đầu tư công,
bao gồm đầu tư từ
ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư của Nhà nước và đầu tư
của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao chất lượng công tác lập dự toán ngân
sách nhà nước; lập dự toán thu từ đất sát với thực tế.
Tiếp tục rà
soát, hoàn thiện thể chế, thực hiện quản lý, giám sát chặt chẽ và cơ cấu lại nợ
công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia, bảo đảm dư nợ trong giới hạn an toàn, giảm thiểu
nghĩa vụ nợ và hạn chế rủi ro; hạn chế nợ dự phòng, kiểm soát chặt chẽ các khoản
vay về cho vay lại và bảo lãnh của Chính phủ; giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ
nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn; tăng cường quản lý,
kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay để tạo nền tảng vững chắc
cho an toàn tài chính quốc gia.
Rà soát các quy định
về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu công trình để tạo thêm điều
kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Bố trí nguồn
trả nợ các khoản vay nước ngoài đến hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.
Thực hiện đầy đủ
và nhất quán nội dung Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách và vốn trái phiếu
chính phủ; việc phê duyệt dự án và bố
trí vốn đầu tư phải đảm bảo vốn đầu tư phải được bố trí tập trung để hoàn thành dự án trong
thời gian sớm nhất nhằm giảm thất thoát lãng phí
và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các dự án đã được quyết định đầu tư phải thực hiện
đúng theo mức vốn kế hoạch được giao, không làm đọng nợ xây dựng cơ bản. Mọi
trường hợp bổ sung vốn, điều chuyển vốn trong nội bộ ngành, lĩnh vực phải được
cơ quan có thẩm quyền giao vốn chấp thuận. Đối với vốn trái phiếu chính phủ,
trong giai đoạn 2013 -
2015 không bổ sung thêm dự án mới;
đồng thời, phải rà soát, lựa chọn và sắp xếp lại dự án đã
có trong danh mục sử dụng trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 2011 - 2015
và kế hoạch năm 2013 theo các nguyên tắc: tập trung vốn
cho các dự án đã hoàn thành và đã bàn giao đưa vào sử dụng; ưu tiên bố trí vốn
cho các dự án dự kiến hoàn thành trong năm 2013 - 2015; còn lại các dự án không bố trí được vốn, thì chuyển sang thực hiện đầu
tư theo hình thức khác, hoặc huy động vốn đầu tư hợp pháp từ các nguồn khác để
thực hiện hoặc tạm thời đình hoãn, chuyển sang giai đoạn sau năm 2015.
c) Thực hiện
nhất quán chủ trương quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước đối với giá điện, than, xăng dầu, giá dịch vụ công theo lộ trình và mục
tiêu kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội hàng năm
của Quốc hội và Chính phủ; đảm bảo công khai minh bạch trong điều hành giá các
mặt hàng Nhà nước định giá để tạo sự đồng thuận trong dư luận xã hội; đồng thời
giám sát các hành vi lạm dụng vị thế có thị phần lớn trên thị trường để nâng
giá, giảm giá hoặc giảm chất lượng của các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ trên; thực hiện các biện pháp hỗ trợ hộ nghèo, đối tượng chính sách
chịu tác động lớn khi Nhà nước điều chỉnh giá một số mặt hàng theo cơ chế thị
trường. Tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, đảm bảo chất lượng và giá cả
các mặt hàng, sản phẩm thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống, sức khoẻ nhân dân.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại,
tiếp tục có giải pháp hỗ trợ phù hợp đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực,
có lợi thế, có thị trường và có khả năng cạnh tranh; tăng cường kiểm định chất
lượng hàng xuất khẩu… đồng thời có các giải pháp linh hoạt nhằm tranh thủ cơ
hội tăng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng và thị trường đang có triển
vọng phục hồi. Tập trung phát triển thị trường trong nước, nhất là hỗ trợ các
doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho, đổi mới hệ thống thu mua,
tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn.
Tăng
cường và nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường, thường xuyên cập nhật,
phổ biến kịp thời thông tin về thị trường thế giới, nhất là những thị trường và
mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, những thay đổi về chính sách, việc áp dụng các
biện pháp bảo hộ của nước ngoài; có các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống thương vụ; đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến
thương mại và củng cố, mở rộng hoạt động của các cơ quan xúc tiến thương mại
tại nước ngoài; tăng cường hoạt động quảng bá và bảo hộ thương hiệu xuất khẩu
của Việt Nam tại nước ngoài; cảnh báo sớm nguy cơ hàng xuất khẩu của Việt Nam
bị kiện chống phá giá, chống trợ cấp, tự vệ để chủ động đối phó, ngăn chặn.
Tiếp tục tăng
cường, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là những biến động
về tình hình chính trị, kinh tế, tài chính thế
giới. Thực hiện tốt cơ chế phối hợp trong thực hiện công tác
phân tích dự báo. Chủ động xây dựng các phương án ứng phó với những
biến động của tình hình kinh tế thế giới tới nền
kinh tế trong nước
trong mọi tình huống.
2. Thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu nền kinh
tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh.
Thực
hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư. Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế phân cấp quản lý đầu tư
theo hướng vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội của cả nước, của ngành, vùng,
vừa bảo đảm lợi ích của địa phương cả trong ngắn, trung và dài hạn. Tổ chức
triển khai có hiệu quả kế hoạch đầu tư trung hạn theo hướng xác định
cụ thể lĩnh vực ưu tiên đầu tư của nhà nước. Trước hết là tập trung
đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, và phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và các ngành cần thiết
cho phát triển kinh tế - xã hội mà tư nhân không đầu tư; đổi mới cơ chế quản lý
để đảm bảo
các dự án có hiệu quả kinh tế - kinh tế xã hội cao nhất trong các lĩnh vực ưu
tiên đầu tư sẽ được lựa chọn và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả nhất.
Đồng
thời, có cơ chế đặc biệt khuyến khích tư nhân đầu tư, nhất là tư nhân
trong nước đối với các
ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân chưa muốn hoặc chưa có khả năng đầu
tư; Nhà nước thu hẹp phạm vi hoạt động, dành không
gian thích đáng cho kinh tế tư nhân. Đổi
mới cơ chế khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các doanh
nghiệp
theo hướng tập trung khuyến khích cho một vài ngành, vùng quan trọng.
Trên cơ sở phân loại các tổ chức tín dụng (trừ các ngân
hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại Nhà nước nắm cổ phần chi
phối), triển khai tái cơ
cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém có hiệu quả trên bốn nội dung gồm lành mạnh hóa tài chính, cơ cấu lại danh mục các hoạt động, cơ cấu lại hệ
thống quản trị và cơ cấu lại pháp nhân và sở hữu. Tất cả các tổ chức tín dụng còn lại đều
phải thực hiện tái cơ cấu toàn diện về tài chính, hoạt động và quản trị theo
các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể
của từng tổ chức tín dụng.
Việc tổ chức triển khai tái cơ cấu các tổ chức tín dụng cần đảm bảo việc không để xảy ra đổ vỡ và mất
an toàn hoạt động ngân hàng, tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc của thị trường và
tự nguyện của các bên có liên quan; đảm bảo chi trả đầy đủ và kịp thời cho
người gửi tiền; đồng thời, giới hạn đến mức thấp nhất tổn thất, chi phí xử lý
những vấn đề của hệ thống các tổ chức
tín dụng.
Đồng thời, triển khai tái cơ cấu thị trường
chứng khoán và các định chế tài chính có hiệu quả trên bốn nội dung gồm cơ
cấu lại, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng hàng hoá; cơ cấu lại các nhà đầu
tư; sắp xếp lại và nâng cao năng lực trên tất cả các mặt của các tổ chức kinh
doanh chứng khoán
nhằm tạo
ra một thị trường giao dịch chứng khoán thống nhất với tiêu chí niêm yết, giao
dịch, công bố thông tin theo chuẩn mực chung và một hệ thống quản trị điều
hành, quản trị rủi ro thống nhất.
Tiếp
tục triển khai phân loại các doanh nghiệp Nhà nước, xác định cụ thể danh mục
doanh nghiệp nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% và doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh
nghiệp sẽ giải thể hoặc cho phá sản theo Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04
tháng 3 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, phân loại doanh
nghiệp nhà nước. Hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá và kế hoạch thoái vốn ở các
doanh nghiệp đã cổ phần hoá ở các ngành, lĩnh vực nhà nước không cần tiếp tục
nắm giữ cổ phần hoặc cổ phần chi phối, trước hết là lĩnh vực dịch vụ, nhà hàng,
khách sạn, du lịch,...
Thực hiện sắp
xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước theo ngành, lĩnh vực kinh doanh không
phân biệt cấp, cơ quan quản lý và chuyển các doanh nghiệp không đủ điều kiện
hạch toán kinh doanh thành đơn vị sự nghiệp.
Tiến
hành việc cơ cấu
lại ngành nghề kinh doanh và tổ chức quản lý đối với từng tập đoàn và tổng công ty nhà nước trên cơ sở xác
định cụ thể vai trò, nhiệm vụ của từng tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Xây dựng,
bổ sung sửa đổi chiến lược phát triển, xác định cụ thể mục tiêu chiến lược và
các chỉ tiêu đo lường kết quả thực hiện mục tiêu chiến lược tương ứng đối với
từng tập đoàn, tổng công ty. Từ
đó, các tập đoàn,
tổng công ty xác định phạm vi ngành nghề kinh doanh chính và các ngành
nghề hỗ trợ liên quan. Tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức
quản lý để phát triển các ngành nghề kinh doanh chính, đảm bảo các tập đoàn, tổng công ty
trở thành doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và có năng lực cạnh tranh hàng
đầu trong các ngành, lĩnh vực có liên quan. Đồng thời, đối với các ngành kinh doanh không liên quan, nhất là ngân
hàng, tài chính, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, thì các tập đoàn, tổng
công ty tiến hành xây
dựng kế hoạch và lộ trình thoái
vốn nhằm đạt được mục
tiêu này trước
năm 2015.
Trên
cơ sở xác định lại các ngành, nghề kinh doanh của
mình, các tập
đoàn, tổng công ty bắt
đầu cơ cấu lại
hoạt động kinh doanh, phân bố lại các nguồn lực và đổi mới, nâng cao hiệu lực
quản trị nội bộ và hiệu quả quản lý nhằm
xây dựng phương
án và thực hiện tổ chức lại sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; tái cơ cấu các doanh nghiệp thành viên, tái cơ cấu danh mục
đầu tư tại các công ty liên kết theo hướng tập trung chuyên môn hoá, phân công
phối hợp và bổ sung trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty; khắc phục đầu tư dàn
trải, phân tán và cạnh tranh nhau trong nội bộ từng tập đoàn, tổng công ty. Đồng thời, trên cơ sở rà soát, đánh giá lại danh mục
các dự án đầu tư; đình hoãn hoặc chuyển giao các dự án chưa cần thiết, dự án
ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, tập trung vốn đầu tư và hoàn thành một cách
sớm nhất các dự án thật sự cần thiết và hiệu quả.
Điều
chỉnh cơ cấu ngành kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu của đổi mới mô hình tăng trưởng
đi đôi với nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh và chuyển dịch
cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Định hướng điều chỉnh cơ cấu
ngành là lấy chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ theo hướng tăng dần tỷ trọng phân ngành có giá trị gia tăng cao, có khả
năng cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh để chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hóa và xuất khẩu.
Đối
với nông nghiệp, phát triển một số vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh
phục vụ xuất khẩu, gắn kết các trang trại cung cấp nguyên liệu với hệ thống các
nhà máy chế biến và hành lang tiếp thị để kết nối với chuỗi toàn cầu đối với
các sản phẩm có lợi cạnh tranh
như cà phê, cao
su, cacao, hạt tiêu, hạt điều ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ; chè ở Trung du, miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên; cá da trơn, lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long; tôm
và hải sản ở duyên hải Miền Trung, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; khoai lang, khoai tây ở Đồng bằng
Sông Hồng;... Đối với nhóm sản phẩm có nhu cầu nội
địa lớn nhưng mức độ cạnh tranh trung bình như gia cầm, trứng, thịt lợn, cây ăn
quả,... thì tiếp tục duy trì quy mô và phương thức sản xuất
đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng.
Đối với công nghiệp, thực hiện
tái cơ cấu sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị
mới, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản
phẩm; từng
bước chuyển
từ gia công, lắp ráp là chủ yếu sang chế tạo và chế tác. Bước đầu phát triển
công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn.
Đối với lĩnh vực dịch
vụ, từng bước phát triển
lĩnh vực dịch vụ với cơ cấu đa dạng về loại hình dịch vụ và trình độ phát
triển, gồm dịch vụ phát triển kinh doanh, dịch vụ phục vụ tiêu dùng, dịch vụ
thông thường thâm dụng lao động và dịch vụ hiện đại công nghệ cao, có giá trị
gia tăng cao. Bước
đầu hình
thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch với sản phẩm du lịch chất lượng cao, có
thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, có năng lực cạnh tranh tầm khu
vực và quốc tế. Tiếp
tục nâng cao
hơn nữa tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng của các ngành, lĩnh vực chất lượng cao.
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy
mạnh ứng dụng khoa học công nghệ
Tiếp
tục triển khai có hiệu quả Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Đặc biệt tại các khu kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao, cần chủ động đào tạo và cung ứng, đáp ứng nhu cầu nhân lực về số
lượng, chất lượng theo ngành nghề của doanh nghiệp hoạt động tại các khu này;
trong đó chú
trọng việc phối hợp, liên kết trong đào tạo; từng bước nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo ở tất cả các cấp, gắn chặt với nhu cầu của ngành, địa phương và
toàn xã hội; đồng thời
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trong làm việc và sinh
hoạt.
Tiếp
tục triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011 - 2020
và thực hiện tốt lộ trình của Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích phát triển các hình thức
liên kết giữa cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo; tăng cường đào tạo thông
qua hợp đồng đào tạo; điều chỉnh cơ cấu đào tạo phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế, xã hội.
Tiếp
tục triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ giai đoạn 2011 - 2020. Đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình phát
triển sản phẩm quốc gia. Đẩy mạnh chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công
nghệ trong phát triển sản xuất nông nghiệp.
Xây
dựng và triển khai phát triển các hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, đặc
biệt là dịch vụ thông tin, tư vấn, môi giới, đánh giá, thẩm định và giám định
công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Phát
triển và kiện toàn hệ thống các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, các
trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, các quỹ phát triển khoa học và
công nghệ; thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ, các loại hình
chợ công nghệ và thiết bị, các sàn giao dịch điện tử; hình thành các trung tâm
giao dịch công nghệ tại các vùng kinh tế lớn.
4. Đảm bảo an sinh xã
hội gắn với giảm nghèo bền vững
Nghiên
cứu và ban hành chương trình hành động để triển khai có hiệu quả Nghị quyết
Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 -
2020. Tập trung nguồn lực thực hiện có hiệu quả, đúng tiến độ các chương trình mục
tiêu quốc gia trong các lĩnh vực xã hội. Tiếp
tục tích cực đàm
phán với các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ, tổ chức nước ngoài để huy động các nguồn lực bên ngoài, vay vốn ưu đãi để bổ sung nguồn vốn phục vụ mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, tạo
việc làm, cho vay
học sinh, sinh viên, cho vay hộ nghèo và các mục tiêu an sinh
xã hội khác.
Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số
80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững
thời kỳ 2011 - 2020. Tiếp tục thực hiện đồng bộ và hiệu quả các chương trình,
dự án về giảm nghèo nhằm bảo đảm giảm nghèo nhanh và bền vững, đặc biệt đối với
các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, an toàn khu. Đẩy mạnh triển khai thực
hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; giải quyết nhà ở cho các nhóm đối
tượng gặp khó khăn về chỗ ở.
Đa dạng hóa các hình thức, các mô hình
trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội. Giáo dục nâng cao nhận thức và thực hiện
bình đẳng giới. Nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Rà soát, quy
hoạch, đầu tư các cơ sở cai nghiện và quản lý sau cai nghiện; các cơ sở phục
hồi chức năng, nuôi dưỡng, điều dưỡng, chăm sóc và tư vấn cho người có công,
các đối tượng chính sách xã hội; có chính sách hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng.
Thực
hiện đầy đủ các chính sách, chế độ ưu đãi theo Pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng, chính sách đối với thanh niên xung phong, chính sách trợ cấp xã
hội. Đẩy nhanh việc giải quyết các trường hợp còn tồn đọng về xác nhận, công
nhận người có công để những người thực sự có công với cách mạng được hưởng
chính sách ưu đãi của nhà nước. Tiếp tục nghiên cứu nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ
cấp ưu đãi người có công phù hợp với lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu.
Đẩy mạnh việc tu bổ nghĩa trang, tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ, các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa. Đến hết năm 2013, hỗ
trợ giải quyết cơ bản về nhà ở đối với hộ người có công đang gặp khó khăn về
nhà ở.
Triển khai thực hiện có hiệu quả các
chính sách dân tộc như chính sách đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, chính sách di dân, tái định cư cho đồng bào du
canh, du cư, trung tâm cụm xã, Dự án hỗ trợ giảm nghèo ở các xã, thôn bản đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi thuộc Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện
chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù cho các vùng dân tộc, miền núi
giai đoạn 2011 - 2015.
5.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
Tổ chức thực hiện có
hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -
2020. Trong đó, cải cách hành chính gắn kết chặt chẽ với việc xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tiếp tục triển khai đơn giản hóa
thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xã
hội hóa một số dịch vụ công gắn với tinh giản bộ máy tổ chức, biên chế, tái cấu
trúc nền tài chính công. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước gắn với việc đổi mới phương thức điều hành
của hệ thống hành chính, tạo sự công khai minh bạch trong công tác quản lý nhà
nước.
Nghiên cứu, xây dựng
khung pháp luật đồng bộ với quá trình tái cơ cấu kinh tế. Tiến hành sửa đổi
Hiến pháp. Bước đầu triển khai việc nghiên cứu, sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân theo hướng bỏ Hội đồng nhân dân
cấp quận, huyện, phường.
Tiếp tục rà soát điều
chỉnh lại cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả bảo đảm sự điều hành tập trung, thống nhất,
thông suốt có hiệu lực từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở; tạo chuyển biến
mạnh về cải cách hành chính, đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phân định
rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà
nước, của cơ quan nhà nước ở từng cấp. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý
thống nhất về quy hoạch và định hướng phát triển.
Hoàn thiện
quy chế quản lý cán bộ, công chức theo hướng xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm,
quyền lợi đối với các công chức, viên chức. Nâng cao trình độ, năng lực cho đội
ngũ công chức, viên chức cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị.
Bổ sung, sửa đổi một
số chính sách cần và có thể điều chỉnh ngay về bảo hiểm xã hội, chế độ tiền
lương, trợ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, hưu trí và
người có công nhằm sớm khắc phục những bất hợp lý nổi cộm hiện nay trên cơ sở
khả năng cân đối ngân sách. Ưu tiên điều chỉnh tiền lương cho cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang gắn với việc khắc phục tình trạng quá
nhiều loại phụ cấp; soát xét lại chế độ tiền lương trong các doanh nghiệp nhà
nước, khắc phục tình trạng bất hợp lý, chênh lệch quá lớn giữa cán bộ quản lý
và người lao động; tiền lương, thu nhập không gắn với kết quả sản xuất kinh
doanh.
Nâng cao hiệu quả
giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội. Tăng cường
công tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc biệt trong
các lĩnh vực quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài sản của Nhà
nước. Xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm để củng cố lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
6. Đổi mới trách
nhiệm giải trình của chính quyền các cấp và tăng cường sự tham gia của người
dân trong xây dựng và giám sát các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội
Đổi mới và hoàn thiện
chế độ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước, cơ
quan Đảng trước nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở;
hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát
công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về
quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng. Đẩy mạnh công
tác thông tin tuyên truyền; tăng cường các thông tin chính thức một cách công
khai, minh bạch, kịp thời về tình hình và các chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước.
VI.
TIẾN ĐỘ TRIỂN KHAI XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
Các nội dung phân
công, quy trình, tiến độ và nhiệm vụ xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2013 của các bộ, ngành, địa phương được thực hiện theo Chỉ thị số 19/CT-TTg
ngày 18 tháng 6
năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Dự toán
ngân sách nhà nước năm 2013 và Kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước 3 năm 2013 -
2015.
Cụ thể như sau:
- Ngày 04 tháng 7 năm 2012, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư tổ chức Hội nghị ngành Kế hoạch và Đầu tư để hướng dẫn xây dựng Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và Kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước 3
năm 2013 - 2015.
- Các bộ, ngành, địa
phương căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ và Khung hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và điều
kiện của bộ, ngành, địa phương mình, tiến hành xây dựng Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2013, gửi báo cáo đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20
tháng 7 năm 2012.
- Trong tháng 8
năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho ý kiến về Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2013 của các bộ, ngành, địa phương và tiến hành tổng hợp Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 của cả nước.
- Trước ngày 10 tháng 9 năm 2012, các Bộ, ngành, địa phương, tiếp thu ý kiến của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan
liên quan, hoàn chỉnh Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2013 gửi lại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Trong tháng
9 năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Chính phủ Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2013 để Chính phủ cho ý kiến, hoàn chỉnh, trình Quốc hội theo
quy định.
- Trước ngày 20 tháng 11 năm 2012, căn cứ các Nghị quyết
của Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ giao chỉ
tiêu Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, các địa phương, các cơ quan, đơn vị khác./.
PHỤ LỤC 1
HỆ THỐNG BIỂU MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI NĂM 2013 CỦA
CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
(Kèm theo công văn số 4723/BKHĐT-TH ngày 29 tháng 6 năm 2012)
Biểu 1: Một số chỉ tiêu tổng hợp
Biểu 2: Các chỉ tiêu sản xuất nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản
Biểu 3: Các chỉ tiêu sản xuất công
nghiệp và xây dựng
Biểu 4: Các chỉ tiêu dịch vụ
Biểu 5: Các chỉ tiêu xuất khẩu, nhập
khẩu
Biểu 6: Cân đối ngân sách nhà nước
Biểu 7: Cán cân thanh toán quốc tế
Biểu 8: Các chỉ tiêu tiền tệ
Biểu 9: Các chỉ tiêu xã hội
Biểu 10: Các chỉ tiêu giáo dục và đào
tạo
Biểu 11: Các chỉ tiêu môi trường
Biểu 12: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Biểu 13: Chỉ tiêu thực hiện chương
trình mục tiêu quốc gia
Biểu 14: Năng lực mới tăng thêm
Biểu 15: Danh mục các dự án quy hoạch
PHỤ LỤC 2
HỆ THỐNG BIỂU MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI NĂM 2013 CỦA
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
(Kèm theo công văn số 4723/BKHĐT-TH ngày 29 tháng 6 năm 2012)
Biểu 1: Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
Biểu 2: Các chỉ tiêu nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ
Biểu 3: Các chỉ tiêu xã hội
Biểu 4: Các chỉ tiêu môi trường và
phát triển bền vững
Biểu 5: Các chỉ tiêu phát triển doanh
nghiệp và kinh tế tập thể
Biểu 6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Biểu 7: Danh mục các dự án quy hoạch
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|