Kính gửi: Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Căn cứ quy định tại Điều 92 và Điều
93 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đã có công văn số 4155/BKHĐT-ĐTNN ngày 01 tháng 6 năm 2023 hướng dẫn các Bộ,
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng Chương trình
xúc tiến đầu tư (XTĐT) năm 2024. Trên cơ sở báo cáo, đề xuất của UBND các địa
phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến về chương trình xúc tiến đầu tư năm
2024 như sau:
1. Đánh giá kết quả thực hiện chương
trình XTĐT 11 tháng năm 2023
1.1. Kết quả hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài
nói chung
Trong những tháng đầu năm 2023, tình hình thế giới
tiếp tục chịu nhiều khó khăn, bất ổn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn,
dịch bệnh COVID-19 và các dịch bệnh mới phát sinh ảnh hưởng xấu đến kinh tế
toàn cầu, xung đột địa chính trị tại Châu Âu tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
lường. Nền kinh tế toàn cầu đối mặt với cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ những
năm 1970. Theo đó, nguy cơ suy thoái kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến triển vọng
thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) của Việt Nam... Nhiều tập đoàn đa quốc gia tái
cơ cấu chuỗi sản xuất và hạn chế hoạt động đầu tư mới do triển vọng tăng trưởng
toàn cầu suy giảm, trong khi chi phí đầu tư tiếp tục tăng cao[1]. Bên cạnh đó, việc các nước
tiến tới áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu sẽ làm mất đi vai trò của những
hình thức ưu đãi truyền thống (như ưu đãi về thuế, đất đai...) trong cạnh tranh
thu hút ĐTNN.
Trước tình hình đó, với những chủ trương đúng đắn,
kịp thời của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các Bộ,
ngành và địa phương đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt nhiều giải pháp để phục hồi,
phát triển kinh tế, tạo động lực cho thu hút đầu tư. Ở cấp trung ương, các Bộ,
ngành đã chủ động bám sát các nội dung, hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp
cao để thúc đẩy thu hút, xúc tiến các nguồn lực đầu tư nước ngoài. Đặc biệt đẩy
mạnh hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực điện tử,
công nghệ cao, chíp bán dẫn và chuyển đổi số...
- Tính đến 20/11/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều
chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà ĐTNN đạt gần 28,85 tỷ
USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước
ngoài ước đạt khoảng 20,25 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm
2022. Lũy kế đến ngày 20/11/2023, cả nước có 38.844 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 462,4 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư
nước ngoài ước đạt khoảng 294,2 tỷ USD, bằng 63,6% tổng vốn đầu tư đăng
ký còn hiệu lực.
- Vốn đầu tư mới và số dự án đầu tư mới trong 11
tháng năm 2023 duy trì được mức tăng khá cao so với cùng kỳ, lần lượt tăng
42,4% và 58,1%. Số dự án mới tập trung nhiều vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi
thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải
cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư,...)
như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh, Bình Dương. Riêng 4 địa phương này đã
chiếm tới 67,4% số dự án mới của cả nước trong 11 tháng.
- Vốn thực hiện lũy kế của các dự án ĐTNN ước đạt gần
294,2 tỷ USD, bằng 63,6% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
- Vốn đầu tư điều chỉnh dù vẫn giảm so với cùng kỳ
song mức giảm đã được cải thiện hơn. Dù giảm về vốn, song số dự án điều chỉnh vốn
vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ (tăng 15,9%), khẳng định niềm tin của các
nhà đầu tư vào môi trường đầu tư của Việt Nam và tiếp tục đưa ra các quyết định
mở rộng dự án hiện hữu.
- Để củng cố niềm tin và có các giải pháp kịp thời
đối với khu vực ĐTNN, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì các Hội nghị với doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài vào tháng 4 và tháng 10 năm nay nhằm lắng nghe các ý
kiến và đưa ra các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, cũng như nắm bắt cơ hội hợp
tác đầu tư trong tình hình mới.
- Các tổ chức quốc tế vẫn tiếp tục đánh giá tích cực
về môi trường đầu tư của Việt Nam như: (1) Theo kết quả khảo sát của JETRO, Việt
Nam là địa điểm hấp dẫn đầu tư đứng thứ 2 trên thế giới và đứng thứ 1 khu vực
Châu Á; (2) Theo khảo sát của EuroCharm thì Việt Nam thuộc Top 5 điểm đến đầu
tư toàn cầu; (3) Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về đà
phục hồi sau đại dịch COVID-19 (đứng thứ 8 thế giới). Theo Báo cáo Hạnh phúc Thế
giới của Liên Hợp quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam cũng tăng 12 bậc từ 77
năm 2022 lên 65 năm 2023.
- Năm 2023 đánh dấu sự trở lại của nhiều đoàn doanh
nghiệp tới từ các quốc gia như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan, Châu Âu.. đến tìm hiểu
môi trường và cơ hội đầu tư tại các địa phương. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn
là địa điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư đến
từ Châu Á, các đối tác đầu tư truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn về tổng vốn đầu
tư (Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan).
Riêng 6 đối tác này đã chiếm gần 81% tổng vốn đầu tư của cả nước trong 11
tháng.
1.2. Kết quả thực hiện hoạt động XTĐT của các Bộ,
ngành, địa phương
a. Kết quả đạt được
Một số địa phương đã đạt được bứt phá trong năm
2023, tạo được một làn sóng đầu tư trên địa bàn như Quảng Ninh, Thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Thành phố Hà Nội, Nghệ An... Bên cạnh đó, các địa phương
như Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Bình Phước, Tây Ninh đã tạo xây dựng nền tảng
kết nối với các nhóm, cộng đồng doanh nghiệp để thúc đẩy thu hút, xúc tiến đầu
tư trong thời gian tới.
Các địa phương đã chủ động, tích cực triển khai thực
hiện công tác xúc tiến đầu tư theo hướng đổi mới tổ chức như: (i) Tổ chức
các sự kiện quảng bá môi trường đầu tư, kết nối đầu tư, kết hợp hội nghị XTĐT lớn
theo địa bàn, kết hợp với các Hội nghị công bố quy hoạch của tỉnh, vùng; (ii)
Tổ chức các đoàn XTĐT trọng điểm tại một số quốc gia là đối tác đầu tư lớn, tập
trung vào các lĩnh vực tiềm năng năng (công nghệ cao, công nghệ thông tin, dịch
vụ chất lượng cao,...); (iii) Chủ động tiếp cận, hỗ trợ các Tập
đoàn, doanh nghiệp lớn đang có kế hoạch mở rộng đầu tư/đầu tư mới; ký kết các
biên bản hợp tác với các đối tác đầu tư lớn; (iv) Xây dựng các ấn phẩm,
tài liệu, phim ảnh phục vụ hoạt động XTĐT; (v) Tăng cường triển khai các
hoạt động XTĐT tại chỗ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đang đầu tư trên địa
bàn, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư trước, trong và sau khi cấp phép nhằm sớm
hồi phục sau dịch Covid và đẩy mạnh sản xuất.
Trong quá trình tổ chức, nhiều địa phương đã có sự
phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đại diện XTĐT tại các địa bàn để
triển khai các hoạt động thiết thực, hiệu quả.
b. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác XTĐT của
các địa phương vẫn tồn tại một số bất cập:
(i) Hoạt động XTĐT của một số địa phương vẫn chưa
thực sự được điều hành hiệu quả, gắn kết với quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch
phát triển địa phương và các quan điểm, mục tiêu tại Quyết định số 667/QĐ-TTg
ngày 02/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước
ngoài giai đoạn 2021-2030.
(ii) Công tác XTĐT còn chưa đồng đều giữa các địa
phương, phụ thuộc nhiều vào vai trò của người lãnh đạo đứng đầu. Các hoạt động
XTĐT chưa phải là kết quả của quá trình xây dựng kế hoạch khoa học, chuyên nghiệp,
có tính thực tiễn và hiệu quả, kể cả các địa phương đạt kết quả thu hút đầu tư
cao.
(iii) Công tác chuẩn bị các điều kiện thu hút đầu
tư tại các địa phương vẫn chưa đồng bộ, kể cả các địa phương có công tác XTĐT
năng động do vướng mắc về thể chế, chính sách, quy định pháp luật về đất đai,
năng lượng, lao động... Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác XTĐT nhiệt tình nhưng
chưa thực sự chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu thực tế.
(iv) Hoạt động XTĐT tại chỗ, giải quyết khó khăn của
các nhà đầu tư tại một số địa bàn chưa được chú trọng, hiệu quả còn hạn chế, việc
xử lý vướng mắc của nhà đầu tư chưa kịp thời, vẫn còn địa phương chưa chủ động
đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư bên cạnh một
số địa phương làm rất tốt như Thái Bình, Nghệ An...
(v) Một số địa phương chưa thực sự vào cuộc, dẫn đến
tình trạng khó khăn của nhà đầu tư chậm được tiếp nhận và giải quyết triệt để,
thủ tục hành chính tại một số địa phương vẫn còn phức tạp, rườm rà. Chưa có sự
thống nhất về cách thức xử lý giữa các địa phương, dẫn đến việc nhà đầu tư cùng
thực hiện dự án tại nhiều địa phương lại phải thực hiện các yêu cầu khác nhau,
không thống nhất, từ đó làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.
(vi) Hệ thống thông tin, số liệu phục vụ thu hút đầu
tư tại nhiều địa phương thiếu cập nhật, chưa cung cấp được những số liệu cần
thiết về các lĩnh vực, ngành có thế mạnh của địa phương. Việc xây dựng danh mục
dự án XTĐT tại một số địa phương còn hình thức, dàn trải, chưa có trọng tâm trọng
điểm.
(vii) Việc tổ chức hoạt động XTĐT của một số địa
phương vẫn còn hình thức, chưa gắn với quy hoạch phát triển, xuất hiện lại tình
trạng các địa phương tổ chức hoạt động XTĐT chồng chéo tại nước ngoài. Nguyên
nhân là do chưa thực hiện nghiêm túc quy định về việc phê duyệt Chương trình
XTĐT năm 2022 và Báo cáo kết quả thực hiện hoạt động XTĐT năm 2021 theo quy định
tại Nghị định số 31/2021/NĐ-CP (Chi tiết tại Phụ lục 1 kèm theo).
(viii) Vẫn còn tình trạng một số địa phương chưa
quan tâm đối với công tác báo cáo các xây dựng chương trình XTĐT hàng năm, dẫn
đến tình trạng chậm nộp báo cáo hoặc báo cáo chưa đạt yêu cầu (Phụ lục: Báo cáo
tình hình xây dựng chương trình XTĐT năm 2024 của các địa phương).
(ix) Chương trình XTĐT tại một số địa phương vẫn
còn hình thức, chưa chú trọng vào chất lượng, hiệu quả, chủ yếu dựa vào NSNN,
chưa phát huy được các nguồn lực xã hội cho các hoạt động XTĐT.
2. Về chương trình XTĐT năm
2024 của các Bộ, ngành và địa phương
2.1. Định hướng chung
Năm 2024 là năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, định hướng công tác XTĐT theo ngành, vùng và
đối tác trong năm 2024 tiếp tục bám sát hướng dẫn tại công văn số
4155/BKHĐT-ĐTNN ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Ngoài ra, trước tình hình mới, các địa phương cần cập
nhật một số nội dung sau:
(i) Hiện nay, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức
áp dụng cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) đối với hoạt động nhập khẩu một
số hàng hóa và tiền chất trong sáu lĩnh vực phát thải nhiều carbon gồm xi măng,
sắt thép, nhôm, phân bón, điện và hydrogen. Sau CBAM, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc v.v... cũng sẽ áp dụng cơ chế tương tự để thu thuế khí CO2 đối với
hàng nhập khẩu. Vì vậy, để tiếp tục duy trì môi trường đầu tư cạnh tranh trong
bối cảnh mới, các địa phương nhanh chóng thúc đẩy các chương trình phát triển hạ
tầng kỹ thuật khu công nghiệp xanh, sinh thái, chuỗi cung ứng đáp ứng tiêu chuẩn
giảm phát thải... để các nhà đầu tư có thể sản xuất các sản phẩm xuất khẩu đáp ứng
tiêu chuẩn kinh tế xanh.
(ii) Xây dựng các chương trình kết nối doanh nghiệp
địa phương với các chuỗi cung ứng của doanh nghiệp nước ngoài, coi đây là một
trong những giải pháp tạo lợi thế cạnh tranh, giữ chân nhà đầu tư, tạo đột phá
để thu hút các dự án mới.
(iii) Tiếp tục tập trung xúc tiến các doanh nghiệp
của các nhà đầu tư nước ngoài truyền thống như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,
Đài Loan, Hồng Kông (Trung Quốc), Hoa Kỳ, Châu Âu... đang có nhu cầu tái cơ cấu
chuỗi cung ứng do (i) ảnh hưởng của cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung và (ii) lợi
thế tạo từ việc Việt Nam gia nhập các Hiệp định thương mại tự do song phương và
đa phương.
(iv) Chủ động tiếp cận, hỗ trợ các dự án đầu tư hiện
hữu tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư.
(v) Chỉ đạo các cơ quan chức năng tại địa phương đẩy
nhanh xử lý các thủ tục về đầu tư kinh doanh; triển khai các dịch vụ hành chính
công điện tử cho các nhà đầu tư.
(vi) Rà soát các khu công nghiệp để chuẩn bị quỹ đất
sạch sẵn sàng đón làn sóng ĐTNN. Đồng thời, đẩy mạnh nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng
bộ (điện, nước, hạ tầng giao thông vận tải, viễn thông, logistic...) để tạo ưu
thế cạnh tranh thu hút đầu tư trong dài hạn.
2.2. Về Chương trình XTĐT năm 2024 của các địa
phương và cách thức thực hiện
a) Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến nhận xét về Chương
trình XTĐT năm 2024 của từng địa phương tại Phụ lục kèm theo.
b) Một số lưu ý về cách thức thực hiện để các địa
phương rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện: (i) Lưu ý thực hiện
quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 93 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP,
UBND cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm gửi dự kiến chương trình
XTĐT của năm tiếp theo; các hoạt động phối hợp giữa xúc tiến đầu tư với xúc tiến
thương mại, du lịch, ngoại giao kinh tế; Hoạt động xúc tiến đầu tư không sử dụng
ngân sách nhà nước [2](ii)
thực hiện đúng quy định về biểu mẫu báo cáo[3].
Trên đây là ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chương
trình XTĐT năm 2024, đề nghị Quý UBND nghiên cứu, hoàn thiện chương trình và
triển khai thực hiện theo quy định./.
Văn bản kèm theo:
- Phụ lục 1: Tình hình báo cáo kết quả hoạt động
XTĐT năm 2023 và phê duyệt chương trình XTĐT năm 2024 của các địa phương
- Phụ lục 2: Ý kiến chi tiết về chương trình
XTĐT của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Lưu: VT, Cục ĐTNN (3b)
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Thị Bích Ngọc
|
PHỤ LỤC 1:
TÌNH HÌNH BÁO CÁO KẾT QUẢ CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2022 VÀ PHÊ
DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2023 CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG
(Kèm theo công văn số 10610/BKHĐT-ĐTNN ngày 15 tháng 12 năm 2023)
STT
|
ĐỊA PHƯƠNG
|
BÁO CÁO KẾT QUẢ
CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2022
|
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG
TRÌNH XTĐT 2023
|
GHI CHÚ
|
SỐ CÔNG VĂN
|
NGÀY CV
|
SỐ CÔNG VĂN
|
NGÀY CV
|
I
|
Các tỉnh, thành phố thuộc miền Bắc
|
1
|
Bắc Giang
|
17/UBND-KTN
|
30/1/2023
|
208/QĐ-UBND
|
26/2/2023
|
|
2
|
Bắc Kạn
|
871/UBND-GTCNXD
|
17/2/2023
|
57/QĐ-UBND
|
13/1/2023
|
|
3
|
Bắc Ninh
|
259/KHĐT-KTĐN
|
14/2/2023
|
16/UBND-KTTH
|
17/1/2023
|
|
4
|
Cao Bằng
|
271/BC-UBND
|
13/2/2023
|
10/Ctr-UBND
|
4/1/2023
|
|
5
|
Điện Biên
|
265/BC-UBND
|
31/1/2023
|
560/QĐ-UBND
|
31/3/2023
|
|
6
|
Hà Giang
|
241/BC-SKHĐT
|
14/2/2023
|
330/QĐ-UBND
|
7/3/2023
|
|
7
|
Hà Nam
|
12/BC-UBND
|
31/1/2023
|
195/QĐ-UBND
|
9/2/2023
|
|
8
|
Hà Nội
|
|
|
04/Ctr-UBND
|
9/2/2023
|
Chưa có báo cáo kết quả 2022
|
9
|
Hà Tĩnh
|
332/SKHĐT-DNĐT
|
15/2/2023
|
|
|
|
10
|
Hải Dương
|
25/BC-UBND
|
28/2/2023
|
25/BC-UBND
|
28/2/2023
|
Gộp chung báo cáo kết quả 2022 và ctrinh 2023
|
11
|
Hải Phòng
|
296/UBND-KTĐN
|
13/2/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
12
|
Hòa Bình
|
45/BC-UBND
|
20/2/2023
|
262/QĐ-UBND
|
22/2/2023
|
|
13
|
Hưng Yên
|
19/BC-UBND
|
20/2/2023
|
336/QĐ-UBND
|
22/2/2023
|
|
14
|
Lai Châu
|
518/UBND-TH
|
21/2/2023
|
494/Ctr-UBND
|
17/2/2023
|
|
15
|
Lạng Sơn
|
67/BC-UBND
|
21/2/2023
|
40/UBND-KT
|
11/1/2023
|
|
16
|
Lào Cai
|
37/BC-UBND
|
31/1/2023
|
14/QĐ-UBND
|
6/1/2023
|
|
17
|
Nam Định
|
302/BC-SKH&ĐT
|
14/2/2023
|
333/QĐ-UBND
|
21/2/2023
|
|
19
|
Nghệ An
|
|
|
|
|
Chưa có báo cáo kết quả 2022, Chưa phê duyệt chương
trình XTĐT 2023
|
18
|
Ninh Bình
|
304/KHĐT-TTXTHT
|
15/2/2023
|
313/QĐ-UBND
|
5/5/2023
|
|
20
|
Phú Thọ
|
355/UBND-KTTH
|
13/2/2023
|
277/QĐ-UBND
|
13/2/2023
|
|
21
|
Quảng Bình
|
|
|
843/QĐ-UBND
|
17/4/2023
|
|
22
|
Quảng Ninh
|
174/BC-KHĐT
|
15/1/2023
|
595/QĐ-UBND
|
9/3/2023
|
|
23
|
Quảng Trị
|
|
|
|
|
Chưa có báo cáo kết quả 2022, Chưa phê duyệt chương
trình XTĐT 2023
|
24
|
Sơn La
|
76/BC-UBND
|
28/2/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
25
|
Thái Bình
|
392/UBND-XTĐT
|
17/2/2023
|
472/QĐ-UBND
|
10/3/2023
|
|
26
|
Thái Nguyên
|
306/BC-SKHĐT
|
6/2/2023
|
01/Ctr-UBND
|
22/2/2023
|
|
27
|
Thanh Hóa
|
|
|
|
|
Chưa có báo cáo kết quả 2022, Chưa phê duyệt chương
trình XTĐT 2023
|
28
|
Tuyên Quang
|
62/BC-SKHĐT
|
15/2/2023
|
03/Ctr-UBND
|
15/2/2023
|
|
29
|
Vĩnh Phúc
|
348/SKHĐT-KTĐN
|
15/2/2023
|
2684/QĐ-UBND
|
29/12/2022
|
|
30
|
Yên Bái
|
62/BC-SKHĐT
|
18/1/2023
|
05/QĐ-UBND
|
4/1/2023
|
|
II
|
Các tỉnh, thành phố thuộc miền Trung
|
1
|
Bình Định
|
191/SKHĐT-XTĐT
|
3/2/2023
|
623/QĐ-UBND
|
3/3/2023
|
|
2
|
Đà Nẵng
|
1053/UBND-XTĐT
|
9/3/2023
|
533/QĐ-UBND
|
23/3/2023
|
|
3
|
Đăk Lăk
|
|
|
622/QĐ-UBND
|
31/3/2023
|
Chưa có báo cáo kết quả 2022
|
4
|
Đăk Nông
|
873/UBND-IPEC
|
1/3/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
5
|
Gia Lai
|
112/UBND-KTTH
|
13/1/2023
|
11/QĐ-UBND
|
13/1/2023
|
|
6
|
Huế
|
1856/UBND-QHXH
|
4/3/2023
|
69/Ctr-UBND
|
3/3/2023
|
|
8
|
Khánh Hòa
|
1818/UBND-KT
|
1/3/2023
|
230/QĐ-UBND
|
9/2/2023
|
|
7
|
Kon Tum
|
437/UBND-KTTH
|
22/2/2023
|
881/QĐ-UBND
|
30/12/2023
|
|
9
|
Lâm Đồng
|
46/XTĐT-ĐTDN
|
15/2/2023
|
181/QĐ-UBND
|
31/1/2023
|
|
10
|
Phú Yên
|
48/BC-SKHĐT
|
17/2/2023
|
89/QĐ-UBND
|
6/2/2023
|
|
11
|
Quảng Nam
|
61/BC-SKHĐT
|
15/2/2023
|
776/QĐ-UBND
|
14/4/2023
|
|
12
|
Quảng Ngãi
|
130/SKHĐT-XTĐT
|
31/3/2023
|
112/QĐ-UBND
|
13/2/2023
|
|
III
|
Các tỉnh, thành phố thuộc miền Nam
|
1
|
An Giang
|
112/BC-UBND
|
22/02/2023
|
514/QĐ-UBND
|
17/04/2023
|
|
2
|
Bà Rịa-Vũng Tàu
|
7259/UBND-VP
|
12/6/2023
|
1809/QĐ-UBND
|
3/8/2023
|
|
3
|
Bạc Liêu
|
53/BC-UBND
|
22/02/2023
|
118/QĐ-UBND
|
20/03/2023
|
|
4
|
Bến Tre
|
904/UBND-TCĐT
|
23/02/2023
|
103/QĐ-UBND
|
25/01/2023
|
|
5
|
Bình Dương
|
61/BC-UBND
|
13/03/2023
|
1993/QĐ-UBND
|
3/8/2023
|
|
6
|
Bình Phước
|
|
|
88/KH-UBND
|
15/03/2023
|
|
7
|
Bình Thuận
|
52/BC-UBND
|
8/3/2023
|
655/QĐ-UBND
|
10/4/2023
|
|
8
|
Cà Mau
|
369/SKHĐT-KTĐN
|
17/02/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
9
|
Cần Thơ
|
656/UBND-KT
|
3/3/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
10
|
Đồng Nai
|
57/BC-UBND
|
14/03/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
11
|
Đồng Tháp
|
156/UBND-KT
|
14/02/2023
|
209/KH-UBND
|
6/6/2023
|
|
12
|
Hậu Giang
|
209/UBND-NCTH
|
16/02/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
13
|
Kiên Giang
|
146/BC-TTXTDTTMDL
|
24/03/2023
|
66/KH-UBND
|
9/3/2023
|
|
14
|
Long An
|
478/SKHĐT-TT
|
13/02/2023
|
1713/QĐ-UBND
|
9/3/2023
|
|
15
|
Ninh Thuận
|
49/BC-UBND
|
4/3/2023
|
422/QĐ-UBND
|
30/03/2023
|
|
16
|
Sóc Trăng
|
28/BC-UBND
|
15/02/2023
|
|
|
Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023
|
17
|
Tây Ninh
|
|
|
2029/UBND-ICT
|
3/7/2023
|
Chưa có báo cáo kết quả 2022
|
18
|
Tiền Giang
|
290/BC-SKH&ĐT
|
15/02/2023
|
865/QĐ-UBND
|
17/04/2023
|
|
19
|
TP.Hồ Chí Minh
|
|
|
3532/UBND-DA
|
24/07/2023
|
|
20
|
Trà Vinh
|
95/BC-SKHĐT
|
24/02/2023
|
172/QĐ-UBND
|
16/02/2023
|
|
21
|
Vĩnh Long
|
64/BQ-UBND
|
15/03/2023
|
2869/QĐ-UBND
|
30/12/2022
|
|
[1] Theo khảo sát vào tháng 1/2023 của Hiệp hội
Ngoại thương Hàn Quốc (KITA), trong 1.327 công ty Hàn Quốc có doanh thu ở nước
ngoài trên 500.000 USD trong năm 2022, 29,5% quyết định sẽ cắt giảm các khoản đầu
tư trong nước, trong khi 27,5% dự định giảm đầu tư ở nước ngoài. Đối với các
công ty có quy mô lớn, 43% cho biết sẽ thu hẹp quy mô đầu tư cả trong và ngoài
nước.