Kính gửi:
|
- Các đơn vị: Văn phòng, Vụ 9, Vụ
10, T2, T3 VKSNDTC;
- Các VKSND cấp cao 1, 2, 3;
- Các VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
|
Để chuẩn bị cho Hội nghị sơ kết, tập
huấn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính và
những việc khác theo quy định của pháp luật (tháng 10/2019), Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC) đã nhận được nhiều ý kiến của VKSND cấp cao, cấp tỉnh nêu
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn công tác và đề nghị giải đáp một số vấn đề
chưa rõ trong quy định của pháp luật. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo
VKSNDTC, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14) đã rà soát và nhận thấy:
- Có nhiều vấn đề đã được VKSNDTC giải
đáp trong các năm 2017, 2018, được tổng hợp tại Phần III - Giải đáp vướng mắc
về pháp luật trong một số lĩnh vực khác của cuốn sách "Giải đáp vướng
mắc về pháp luật và giải quyết các vụ án, vụ việc về tội phạm, vi phạm pháp luật
về ma túy” do Văn phòng và Vụ 14 VKSNDTC phối hợp biên soạn, in tại Nhà xuất
bản Tư pháp, năm 2019; đề nghị các VKSND tìm đọc, nghiên cứu, tham khảo để áp dụng.
- Đối với ý kiến phản ánh quy định của
các bộ luật, luật, quy định của các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa đầy đủ,
cụ thể, rõ ràng, chưa phù hợp với thực tiễn hoặc còn mâu thuẫn với nhau... Vụ
14 ghi nhận, tổng hợp để tham mưu cho Lãnh đạo VKSNDTC kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung.
- Đối với những vấn đề chưa được giải
đáp hoặc cần trả lời đầy đủ, rõ ràng hơn so với nội dung giải đáp trước đây, Vụ
14 đã chủ trì, phối hợp với Vụ 9, Vụ 10 VKSNDTC nghiên cứu và có ý kiến như
sau:
A. NHỮNG KHÓ
KHĂN, VƯỚNG MẮC LIÊN QUAN ĐẾN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ (BLTTDS),
LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH (Luật TTHC)
I. Khó khăn, vướng
mắc liên quan đến các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của VKSND
1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của VKSND trong BLTTDS
1.1. Theo khoản
3 Điều 58 BLTTĐS và Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016[1] (TTLT số 02),
Kiểm sát viên (KSV) có quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự; tuy nhiên, thời hạn VKS nghiên cứu hồ sơ
tham gia phiên tòa chỉ có 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ nên rất khó thực
hiện quyền yêu cầu này trong thực tiễn, nhất là trong những vụ việc phức tạp (các VKSND: Ninh Bình Hà Nội, TP Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Theo Điều 22 TTLT số
02 thì VKS có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
trước khi mở phiên tòa, phiên họp và tại phiên tòa, phiên họp, không phải chỉ được
yêu cầu trong 15 ngày nghiên cứu hồ sơ. Nếu đến thời hạn phải trả hồ sơ cho Tòa
mà VKS chưa nghiên cứu xong thì có thể phô tô những tài liệu chưa nghiên cứu để
nghiên cứu tiếp hoặc nghiên cứu tại hồ sơ kiểm sát mà cán bộ nghiên cứu đã xây
dựng. Sau khi đã trả hồ sơ cho Tòa án, trong thời gian chờ mở phiên tòa, VKS vẫn
có thể yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ.
Thời hạn mở phiên tòa sơ thẩm là 01
tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử; trường hợp có lý do chính
đáng thì thời hạn này là 02 tháng (khoản 4 Điều 203 BLTTDS).
1.2. BLTTDS 2015 không quy định
VKS tham gia việc xem xét thẩm định tại chỗ. Đây là khó khăn của VKS bởi lẽ khi
xem xét thẩm định tại chỗ sẽ nắm được những nội dung mà các đương sự tranh chấp,
giúp rút ngắn được thời gian thu thập chứng cứ để thực hiện quyền kháng nghị[2] (VKSND tỉnh Hà Nam).
Trả lời:
Theo quy định của BLTTDS thì VKS
không tham gia trực tiếp vào việc xem xét, thẩm định tại chỗ để kiểm sát. Trên
thực tế, nếu được cơ quan có thẩm quyền mời tham dự thì KSV nên tham gia và ký
vào biên bản với tư cách người được mời tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
nếu không được mời tham dự thì kiểm sát qua các biên bản, tài liệu có liên quan
trong hồ sơ theo hướng dẫn tại Điều 17 Quyết định số
458/QĐ-VKSTC ngày 04/10/2019 của Viện trưởng VKSNDTC ban hành quy định hướng
dẫn hoạt động của KSV tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm (Quyết định số
458/2019).
1.3. Điều 106
BLTTĐS 2015 quy định về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ khi Tòa án, Viện
kiểm sát có yêu cầu. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cơ quan lưu giữ tài liệu,
chứng cứ không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu mà không thể xử lý được,
nhiều vụ án có liên quan đến đất đai phải tạm đình chỉ vì lý do này[3] (VKSND tỉnh Hà Nam).
Trả lời:
Theo khoản 3 và khoản
4 Điều 106 BLTTDS thì cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu
cung cấp tài liệu, chứng cứ của Tòa án, VKS mà không có lý do chính đáng thì tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Đồng thời, khoản
1 Điều 495 BLTTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành
quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức,
cá nhân đó đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Tòa án xử phạt hành chính
theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, cơ quan, tổ chức, cá nhân
không thi hành quyết định của Tòa án trong trường hợp trên chỉ có thể bị xử phạt
hành chính nếu có đầy đủ các điều kiện sau: (1) cơ quan, tổ chức, cá nhân đó
đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ; (2) không cung cấp mà không có lý do
chính đáng.
Tuy nhiên, cơ sở pháp lý đề xử phạt
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
trường hợp trên còn chưa đầy đủ. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 chỉ quy
định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Tòa án nhân dân (Điều
48), không quy định thẩm quyền của VKSND và cũng chưa quy định cụ thể hình
thức xử phạt đối với hành vi không cung cấp tài liệu, chứng cứ mà không có lý
do chính đáng. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng chỉ
quy định trách nhiệm đối với người làm chứng, người giám định, người định giá
tài sản, người dịch thuật từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính
đáng (Điều 383).
Trường hợp đã hết thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu không trả lời
thì VKS tiếp tục ban hành văn bản yêu cầu cung cấp và đề nghị trả lời. Nếu cơ
quan, tổ chức, cá nhân vẫn không trả lời hoặc trả lời không cung cấp mà không
có lý do chính đáng thì VKS có thể kiến nghị cơ quan, tổ chức cấp trên của cơ quan,
tổ chức được yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền quản lý cá nhân được yêu cầu để xem
xét, chỉ đạo giải quyết.
1.4. Sau khi kết thúc phiên tòa
sơ thẩm, VKS có được kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc
không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử
(HĐXX) không? Nếu VKS kiến nghị thì ai có thẩm quyền giải quyết kiến nghị? (VKSND tỉnh Long An).
Trả lời:
Khoản 3 Điều 141
BLTTDS quy định việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa thuộc thẩm quyền của HĐXX. Quyết định giải
quyết khiếu nại, kiến nghị của HĐXX là quyết định cuối cùng.
Như vậy, nếu tại phiên tòa HĐXX quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà có vi phạm thì KSV phải kiến nghị ngay, nếu HĐXX đã giải
quyết kiến nghị thì không được kiến nghị nữa. Nếu tại phiên tòa, HĐXX không giải
quyết kiến nghị hoặc KSV chưa phát hiện được vi phạm để kiến nghị thì sau phiên
tòa, KSV thông qua kiểm sát bản án sơ thẩm để thực hiện quyền kháng nghị đối với
phần của bản án về vấn đề này. Điểm c khoản 2 Điều 266 BLTTDS
quy định trong phần quyết định của bản án sơ thẩm phải ghi rõ “về áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời”. Lúc này, VKS không thực hiện quyền kiến nghị vì Luật
không quy định thủ tục giải quyết kiến nghị đối với vấn đề này sau khi kết thúc
phiên tòa sơ thẩm.
Trường hợp cần thiết, VKS cấp sơ thẩm
báo cáo, đề nghị VKS cấp trên thực hiện quyền kiến nghị ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
2.5. Theo khoản
1 và khoản 3 Điều 171 BLTTDS thì thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy
mời và quyết định kháng nghị của VKS là văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt
cho đương sự. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 172 BLTTDS quy định Ủy
ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc thực hiện việc cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng chỉ khi Tòa án có yêu cầu nên VKS gặp khó khăn
trong việc này do không nhận được sự phối hợp của UBND và cơ quan, tổ chức nêu
trên (các VKSND: Lâm Đồng, Hải Dương, Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Điều 22, khoản 2 Điều
172 BLTTDS chỉ quy định về trách nhiệm chuyển giao tài
liệu, giấy tờ của Tòa án. Tòa án là cơ quan giải quyết vụ việc dân sự, UBND cấp
xã nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
tham gia tố tụng dân sự làm việc không có liên quan gì đến vụ việc dân sự nên
các chủ thể này chỉ làm theo yêu cầu của cơ quan giải quyết vụ việc.
Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn
bản tố tụng do VKS ban hành được thực hiện theo các khoản 1, 3,
4, 5 và 6 Điều 172 BLTTDS. Trường hợp pháp luật có quy định về cách thức cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trong từng trường hợp cụ thể thì thực hiện
theo quy định đó.
1.6. Theo khoản
3 Điều 194 BLTTDS thì phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc
trả lại đơn khởi kiện phải có sự tham gia của đại diện VKS cùng cấp. Tuy nhiên,
Điều 26 TTLT số 02 lại quy định: “Trường hợp Kiểm sát viên
vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát kiến
nghị”. Quy định như vậy là chưa phù hợp?
Trả lời:
Khoản 3 Điều 194 quy định “phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự
tham gia của đại diện VKS cùng cấp”, không quy định là “phải có”.
Khoản 1 Điều 26 TTLT
số 02 hướng dẫn: “Kiểm sát viên được phân công có
nhiệm vụ tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả
lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán
vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát kiến nghị”. Nội dung
hướng dẫn này thống nhất với các quy định về sự tham gia của VKS tại các phiên
tòa, phiên họp của Tòa án trong toàn Bộ luật, nhằm bảo đảm việc giải quyết khiếu
nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện được tiến hành nhanh chóng. Hơn nữa,
tham gia phiên tòa, phiên họp không phải là phương thức duy nhất để thực hiện
kiểm sát. Trường hợp KSV không thể tham gia phiên họp thì thông qua quyết định
trả lời khiếu nại, kiến nghị để kiến nghị tiếp với Chánh án Tòa án trên một cấp
(kiến nghị lần 2), với Chánh án TAND cấp cao hoặc Chánh án TANDTC (kiến nghị lần
3) theo các khoản 5, 6 và 7 Điều 194 BLTTDS.
1.7. Khoản 3 Điều
194 BLTTDS quy định về thời hạn mở phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại,
kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện là trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày Thẩm phán được phân công. Tuy nhiên, BLTTDS không quy định thời hạn Tòa án
phải gửi thông báo mở phiên họp cho VKS và cũng không quy định cụ thể việc phát
biểu ý kiến của đại diện VKS tại phiên họp.[4] (các VKSND:
Lâm Đồng, Hải Dương).
Trả lời:
a) Về việc thông báo phiên họp cho
Viện kiểm sát
Khoản 2 Điều 12 TTLT
số 02 quy định “Tòa án thông báo bằng văn bản cho
VKS cùng cấp về ngày mở phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu ngay sau khi quyết định mở phiên họp”.
Thời điểm VKS nhận được thông báo của
Tòa án về thời gian mở phiên họp còn là cơ sở để VKS gửi cho Tòa án quyết định
phân công KSV tham gia phiên họp. Theo đó, quyết định phân công KSV tham gia
phiên họp được gửi cho Tòa án ngay sau khi VKS nhận được thông báo của Tòa án về
thời gian mở phiên họp (khoản 3 Điều 24 TTLT số 02).
b) Về phát biểu ý kiến của VKS tại
phiên họp
Việc phát biểu ý kiến của VKS tại
phiên họp đã được quy định cụ thể tại Điều 26 TTLT số 02
trong 03 trường hợp: (1) Chỉ có khiếu nại của người khởi kiện, người yêu cầu;
(2) Chỉ có kiến nghị của VKS; (3) Vừa có khiếu nại của người khởi kiện, người
yêu cầu, vừa có kiến nghị của VKS.
1.8. Điều 214
và Điều 217 BLTTDS quy định Tòa án chỉ phải gửi quyết định tạm đình chỉ,
quyết định đình chỉ cho VKS cùng cấp mà không gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ
là cơ sở để ban hành quyết định đó; do đó, VKS không thể đối chiếu để kiểm sát
nội dung quyết định có căn cứ và đúng pháp luật hay không? Đồng thời, Điều 217 BLTTDS chỉ quy định về các trường hợp Tòa án ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án mà không quy định về đình chỉ một phần yêu cầu
khởi kiện (VKSND thành phố Hà Nội).
Trả lời:
a) Về việc gửi hồ sơ vụ án dân sự
bị tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
Theo quy định của BLTTDS, Tòa án chỉ
gửi cho VKS quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
mà không gửi hồ sơ vụ án; tuy nhiên, qua việc kiểm sát các quyết định này mà
VKS phát hiện có dấu hiệu vi phạm về căn cứ, nội dung quyết định,... thì VKS có
quyền yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều
5 TTLT số 02 để VKS nghiên cứu, quyết định việc kháng nghị hoặc kiến nghị.
b) Về việc ra quyết định đình chỉ
một phần yêu cầu khởi kiện
Khi nguyên đơn rút một phần yêu cầu
khởi kiện, phần còn lại Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành giải quyết theo thủ tục
quy định tại BLTTDS. Do đó, Tòa án không ra một quyết định riêng về đình chỉ giải
quyết một phần vụ án mà việc đình chỉ này được nêu cụ thể tại bản án, quyết định
của Tòa án.
1.9. Quy định “KSV được phân
công tham gia phiên tòa, phiên họp mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến
hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp VKS kháng nghị” gây khó khăn
cho công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự vì thực tế có trường hợp vì
lý do đột xuất mà KSV không thể tham gia phiên tòa, phiên họp mà việc ra quyết
định thay đổi KSV không thể thực hiện ngay được (các
VKSND: Hà Nội, Bình Phước, Long An, TP Hồ Chí Minh, VKSND cấp cao 2).
Trả lời:
Khi được phân công kiểm sát việc giải
quyết vụ việc dân sự, KSV cần phải sắp xếp thời gian, bố trí công việc phù hợp
để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, nhất là việc tham gia phiên tòa, phiên họp. Trước
khi mở hoặc mở lại phiên tòa, phiên họp, Tòa án đều phải thông báo cho VKS để
KSV sắp xếp thời gian tham gia.
Trường hợp KSV không thể tham gia
phiên tòa, phiên họp được thì ngay sau khi nhận được bản án, quyết định sơ thẩm,
VKS có thể yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để kết hợp kiểm sát bản án, quyết định với
nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu khác (đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ mới (nếu
có)) để xem xét có cần thiết phải kháng nghị không.
1.10. Trường hợp KSV đã phát biểu
ý kiến tại phiên tòa sơ thẩm xong, Hội đồng xét xử nghị án, quyết định tạm ngừng
phiên tòa để thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ (sau đó có thể tạm đình chỉ giải
quyết vụ án), khi phiên tòa tiếp tục thì KSV phát biểu những nội dung gì? (VKSND tỉnh Long An).
Trả lời:
- Trường hợp khi phiên tòa tiếp tục,
Hội đồng xét xử quay trở lại việc hỏi và tranh luận theo Điều
265 BLTTDS thì KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng
xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ thời điểm đó đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về những vấn đề
này.
- Trường hợp thu thập được tài liệu,
chứng cứ bổ sung thì khi phiên tòa tiếp tục, Tòa án phải xem xét, đánh giá chứng
cứ. KSV kiểm sát việc Tòa án xem xét, đánh giá chứng cứ và có thể thay đổi nội
dung phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án trên cơ sở chứng cứ mới.
1.11. Kiểm sát viên có được ký
văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo Mẫu số 06
trong Danh mục biểu mẫu công tác kiểm sát giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình không?
Trả lời:
- Chủ thể ký văn bản yêu cầu Tòa án
xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo Mẫu số 06 đã được ghi rõ tại Mẫu và
ghi chú số (8) trong phần Hướng dẫn sử dụng mẫu gồm Viện trưởng, Phó Viện trưởng
(ký thay Viện trưởng) và Kiểm sát viên (ký thừa lệnh Viện trưởng).
- Kiểm sát viên được ký với tư cách độc
lập nếu văn bản vẫn được đóng dấu của VKSND theo quy định về thủ tục hành
chính.
2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của VKSND trong Luật TTHC
2.1. Theo khoản
2 Điều 22 TTLT số 03[5]
thì “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên
là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết… Tòa án thông
báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”. Trên thực tế, Tòa án không
trả lời bằng văn bản vì Luật TTHC (khoản 6 Điều 84) quy định
quyền yêu cầu của VKS mà không quy định trách nhiệm của Tòa án phải thực hiện
yêu cầu (các VKSND: Hà Nội, Hòa Bình, Long An,
Bắc Ninh, Yên Bái, Quảng Ninh, Lạng Sơn).
Trả lời:
Thông tư liên tịch là văn bản quy phạm
pháp luật, do đó, khi nhận được yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của Kiểm
sát viên, Tòa án phải xem xét, thực hiện yêu cầu này. Trường hợp Tòa án không
thông báo cho KSV theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 22 TTLT số
03 nêu trên thì VKS có thể ban hành kiến nghị căn cứ vào quy định của Thông
tư liên tịch.
2.2. Điều 112
Luật TTHC quy định trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Chánh án
Tòa án có quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng Luật không quy định cho VKS quyền
này. Trường hợp VKS là cơ quan phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có vi phạm
và đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy
phạm pháp luật nhưng Chánh án không kiến nghị thì xử lý như thế nào? (các VKSND: Cà Mau, Tây Ninh)
Trả lời:
Trường hợp VKS phát hiện văn bản quy phạm
pháp luật có vi phạm thì đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc
bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật. Việc xem xét kiến nghị hay không kiến nghị
là thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án theo Điều 112 Luật TTHC.
Trường hợp Chánh án không kiến nghị
mà dẫn đến có vi phạm trong bản án, quyết định thì VKS kháng nghị hoặc kiến nghị
đối với bản án, quyết định đó. Đồng thời, báo cáo VKS cấp trên để VKS cấp trên
đề nghị Chánh án Tòa án cùng cấp kiến nghị khi vụ án được giải quyết ở cấp phúc
thẩm hoặc giám đốc thẩm.
2.3. Điều 123
Luật TTHC quy định Tòa án chỉ gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho VKS mà
không gửi kèm theo hồ sơ, tài liệu liên quan; VKS không được kiểm sát trực tiếp
tại Tòa án về việc xem xét, thụ lý đơn khởi kiện; Biểu 124 quy định thời hạn kiến
nghị của VKS chỉ có 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện
khiến cho công tác kiểm sát gặp nhiều khó khăn (các
VKSND: Hải Phòng, Kiên Giang, Đắk Nông, Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Hòa Bình, Nghệ
An, Quảng Bình, Quảng Nam, Long An, TP Hồ Chí Minh, Cao Bằng, Bình Định, Bà Rịa-Vũng
Tàu, Thái Bình, Ninh Bình, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng
Ninh)
Trả lời:
- Để khắc phục khó khăn do Luật quy định
Tòa án chỉ gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho VKS mà không gửi kèm theo hồ
sơ, tài liệu liên quan, Điều 21 TTLT số 03 đã quy định VKS
có quyền yêu cầu Tòa án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được
yêu cầu của VKS, Tòa án giao cho VKS văn bản cần sao chụp tại trụ sở Tòa
án. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được văn bản cần sao chụp,
VKS trả lại văn bản cho Tòa án. Do thời gian rất ngắn nên KSV có thể trao đổi
trước với Tòa án để khi mang văn bản yêu cầu đến Tòa, Tòa có thể giao tài liệu
cho KSV sao chụp ngay. Trường hợp Tòa án không thực hiện đúng quy định về thời
hạn nêu trên thì VKS kiến nghị với Tòa án.
- Việc xem xét, thụ lý đơn khởi kiện
cần bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, tài liệu, chứng cứ chưa nhiều nên Luật TTHC
quy định thời gian Tòa án xem xét, giải quyết rất ngắn (03 ngày làm việc kể từ
ngày được phân công, Thẩm phán phải ra 01 trong các quyết định theo khoản 3 Điều 121 Luật TTHC; 05 ngày làm việc kể từ ngày được
phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị
theo khoản 3 Điều 124 Luật TTHC). Vì vậy, thời hạn kiến nghị
của VKS là 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện là phù hợp.
2.4. Thời gian nghiên cứu hồ sơ
vụ án hành chính của VKS chỉ có 15 ngày là quá ngắn bởi các vụ án hành chính
thường rất phức tạp (các VKSND: Nghệ An, Đắk
Nông, Kiên Giang, Hà Tĩnh).
Trả lời:
Quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ
của VKS là 15 ngày đã có từ Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
năm 1996 (khoản 4 Điều 37), qua các lần sửa đổi Pháp lệnh
vào năm 1998, năm 2006 rồi đến Luật TTHC năm 2010, năm 2015, quy định này vẫn
không thay đổi.
Trường hợp gần hết thời hạn 15 ngày
mà KSV chưa nghiên cứu xong hồ sơ thì KSV có thể photo những tài liệu chưa
nghiên cứu để giữ lại đọc, hồ sơ vẫn phải trả lại cho Tòa đúng thời hạn theo
quy định của Luật TTHC; hoặc VKS phối hợp tốt với Tòa để đến gần ngày mở phiên
tòa mới phải trả hồ sơ.
2.5. Khoản 1 Điều
156, khoản 1 Điều 224 Luật TTHC quy định “Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên
tòa thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử, trừ Trường hợp VKS kháng nghị” là mâu thuẫn
với quy định tại khoản 2 Điều 25 của Luật (các VKSND: Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Bạc Liêu, Đắk
Nông, Kiên Giang, Cà Mau, VC1, VC3).
Trả lời:
Khoản 2 Điều 25 Luật
TTHC quy định: “Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành
chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên
tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi
hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị theo quy định của pháp luật”. Đây là quy định chung, xác định những
nội dung chính của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hành chính. Quy định “Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý
đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án” là phạm vi về quá trình kiểm sát,
không có nghĩa là VKS trực tiếp có mặt, tham gia vào tất cả các hoạt động tố tụng
trong quá trình đó. Quy định “tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án”
có nghĩa là VKS có quyền và trách nhiệm tham gia, không phải là bắt buộc phải
có VKS mới được xét xử. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong từng giai đoạn tố tụng
được quy định trong các điều, khoản cụ thể của Luật.
Quy định về việc Tòa án vẫn tiến hành
xét xử khi vắng mặt KSV tại Điều 156 và Điều 224 là quy định
mới của Luật TTHC nhằm tăng cường trách nhiệm của VKS trong kiểm sát việc xét xử
của Tòa án. Viện trưởng VKSND tối cao đã chỉ đạo VKSND các cấp phải phân công
KSV tham gia 100% các phiên tòa, phiên họp luật định VKS phải
tham gia[6]. Đối
với các vụ án phức tạp hoặc xét thấy cần thiết, Viện trưởng VKS cần chủ động
phân công KSV dự khuyết theo khoản 4 Điều 24 TTLT số 03.
Trường hợp này, KSV dự khuyết có thể tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ
có mặt tại phiên tòa từ đầu theo quy định tại khoản 2 Điều 156
Luật TTHC.
Trường hợp KSV không tham dự phiên
tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm (khi VKS không kháng nghị) thì KSV vẫn có thể
thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thông qua các phương thức khác như kiểm sát bản án,
quyết định sơ thẩm, phúc thẩm; yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để nghiên cứu, xem
xét kháng nghị.
2.6. Thời hạn kháng nghị của
VKS theo Điều 213 Luật TTHC là quá ngắn, không bảo đảm cho
VKS thực hiện quyền kháng nghị (các VKSND: Quảng
Bình, Hải Phòng, Kiên Giang, Lạng Sơn).
Trả lời:
Điều 213 Luật TTHC quy định “Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm
của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là
30 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối
với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp
sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày kể từ ngày
Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định”.
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm nêu
trên tương tự quy định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm tại Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 337) và BLTTDS 2015 (Điều
280).
Kiểm sát viên đã kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính từ khi thụ lý, đã nghiên cứu hồ sơ, tham gia tất cả các
phiên tòa nên nắm rõ các tình tiết, nội dung vụ án, quá trình giải quyết của
Tòa án nên việc phát hiện vi phạm và tiến hành kháng nghị ngang cấp là không
quá khó khăn. Trường hợp dự liệu được thời hạn kháng nghị dành cho VKS cùng cấp
không đủ thì kịp thời báo cáo VKS cấp trên trực tiếp để kháng nghị.
II. Khó khăn, vướng
mắc liên quan đến các quy định khác của BLTTDS, Luật TTHC
1. Quy định của BLTTDS
1.1. Theo khoản
3 Điều 35 BLTTDS thì tranh chấp và yêu cầu mà đương sự ở nước ngoài thì không thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND cấp huyện vậy hiểu như thế nào là “đương sự ở nước ngoài”?
Đương sự trong vụ án là người
có quốc tịch nước ngoài nhưng định cư làm ăn sinh sống tại Việt Nam, có đăng ký
tạm trú tại nơi sinh sống, tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc đương sự có mặt
tại Việt Nam thì có thuộc Trường hợp “đương sự ở nước ngoài” không?
Trả lời:
Quy định tại khoản 3
Điều 35 BLTTDS 2015 kế thừa quy định tại khoản 3 Điều 33
BLTTDS 2004 (sửa đổi năm 2011). Vì vậy, để hiểu thế nào là “đương sự ở
nước ngoài”, có thể tham khảo quy định tại khoản 1 Điều 7
Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm
2004, trong đó, đã giải thích rõ các Trường hợp “đương sự ở nước ngoài”
quy định tại khoản 3 Điều 33 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011) gồm:
“a) Đương sự là người nước ngoài
không định cư; làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại
Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
b) Đương sự là người Việt Nam định
cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt
Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
c) Đương sự là người nước ngoài định
cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời
điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
d) Đương sự là người Việt Nam định
cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời
điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
đ) Cơ quan, tổ chức không phân biệt
là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở,
chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc
dân sự”.
Như vậy, nếu đương sự là người nước
ngoài nhưng định cư, làm ăn, sinh sống tại Việt Nam và có mặt ở Việt Nam vào thời
điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự thì không thuộc trường hợp “đương sự ở nước
ngoài ” theo hướng dẫn nêu trên.
1.2. Theo khoản
9 Điều 70 BLTTDS thì đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác tài liệu,
chứng cứ... Tuy nhiên, BLTTDS không quy định cụ thể thời điểm, phương thức gửi
tài liệu, chứng cứ như thế nào? (VKSND tỉnh
Ninh Bình).
Trả lời:
Khoản 9 Điều 70
BLTTDS quy định: Đương sự “có nghĩa vụ gửi cho
đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có, tài liệu, chứng
cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”.
Khoản 5 Điều 96
BLTTDS quy định cụ thể như sau: “Khi đương sự giao
nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho
đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu,
chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ
không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc
người đại diện hợp pháp của đương sự khác”.
Như vậy, việc đương sự gửi tài liệu,
chứng cứ cho đương sự khác được thực hiện như sau:
- Về thời điểm: gửi cùng thời điểm với
việc giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
- Về phương thức: Đương sự tự lựa chọn
phương thức gửi. Tuy nhiên, cần lưu lại giấy tờ chứng minh việc đương sự đã gửi
hoặc đương sự khác đã nhận được tài liệu, chứng cứ, văn bản thông báo về tài liệu,
chứng cứ để xuất trình trước Tòa án, khi cần thiết.
1.3. Xử lý tiền tạm ứng án phí
như thế nào khi thuộc Trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều
6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một
số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số
92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án? (các VKSND: Ninh Bình, Hà Nội, Long An, Lâm Đồng, Hà Nam).
Trả lời:
Điểm c khoản 2 Điều 6
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp
sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án
do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc
không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như
sau:...(c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu
nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập,
xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải
quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này”.
Như vậy, Trường hợp này, Tòa án quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án do Tòa án không xác định được địa chỉ mới của
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo yêu cầu của nguyên đơn; thuộc
“Trường hợp khác theo quy định của pháp luật” dẫn đến đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự. BLTTDS (Điều 218) và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đều không quy định việc xử lý tạm ứng
án phí đối với trường hợp này.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định tại
khoản 3 Điều 18 Nghị quyết 326 thì đối với Trường hợp đình
chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217
BLTTDS “thì tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp”. Điểm g khoản 1 Điều 217 dẫn chiếu đến các Trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS, trong đó, có Trường hợp tương
tự quy định tại đoạn 3 điểm e khoản 1 Điều 192 như sau: “Trường
hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi
không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán”.
Theo các khoản 2 và 3
Điều 218 BLTTDS thì khi vụ án dân sự bị đình chỉ giải quyết thì có 02 hướng
xử lý tiền tạm ứng án phí là sung vào công quỹ nhà nước hoặc trả lại cho đương
sự đã nộp. Đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều
6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP nêu trên, việc đình chỉ giải quyết vụ án
không xuất phát từ phía nguyên đơn (không có lỗi của nguyên đơn) nên tiền tạm ứng
án phí được trả lại cho họ sẽ hợp lý hơn.
1.4. Trường hợp người yêu cầu
rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự thì tiền tạm ứng lệ phí xử lý như thế
nào? (VKSND thành phố Hải Phòng).
Trả lời:
Theo điểm c khoản 2
Điều 366 BLTTDS thì trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu
cầu rút đơn yêu cầu thì Tòa án ra Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu
và trả lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo. Quyết định đình chỉ
việc xét đơn yêu cầu được ban hành theo Mẫu số 19 trong Danh mục được ban hành
kèm theo Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09/8/2018 của HĐTP TANDTC ban hành
một số biểu mẫu trong giải quyết việc dân sự.
Căn cứ khoản 5 Điều
18 Nghị quyết 326 thì: “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ việc
xét đơn yêu cầu theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 366,
Điều 382, khoản 3 Điều 388, khoản 3 Điều 392 của Bộ luật tố
tụng dân sự thì tiền tạm ứng lệ phí Tòa án đã nộp được sung vào công quỹ
nhà nước”.
1.5. Theo khoản
4 Điều 397 BLTTDS, trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Thẩm phán ra
quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự. Vậy,
Tòa án có phải mở phiên họp giải quyết việc dân sự để ra quyết định trên hay
không? (VKSND thành phố Hải Phòng).
Trả lời:
Điều 397 BLTTDS quy định về việc hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, tại
khoản 4 có ghi: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành
thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của
các đương sự theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này...”.
Theo Điều 212 BLTTDS
thì quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được ban hành trên cơ sở
biên bản hòa giải thành được lập tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải. Quyết định này do Thẩm phán chủ trì phiên hòa
giải hoặc một Thẩm phán được phân công ban hành, không phải mở phiên tòa.
Theo tinh thần đó, đối với Trường hợp
tại khoản 4 Điều 397 BLTTDS nêu trên, Thẩm phán tiến hành
hòa giải sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các
đương sự khi có đầy đủ các điều kiện luật định mà không phải mở phiên họp giải
quyết việc dân sự đề ra quyết định.
Mặc dù Chương XXIII
“Quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự” có quy định về phiên họp giải
quyết việc dân sự nhưng đối với từng loại việc dân sự cần ưu tiên áp dụng các
quy định riêng về thủ tục giải quyết loại việc đó (từ Chương
XXIV đến Chương XXXIV của BLTTDS), theo đó, có việc phải mở phiên họp để giải
quyết, có việc không phải mở phiên họp.
1.6. Khoản 2 Điều
81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau: Vợ, chồng thỏa thuận về người
trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; Trường
hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ 07 tuổi trở lên thì phải
xem xét nguyện vọng của con”. Tuy nhiên, theo Công văn số 59/TANDTC-PC ngày
29/3/2019 hướng dẫn bổ sung về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng
cường hòa giải đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện
hành chính tại TAND, tại mục 12 có nội dung: “...Việc hòa
giải ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản sau ly hôn tại trung tâm hòa giải,
đối thoại tại Tòa án không nhất thiết phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ
đủ 07 tuổi trở lên”.
Như vậy, nội dung hướng dẫn tại
Công văn số 59/TANDTC-PC trái với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân
gia đình năm 2014. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, Kiểm sát viên cấn
áp dụng quy định nào? (VKSND tỉnh Đồng Nai).
Trả lời:
Hiện nay, việc thí điểm về đổi mới,
tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện
hành chính tại TAND đã chấm dứt[7]. TANDTC đã xây dựng dự án Luật Hòa giải, đối
thoại tại Tòa án, trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8.
Theo mục 14 Công văn
số 59/TANDTC-PC thì “Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có chức
năng hòa giải, đối thoại các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính trên
tinh thần tự nguyện và tự định đoạt của các đương sự mà không căn cứ vào chứng
cứ để phân xử đúng sai”. Do đó, khi việc hòa giải được tiến hành tại
Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án (lúc này Tòa án chưa thụ lý vụ việc
dân sự) thì áp dụng nội dung hướng dẫn tại mục 12 Công văn này, tức là việc lấy
ý kiến của con trên 07 tuổi là không bắt buộc.
Khi Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự
thì việc giải quyết phải thực hiện theo quy định của BLTTDS, cụ thể khoản 3 Điều 208 BLTTDS quy định: “Đối với vụ án tranh chấp
về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn,
Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên...”.
Nếu Tòa án không thực hiện thì vi phạm quy định về thủ tục tố tụng.
1.7. Có được tuyên bố mất tích
đối với người đang bị truy nã không? (VKSND
thành phố Hải Phòng).
Trả lời:
Khoản 1 Điều 68 BLDS
và khoản 2 Điều 387 BLTTDS quy định Tòa án có thể
tuyên bố một người mất tích khi có đủ các điều kiện: người đó biệt tích 02 năm
liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về
việc người đó còn sống hay đã chết.
Mặc dù, không có văn bản quy phạm
pháp luật quy định thế nào là “biệt tích” nhưng có thể hiểu sự vắng
mặt của người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là bởi các lý do khách quan như họ gặp
phải thiên tai, bị tai nạn, bị bắt cóc hoặc rủi ro khác... nằm ngoài mong muốn
của người biệt tích và người biệt tích không cố ý bỏ trốn, lẩn tránh. Còn người
bị truy nã theo quy định của pháp luật là bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết
đang ở đâu; người bị kết án, người đang chấp hành án, đang được tạm đình chỉ,
hoãn chấp hành án mà bỏ trốn. Những người này đang bị cơ quan có thẩm quyền
truy tìm tung tích để bắt trở lại. Nếu tuyên bố những người này mất tích thì vô
hình chung đã công nhận việc bỏ trốn của họ là hợp pháp. Bên cạnh đó, thời gian
truy nã không được trừ vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên không thể
được tính là thời gian vắng mặt của người biệt tích để làm cơ sở tuyên bố mất
tích.
Trường hợp một bên đương sự trong vụ
án dân sự đang bị truy nã thì Tòa án căn cứ vào các quy định tại Điều
227, Điều 228 BLTTDS để giải quyết.
2. Quy định của Luật TTHC
2.2. Khoản 8 Điều
32 Luật TTHC quy định: “Trường hợp cần thiết Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên
giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện theo quy định
tại Điều 31 của Luật này”. Quy định này còn chung chung,
khó khăn trong quá trình áp dụng (các VKSND:
Phú Thọ, Đồng Nai, Vĩnh Long, Bắc Giang, Kon Tum, Hà Nam, Bình Định, Bà Rịa-Vũng
Tàu, Quảng Ninh, Quảng Nam, VC1, VC3).
Trả lời:
Từ khi Luật TTHC 2015 được ban hành
chưa có hướng dẫn về quy định tại khoản 8 Điều 32 nêu trên,
tuy nhiên, có thể tham khảo Điều 4 Nghị quyết số 02/2011 của
HĐTP TANDTC ngày 29/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật TTHC
năm 2010 về các trường hợp Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện quy định tại điểm g khoản 1 Điều 30 Luật TTHC năm 2010 như sau:
“1. Khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp.
2. Khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện mà
các Thẩm phán của Tòa án cấp huyện đó đều thuộc Trường hợp phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
3. Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở
nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài”.
Trong đó, Trường hợp nêu tại khoản 1 đã thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh theo Luật TTHC
2015. Các Trường hợp tại khoản 2 và khoản 3 có thể tiếp tục
được áp dụng.
2.2. Theo quy định của Luật
TTHC thì người bị kiện là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chỉ được ủy quyền cho
cấp phó của mình tham gia tố tụng. Trong thực tiễn, hầu hết người bị kiện, người
được ủy quyền đều có đơn xin vắng mặt tham gia đối thoại hay tham gia phiên
tòa, gây khó khăn cho việc tổ chức đối thoại và xét xử vụ án (các VKSND: Nam Định, Phú Thọ, Quảng Bình, Đồng Nai, Bạc Liêu, Đà Nẵng,
Long An, TP Hồ Chí Minh, Yên Bái, Bắc Giang, Quảng Ninh, Kon Tum, Hà Nam, Bình
Định, Cần Thơ, Quảng Trị, Gia Lai, Đồng Tháp, Lạng Sơn, Tây Ninh, Vĩnh Phúc,
VC1, VC3).
Trả lời:
Tình trạng trên đã được phản ánh rõ,
đầy đủ trong Báo cáo số 1516/BC-UBTP14 ngày 26/9/2018 của Ủy ban Tư pháp
của Quốc hội khóa XIV về kết quả giám sát “Việc chấp hành pháp luật
về tố tụng hành chính trong giải quyết các vụ án hành chính, thi hành các bản
án, quyết định hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân”. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019 về việc tăng
cường chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính, trong
đó, chỉ thị rõ nhiệm vụ của các cơ quan để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án
hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước 03 năm qua.
Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành
Công văn số 3882/VKSTC-V14 ngày 28/7/2019 về nâng cao chất lượng
công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính trong
ngành Kiểm sát nhân dân; trong đó, đã chỉ đạo những nhiệm vụ cụ thể khi kiểm
sát các vụ án và vụ việc thi hành án hành chính có liên quan đến quyết định
hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân.
2.3. Sau khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử và trước ngày mở phiên tòa, nếu có các trường hợp là căn cứ tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thì Thẩm phán hay Hội đồng
xét xử có quyền ban hành quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ
án hành chính? (các VKSND: An Giang, Ninh
Bình).
Trả lời:
Điều 145 Luật TTHC quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì “Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình
chỉ, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hoặc quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án”. Điều 165 quy định tại phiên tòa, HĐXX ra
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật TTHC chưa hướng dẫn về thẩm quyền ra các quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ trong khoảng thời gian từ sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến
trước ngày mở phiên tòa.
Tham khảo Điều 219
BLTTDS về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định tiếp tục giải
quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có quy định như sau: “Trước
khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự
có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; quyết định tiếp
tục giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự, quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”.
Công văn số 64/TANDTC-PC ngày
03/4/2019 của TANDTC, tại điểm b mục 3 Phần II hướng dẫn về
thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, có nêu: “...phiên
tòa bắt đầu bằng thủ tục “Khai mạc phiên tòa”...Do đó, đến ngày mở phiên tòa
(được triệu tập) nhưng chưa khai mạc phiên tòa thì chưa coi là “bắt đầu phiên
tòa”, chưa coi là “tại phiên tòa”. Nếu nguyên đơn nộp đơn xin rút yêu cầu khởi
kiện trước khi khai mạc phiên tòa thì Thẩm phán vẫn có thẩm quyền ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án chứ không phải là Hội đồng xét xử”.
Trên thực tế, trong khi giải quyết vụ
án hành chính mà gặp Trường hợp này thì Tòa án thường vận dụng hướng dẫn tại
Công văn số 64/TANDTC-PC nêu trên để tránh tốn kém và phức tạp trong việc mở
phiên tòa.
Tuy nhiên, có quan điểm khác
cho rằng: Trên thực tế, sau khi có Quyết định đưa
vụ án ra xét xử, các thành viên HĐXX sẽ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ để
chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa. Trong giai đoạn này, nếu đương sự xuất
trình tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ thì tài liệu, chứng cứ đó phải được kiểm tra, đánh giá. Nếu Thẩm phán
ra quyết định thì sẽ “chen lấn” với HĐXX và việc Thẩm phán ra quyết định chỉ
phù hợp nếu căn cứ tạm đình chỉ hoặc đình chỉ có thể nhận thấy rõ ngay. Vì vậy,
phiên tòa phải được mở để Hội đồng xét xử xem xét tài liệu, chứng cứ và ra quyết
định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo các khoản
1 và 2 Điều 165 Luật TTHC thì sẽ hợp lý hơn.
2.4. Theo khoản
2 Điều 187 Luật TTHC thì sau khi hết thời hạn 30 ngày tạm ngừng phiên tòa,
nếu lý do tạm ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Vậy, Tòa án có phải mở lại phiên tòa để Hội
đồng xét xử thảo luận, ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án không? (các VKSND: An Giang, Đà Nẵng, Bình Định, VC1).
Trả lời:
Thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 187 Luật
TTHC thuộc về Hội đồng xét xử. Cơ chế làm việc của Hội đồng xét xử là tại
phiên tòa nên phiên tòa phải được mở lại để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định
việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Theo Mẫu số 11-HC trong Danh mục ban
hành kèm theo Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của HĐTP TANDTC thì
“phần cuối cùng của Quyết định cần phải có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành
viên Hội đồng xét xử... ” (ghi chú (9)).
2.5. Khoản 3 Điều
241 Luật TTHC quy định HĐXX phúc thẩm có quyền “hủy bản án sơ thẩm và chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại”; khoản 3 Điều
272 quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền “hủy bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại”. Tuy nhiên,
Luật không quy định thời hạn chuyển hồ sơ cho Tòa án phải xét xử lại và thời hạn
Tòa án xét xử lại phải thụ lý vụ án. Trên thực tế, nhiều vụ án sau 4-5 tháng kể
từ ngày bị hủy án, Tòa án mới thụ lý xét xử lại (các
VKSND: Hải Dương, VC1).
Trả lời:
a) Về việc chuyển hồ sơ cho Tòa án
phải xét xử lại:
- Khoản 1 Điều 244
Luật TTHC 2015 quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra bản án,
quyết định phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm
cho...Tòa án đã giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm...”.
- Khoản 2 Điều 279
Luật TTHC 2015 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra
quyết định, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho
các cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây:...(2) Tòa án ra bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, bị hủy, bị sửa”.
Như vậy, mặc dù Luật không quy định cụ
thể khi gửi bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm trong trường
hợp hủy án để xét xử lại thì Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm phải gửi kèm
theo hồ sơ vụ án cho Tòa án có trách nhiệm xét xử lại nhưng nếu hồ sơ vụ án
không được gửi kèm theo bản án, quyết định trong thời hạn nêu trên thì sẽ không
bảo đảm nguyên tắc xét xử kịp thời theo tinh thần Điều 16 Luật
TTHC, vì sau khi đã ban hành bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm
thì hồ sơ vụ án ở thủ tục xét xử đó đã hoàn tất.
b) Luật
TTHC cũng không quy định thời hạn Tòa án có trách nhiệm xét xử lại phải thụ lý
vụ án nhưng Tòa án phải bảo đảm nguyên tắc xét xử kịp thời nên không thể để quá
lâu mới thụ lý lại vụ án mà không có lý do chính đáng.
2.6. Trong vụ án hành chính khởi
kiện Quyết định phê duyệt phương án bồi thường có yêu cầu tính toán lại số tiền
bồi thường (có kèm theo bảng tính cụ thể với số tiền chênh lệch so với số tiền
trong phương án bồi thường được phê duyệt), khi Tòa án tuyên bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện thì đương sự có phải chịu án phí đối với so tiền chênh lệch không? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
- Điều 30 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án quy định
các loại án phí trong vụ án hành chính, gồm có: Án phí hành chính sơ thẩm;
Án phí hành chính phúc thẩm; Án phí dân sự sơ thẩm đối với Trường hợp có giải
quyết về bồi thường thiệt hại, bao gồm án phí dân sự sơ thẩm không
có giá ngạch và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch; Án phí dân sự phúc thẩm đối
với Trường hợp có kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, theo Điều
7 Luật TTHC thì trong vụ án hành chính, Tòa án chỉ giải quyết yêu cầu bồi
thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính gây ra mà thiệt hại
này lại thuộc trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, khi giải quyết phải áp dụng
các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Khoản 1 Điều 76 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2017
quy định: “Cơ quan giải quyết bồi thường không thu các khoản án phí, lệ phí
và các loại phí khác đối với nội dung yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật này”.
- Phương án bồi thường là nội dung
chính của Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, thực tế là đương sự khởi
kiện chính nội dung này, bảng tính kèm theo là tài liệu, chứng cứ chứng minh
Quyết định nêu trên là sai, cho nên không xác định đây là yêu cầu bồi thường
thiệt hại trong vụ án hành chính.
Vì vậy, khi Tòa án tuyên bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện thì đương sự không phải chịu án phí đối với số tiền chênh lệch.
2.7. Khoản 2
Điều 327 Luật TTHC quy định: “...các quyết định tố tụng khác do người tiến
hành tố tụng hành chính ban hành nếu có khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết
theo quy định của Chương này mà được giải quyết theo quy định của các chương
tương ứng của Luật này” Quy định như vậy dẫn đến nhận thức khác nhau về quyết định
nào được giải quyết theo Chương XXI, quyết định nào được giải quyết theo các
chương khác? Đồng thời, chưa có quy định cụ thể về thủ tục giải quyết tố cáo
trong tố tụng hành chính.
Trả lời:
1. Quy định tại Điều
327 Luật TTHC cần được này hiểu như sau: Chương XXI được
áp dụng để giải quyết khiếu nại đối với các quyết định, hành vi trong tố tụng
hành chính của cơ quan, người tiến hành tố tụng hành chính, trừ bản án, quyết định
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nếu có kháng cáo, kháng
nghị và các quyết định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng hành chính ban
hành nếu có khiếu nại, kiến nghị. “Các quyết định tố tụng khác” được hiểu
là các quyết định mà Luật đã quy định thủ tục khiếu nại, kiến nghị và giải quyết
khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định đó, bao gồm: (1) Quyết định chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền (khoản 2 và khoản 6 Điều
34); (2) Quyết định đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa
án có thẩm quyền (khoản 3 và khoản 6 Điều 34); (3)
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (khoản 1 Điều 76); (4) Văn bản thông báo không ra quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (khoản
1 Điều 76); (5) Văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện (Điều 124); (6) Quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo
thủ tục rút gọn (Điều 248);...
2. Về thủ tục giải quyết tố cáo trong
tố tụng hành chính, Điều 341 Luật TTHC quy định: “Thủ tục
giải quyết tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo”, tức
là theo quy định của Luật tố cáo và quy định của cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tố cáo.
B. NHỮNG KHÓ
KHĂN, VƯỚNG MẮC LIÊN QUAN ĐẾN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ, LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH, LUẬT ĐẤT ĐAI, BỘ LUẬT LAO ĐỘNG, PHÁP LUẬT VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG,
THƯƠNG MẠI, XÂY DỰNG
I. Quy định của
Bộ luật Dân sự (BLDS)
1. Theo Điều
357 và Điều 468 BLDS thì trong giao dịch vay tài sản là vật sẽ không bị
tính lãi có đúng không? (VKSND tỉnh Long An).
Trả lời:
Điều 463 BLDS quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” Như vậy, pháp luật
không loại trừ việc trả lãi đối với quan hệ vay tài sản là vật.
Mặc dù Điều 357 và
Điều 468 BLDS chỉ quy định việc trả lãi đối với tài sản vay là tiền, tuy
nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 14 BLDS “Tòa án không được
từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong
Trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”,
trường hợp vay tài sản là vật, có thỏa thuận về lãi mà có tranh chấp về việc trả
lãi thì Tòa án vẫn phải thụ lý vụ án để giải quyết. Việc giải quyết phải được
thực hiện theo nguyên tắc quy định tại Điều 45 BLTTDS; tài
sản vay là vật có thể được quy ra giá trị bằng tiền để tính lãi suất theo Điều 468 BLDS.
2. Theo khoản
3 Điều 601 BLDS thì người sử dụng xe ô tô, xe máy (nguồn nguy hiểm cao độ)
va chạm với người đi xe đạp hoặc đi bộ, khi thiệt hại xảy ra thì người sử dụng
xe ô tô, xe máy không cỗ lỗi có phải bồi thường thiệt hại cho người đi xe đạp
hoặc đi bộ nếu người này chỉ do bất cẩn (lỗi vô ý) khi tham gia giao thông
không? (VKSND tỉnh Bình Định).
Trả lời:
Khoản 3 Điều 601
BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường
hợp...thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại...”.
Như vậy, nếu người bị thiệt hại có lỗi vô ý thì chủ sở hữu, người chiếm hữu,
người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi vẫn phải bồi thường thiệt hại.
II. Quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ)
1. Trong thực tiễn xét xử, Tòa
án thường coi ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Việc áp dụng pháp luật
như vậy có đúng không? (VKSND tỉnh Bạc Liêu)
Trả lời:
Điều 56 Luật HNGĐ quy định căn cứ để Tòa án giải quyết cho ly hôn là “vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Luật không quy định về ly thân nên
ly thân không phải là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Tuy nhiên, trên thực tế,
vợ chồng ly thân là biểu hiện của vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng (quy định tại Điều 19 của Luật) dẫn đến những hậu quả
nêu tại Điều 56. Do vậy, nếu Tòa án ghi căn cứ cho ly hôn
không chính xác thì VKS có thể kiến nghị Tòa án ghi rõ căn cứ tại Điều 56 Luật HNGĐ.
2. Luật HNGĐ không quy định căn
cứ ly hôn là vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù. Vậy, trường hợp vợ hoặc chồng
xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù thì không đủ cơ sở giải
quyết cho ly hôn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người xin ly hôn.
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 56
Luật HNGĐ thì việc Tòa án quyết định cho ly hôn hay không phải có đủ 02 điều
kiện: về hành vi là: vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc
vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng và về hậu quả
là: tình trạng hôn nhân của vợ, chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc người chồng hoặc vợ đang chấp
hành án phạt tù nếu đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng theo
quy định tại Điều 19 của Luật và dẫn đến các hậu quả nêu
trên thì Tòa án có thể cho ly hôn. Việc giải quyết phải căn cứ vào từng vụ việc
cụ thể, không thể chỉ căn cứ vào việc vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù
mà đương nhiên được ly hôn.
3. Điểm b khoản
2 Điều 95 Luật HNGĐ quy định: “Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi
có đủ các điều kiện sau đây:... Vợ chồng đang không có con chung" Quy định
như trên đã hạn chế quyền có con thứ hai của vợ chồng, nhất là trong trường hợp
người con thứ nhất bị khuyết tật, trong khi chính sách của Nhà nước khuyến
khích mỗi gia đình có một đến hai con.
Trả lời:
Quy định nêu trên xuất phát từ chủ
trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng chế định mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo trong Luật HNGĐ năm 2014. Nếu không quy định chặt chẽ, việc
mang thai hộ dễ bị lợi dụng, biến tướng và rất phức tạp trong việc bảo vệ quyền,
lợi ích của các bên, nhất là của đứa trẻ được sinh ra. Vì vậy, Luật chỉ cho
phép mang thai hộ nhằm giúp vợ chồng không thể tự mang thai và sinh con theo
cách tự nhiên và ngay cả khi đã áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có một đứa con
chung để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nếu vợ chồng đã có con chung thì không được
nhờ người mang thai hộ nữa.
4. Điểm a khoản
3 Điều 95 Luật HNGĐ quy định điều kiện đối với người được nhờ mang thai hộ
như sau: “Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai
hộ... Vậy, cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận điều kiện này và cần các loại giấy
tờ gì?
Trả lời:
Theo khoản 7 Điều 2
Nghị định quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều
kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Văn bản hợp nhất số 02/VBHN-BYT ngày
30/01/2019 của Bộ Y tế) thì: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên
chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ,
cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ;
anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ,
cùng mẹ khác cha với họ”.
Khoản 1 Điều 14 Nghị định nêu trên quy định trong Hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có tài liệu “Bản xác nhận của Ủy ban nhân dân
cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối
quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này” (điểm g). Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền xác nhận
người mang thai hộ là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ. Trường hợp người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng
minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng thì họ có thể cung cấp các giấy tờ hộ
tịch như sổ hộ khẩu, lý lịch, giấy khai sinh, giấy đăng ký kết hôn...
5. Công văn số 253/TANDTC-PC
ngày 26/11/2018 của TANDTC hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người
Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ có mâu thuẫn với quy định tại điểm b khoản 6 Điều 477 BLTTDS 2015 không? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Điểm b khoản 6 Điều
477 BLTTDS quy định “Nếu nguyên đơn, người thân
thích trong nước của đương sự không cung cấp được hoặc người thân thích
trong nước của đương sự từ chối cung cấp địa chỉ đúng hoặc địa chỉ mới của
đương sự ở nước ngoài hoặc đương sự ở nước ngoài không có người thân thích ở
Việt Nam thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Đồng thời, Tòa án giải thích cho người khởi kiện biết quyền yêu cầu Tòa án
thông báo tìm kiếm đương sự vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố
đương sự mất tích hoặc đã chết”
Trong khi đó, theo hướng dẫn tại Công
văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TANDTC thì: “...Trường hợp người Việt
Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và chỉ cung cấp
được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được
địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có
căn cứ để xác định họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân
nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như
không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết đế gửi lời khai về
cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối
khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Tòa án đã yêu cầu
đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của
bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo
cho bị đơn biết thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ
tục chung..”
Như vậy, nội dung tại Công văn số 253
là hướng dẫn về một trường hợp đặc thù: vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt
Nam ở nước ngoài thuộc trường hợp được xác định là bị đơn cố tình giấu địa chỉ,
từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu cho Tòa án. Quy định tại điểm b khoản 6 Điều 477 mang tính chất chung, còn hướng dẫn tại
Công văn số 253 có tính đặc thù do quyền ly hôn là quyền nhân thân trong hôn
nhân và gia đình được pháp luật bảo vệ nên không mâu thuẫn với quy định chung.
III. Quy định của
Luật Đất đai
1. Điều 66 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đất đai không quy định trình tự, thủ tục thu hồi đất đối
với các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai nêu tại điểm a
và điểm b khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai.
Trả lời:
Điểm a và điểm b khoản
1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Các trường
hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm: (a) Sử dụng đất
không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất
và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích
mà tiếp tục vi phạm; (b) Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất”.
Khoản 1 Điều 66 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về trình
tự, thủ tục thu hồi đất do vi phạm pháp luật như sau:
“1. Trường hợp vi phạm pháp luật
mà phải thu hồi đất, khi hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền xử
phạt có trách nhiệm lập biên bản về vi phạm hành chính để làm căn cứ quyết định
thu hồi đất.
Trường hợp vi phạm pháp luật về đất
đai không thuộc trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì biên bản xác
định hành vi vi phạm phải có đại diện của Ủy ban nhân dân cấp xã làm chứng để
làm căn cứ quyết định thu hồi đất và được lập theo quy định sau đây:
a) Cơ quan tài nguyên và môi trường
tổ chức kiểm tra để xác định hành vi vi phạm quy định tại các điểm
c, d và g khoản 1 Điều 64 của Luật Đất đai; tổ chức thanh tra để xác định
hành vi vi phạm quy định tại điểm h và điểm i khoản 1 Điều 64
của Luật Đất đai;
b) Trong thời hạn không quá 07
ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản, người được giao nhiệm vụ kiểm tra,
thanh tra có trách nhiệm gửi biên bản cho cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất để
chỉ đạo thu hồi đất.
Như vậy, Nghị định số 43 chưa quy định
về trình tự, thủ tục thu hồi đất trong trường hợp nêu tại điểm
a khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai vì đây là trường hợp vi phạm “đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục
vi phạm”. Hành vi “người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất” tại điểm b khoản 1 Điều 64 là vi phạm không thuộc trường hợp
bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày
10/11/2014 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
nhưng việc lập biên bản xác định vi phạm lại chưa được quy định đầy đủ, cụ thể
tại đoạn 2 khoản 1 Điều 66 Nghị định 43, nên không có căn
cứ để thực hiện thu hồi đất theo khoản 2 Điều 64 Luật Đất đai.
2. Khoản 2 Điều
202 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp
không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp
để hòa giải”. Tuy nhiên, Luật Đất đai không quy định loại tranh chấp đất đai
nào phải qua hòa giải và loại tranh chấp đất đai nào không phải qua hòa giải
Trả lời:
- Khoản 24 Điều 3 Luật
Đất đai quy định “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai ”. Khoản 2 Điều 202 của Luật quy định: “Tranh chấp đất đai mà
các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có đất tranh chấp để hòa giải”. Như vậy, pháp luật đất đai không giới hạn
thẩm quyền của UBND cấp xã trong việc hòa giải tranh chấp đất đai, nếu các bên
có đơn đề nghị hòa giải thì Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức hòa giải theo các khoản 3, 4 và 5 Điều 202 của Luật.
- Tuy nhiên, có loại tranh chấp đất
đai phải qua thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã mới có thể khởi kiện ra Tòa án được.
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày
05/05/2017 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản
1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền
nộp đơn khởi kiện lại vụ án hướng dẫn về “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo
quy định của pháp luật” tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS
như sau: “Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được
hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp
theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được
xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với tranh chấp khác
liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền
sử dụng đất; tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ
chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án”.
- Tranh chấp đất đai mà đương sự yêu
cầu UBND có thẩm quyền giải quyết thì tranh chấp đó phải đã được hòa giải tại
UBND cấp xã mà không thành và đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.
3. Biên bản hòa giải tranh chấp
đất đai có xác nhận của UBND cấp xã có hiệu lực pháp luật không? (các VKSND: Bà Rịa-Vũng Tàu, Quảng Ninh).
Trả lời:
Biên bản hòa giải có xác nhận của
UBND cấp xã có hiệu lực pháp luật: biên bản hòa giải thành là cơ sở để cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (khoản 5 Điều 202 Luật Đất đai);
biên bản hòa giải không thành là tài liệu chứng minh vụ việc có đủ điều kiện khởi
kiện tại Tòa án hoặc được yêu cầu UBND giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, biên bản
hòa giải thành không có giá trị cưỡng chế thi hành. Sau khi có biên bản hòa giải
thành có xác nhận của UBND cấp xã, đương sự có thể yêu cầu Tòa án công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương
XXXIII BLTTDS để bảo đảm hiệu lực thi hành của kết quả hòa giải ghi trong
biên bản.
4. Khoản 5 Điều
34 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định: “Đối với đất sử dụng trước
ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà có nguồn gốc do được Nhà nước cho thuê đất trả tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì người có đất thu hồi không được bồi
thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại theo quy định
của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004..." Tuy nhiên, khoản 2 Điều
35 của Nghị định này lại quy định: “Nghị định này thay thế Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004...” Như vậy, các quy định trên có mâu thuẫn nhau
không?
Trả lời:
Các quy định trên cần được hiểu như
sau: Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện
theo Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ kể từ ngày Nghị định
có hiệu lực. Riêng đối với Trường hợp quy định tại khoản 5 Điều
34 Nghị định số 47 thì việc bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại vẫn
được thực hiện theo quy định tương ứng tại Nghị định số 197. Quy định tại khoản 5 Điều 34 Nghị định số 47 có tính chất như một điều khoản
chuyển tiếp, xử lý vấn đề phát sinh khi ban hành Nghị định nên không mâu thuẫn
với quy định tại khoản 2 Điều 35 của Nghị định này.
5. Qua thực tiễn công tác kiểm
sát việc giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất cho thấy việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan có thẩm quyền còn nhiều sai sót, đặc
biệt là trong giai đoạn thực hiện theo Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ về việc ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp (các VKSND: TP Hồ Chí Minh, Long An).
Trả lời:
Qua thực tiễn công tác kiểm sát mà
phát hiện tình trạng này thì VKS có thể kiến nghị với cơ quan đã cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bị sai đó đính chính hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo quy định tai Điều 106 Luật Đất đai năm 2013
và các điều 86, 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013 hoặc đề nghị HĐXX hủy Quyết
định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp không đúng theo quy định tại Điều 34 BLTTDS, Điều 32 Luật TTHC.
6. Đối với đất bãi bồi ven biển,
đất khó giao khó chia, đất không thuộc quỹ đất công ích hiện nay tại Hải Phòng
mỗi địa phương quản lý khác nhau. Có nơi không thực hiện giao đất theo Nghị định
64-CP ngày 27/9/1993 mà địa phương vẫn quản lý chung, chỉ ký hợp đồng cho thuê
với hộ gia đình, cá nhân từ năm 1987, sau đó, hộ gia đình, cá nhân đã cho người
khác thuê lại. Có nơi đã cấp giấy CNQSD đất cho hộ gia đình, cá nhân theo thực
tế sử dụng (theo hạn mức quy định tại Điều 129 Luật Đất đai
năm 2013 nhưng nhiều hơn mức bình quân nhân khẩu tại địa phương). Khi Nhà
nước quyết định thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh thì phát sinh một số
vướng mắc: Ai là đối tượng bị thu hồi đất? Chế độ, chính sách bồi thường đối với
người đã được cấp giấy CNQSD đất bị thu hồi đất? (VKSND
thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
- Đối tượng bị thu hồi đất là người
có hợp đồng thuê đất trực tiếp với nhà nước (cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
thuê đất) theo quy định tại Điều 1 Luật Đất đai năm 1993, khoản 4 Điều 3 Luật Đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung năm
1998), khoản 2 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003, khoản 8 Điều 3 và Điều 5 Luật Đất đai năm 2013.
- Chế độ, chính sách bồi thường đối với
người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định
tại Điều 74, khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013.
7. Những vướng mắc phát sinh do
quy định của Luật Đất đai 2013 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật còn
chưa đầy đủ, cụ thể, rõ ràng hoặc có mâu thuẫn với nhau được VKSND các cấp phản
ánh, cụ thể là:
- Việc ghi chủ thể là hộ gia đình
trên giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
gây khó khăn cho việc xác định các chủ thể tham gia giao dịch về quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
- Không có quy định cụ thể về xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước tại
điểm g khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai 2013 nên thực tế không
xử lý được vi phạm;
- Quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 37 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về đối tượng được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có
cả “tổ chức, cá nhân nước ngoài” là trái với quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật Đất đai 2013;
- Quy định tại khoản
56 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ trái với
quy định tại khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai về thủ tục thu
hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp;
- Mâu thuẫn trong các quy định về thu
hồi đất, thu hồi giấy chứng nhận đã cấp tại điểm c khoản 1 Điều
64, điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013 và khoản 5
Điều 87 Nghị định số 43/2014;
- Quy định tại khoản
3 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai
tại UBND cấp xã còn chưa chặt chẽ về thời hạn và thủ tục dẫn đến trên thực tế
có nhiều vụ hòa giải thành sau đó các bên lại đổi ý yêu cầu giải quyết lại, làm
kéo dài việc giải quyết;
- Chưa có hướng dẫn đối với trường hợp
một số huyện trực thuộc tỉnh, thành phố không có đơn vị hành chính cấp xã (huyện
Côn Đảo thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, huyện Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị, huyện
Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng) thì việc tổ chức hòa giải tranh chấp đất
đai do cơ quan nào thực hiện?
Trả lời:
Qua rà soát, đối chiếu, VKSNDTC nhận
thấy các ý kiến phản ánh nêu trên là chính xác. VKSNDTC đã tập hợp đầy đủ các ý
kiến và kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường khắc phục trong việc soạn thảo dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013 (Công văn số 3284/VKSTC-V14 ngày
25/7/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao).
IV. Quy định của Bộ
luật Lao động (BLLĐ)
Trường hợp người sử dụng lao động
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với người lao động mà người
lao động đã có công việc mới, đóng bảo hiểm xã hội trước khi khởi kiện vụ án
lao động hoặc trước khi Tòa án xét xử thì “những ngày người lao động không được
làm việc” quy định tại Điều 42 BLLĐ được hiểu là tính đến
ngày Tòa án ra bản án hay đến ngày người lao động có công việc mới? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Khoản 1 Điều 42 BLLĐ quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật như sau: “Phải nhận người lao động trở lại làm
việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với
ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động”.
Như vậy, Trường hợp người lao động bị
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nhưng họ đã có công việc mới,
đóng bảo hiểm xã hội trước khi khởi kiện hoặc trước khi Tòa án xét xử thì “những
ngày người lao động không được làm việc” trong quy định trên được hiểu là
tính đến ngày người lao động có công việc mới.
V. Quy định của
pháp luật về tín dụng ngân hàng
1. Khi ký hợp đồng tín dụng trước
ngày 15/3/2017 (ngày Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng có hiệu lực thi hành), tổ chức
tín dụng và khách hàng thỏa thuận về việc phạt chậm trả lãi (lãi chậm trả lãi)
với mức lãi suất cao hơn 10% được quy định tại điểm b khoản 4
Điều 13 Thông tư 39. Thỏa thuận này có phù hợp với quy định của pháp luật
không? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
1.1. Việc các bên thỏa thuận tính lãi
đối với khoản lãi chậm trả không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm
trước ngày 01/01/2017 (ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực), vì:
- Điều 11 Quyết định
số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc
ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng chỉ quy định về
lãi suất cho vay và lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn, không quy định
về “lãi chậm trả lãi”. Quy định này cũng phù hợp với khoản
5 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Về bản chất, “lãi chậm trả lãi”
không phải là khoản phạt vi phạm hợp đồng quy định tại khoản 1
Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2005.
1.2. Từ ngày 01/01/2017, thỏa thuận về
“lãi chậm trả lãi” phù hợp với quy định của pháp luật vì đã được Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 và được
quy định cụ thể tại điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39,
theo đó, mức lãi suất “không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả”.
Khoản 1 Điều 34
Thông tư số 39 quy định: “Đối với các hợp đồng tín
dụng được ký kết trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành: Tổ chức tín dụng
và khách hàng tiếp tục thực hiện các nội dung trong hợp đồng tín dụng đã ký kết
phù hợp với quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm ký kết hợp
đồng đó hoặc thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng phù hợp với quy định
tại Thông tư này”.
Như vậy, nếu hợp đồng tín dụng có thỏa
thuận về lãi chậm trả lãi được ký kết từ ngày 01/01/2017 nhưng mức lãi suất cao
hơn mức quy định tại điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư 39
thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Khi thực hiện hợp đồng tín dụng,
nếu khách hàng đã trả tiền lãi chậm trả lãi với mức lãi suất cao hơn do pháp luật
quy định thì số tiền cao hơn đã trả có được trừ vào số tiền nợ gốc tại thời điểm
trả lãi theo quy định tại Điều 9 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm không? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Điều 9 Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP quy định: “Hợp đồng vay tài sản có
thỏa thuận về lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn
cao hơn mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn được
pháp luật quy định thì mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi
quá hạn vượt quá không có hiệu lực; số tiền lãi đã trả vượt quá mức lãi suất,
lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn quy định được trừ vào số tiền
nợ gốc tại thời điểm trả lãi; số tiền lãi đã trả vượt quá còn lại sau khi đã trừ
hết nợ gốc thì được trả lại cho bên vay”.
Các khoản 1 và 2 Điều 14 Nghị quyết
này quy định: Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/3/2019. Đối với những
vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động đã được Tòa án thụ lý trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực
nhưng kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực mới xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.
Do đó, Điều 9 Nghị
quyết số 01/2019/NQ-HĐTP được áp dụng để giải quyết vụ án trong các trường
hợp sau:
- Vụ án được Tòa án thụ lý từ ngày
15/3/2019;
- Vụ án được Tòa án cấp sơ thẩm thụ
lý trước ngày 15/3/2019 nhưng từ ngày 15/3/2019 mới xét xử sơ thẩm; được Tòa án
cấp phúc thẩm thụ lý trước ngày 15/3/2019 nhưng từ ngày 15/3/2019 mới xét xử
phúc thẩm; được Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thụ lý trước ngày 15/3/2019
nhưng từ ngày 15/3/2019 mới xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
3. Khi giải quyết các vụ án
tranh chấp hợp đồng tín dụng trong đó khách hàng đã trả hết tiền nợ gốc, lãi
trên nợ gốc, chỉ còn nợ tiền lãi chậm trả lãi, các Tòa án tuyên án còn chưa thống
nhất, có Tòa án tuyên “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng”,
Có Tòa án lại tuyên “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 BLDS 2015”, Vậy, quyết định nào là hợp lý? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
3.1. Theo các khoản
1 và 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất,
phạt vi phạm thì nếu hợp đồng tín dụng xác lập trước ngày 01/01/2017 mà có thỏa
thuận về tiền lãi chậm trả lãi thì thỏa thuận này đã vi phạm quy định của pháp
luật, Tòa án không được chấp nhận thỏa thuận này.
3.2. Đối với hợp đồng tín dụng xác lập
kể từ ngày 01/01/2017 thì thỏa thuận về tiền lãi chậm trả lãi là hợp pháp. Trường
hợp khách hàng đã trả hết tiền nợ gốc, lãi trên nợ gốc, chỉ còn nợ tiền lãi chậm
trả lãi thì lưu ý:
Điểm a khoản 1 Điều
13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP nêu trên quy định về
việc quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án như sau: “Khi
giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có
nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án thì Tòa án phải
quyết định trong bản án hoặc quyết định (Phần quyết định) như sau: Đối với trường
hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả
lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi
hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015”.
Như vậy:
- Nếu các bên đã thỏa thuận về mức
lãi suất trong hợp đồng và mức này phù hợp với quy định của pháp luật (không vượt
quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39) thì Tòa án tuyên “phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên
thỏa thuận” là đúng.
- Nếu các bên không thỏa thuận về mức
lãi suất trong hợp đồng và tại Tòa án thì Tòa án tuyên “phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015” là đúng.
4. Việc Tòa án tuyên lãi suất đối
với khoản tiền còn phải thi hành án trong các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
còn chưa thống nhất có Tòa án tuyên trên cơ sở Án lệ số 08 như sau: “Kể từ ngày
xét xử sơ thẩm, bị đơn vẫn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi tính trên số nợ gốc
theo lãi suất thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng tương ứng cho đến khi trả
hết nợ gốc”, có Tòa án lại tuyên trên cơ sở Điều 13 Nghị quyết
số 01/2019/NQ-HĐTP: “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận phù hợp với quy
định của pháp luật” Vậy, áp dụng quy định nào là đúng? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Quyết định để làm án lệ tại Án lệ số
08/2016/AL được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh
án TANDTC có nội dung như sau: “Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân
hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn,
phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng
tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm,
khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ
gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng
cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này”.
Điểm a khoản 1 Điều
13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP quy định: “Đối với
trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về
việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải
phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì
quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015”.
Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP là văn
bản quy phạm pháp luật, được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết
tranh chấp về lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng nhiều năm qua. Vì vậy, quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01 đã khái
quát và đầy đủ hơn nội dung quyết định để làm án lệ tại Án lệ số 08 (là quyết định
được tuyên nhằm giải quyết một vụ án cụ thể). Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định
của Nghị quyết số 01 để giải quyết vụ án phải căn cứ vào Điều
14 (Hiệu lực thi hành) của Nghị quyết, trên cơ sở đó, mới có thể xác định
Tòa án áp dụng văn bản có chính xác không.
5. “Số tiền còn phải thi hành
án” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP gồm các khoản tiền nào? (VKSND
thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Điểm a khoản 1 Điều
13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP quy định: “Đối với
trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về
việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải
phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì
quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015”.
Quy định trên nhằm xác định khoảng thời
gian mà bên vay phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả các loại lãi đã thỏa thuận
trong hợp đồng là “kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi
thi hành án xong”. Các loại lãi mà các bên được phép thỏa thuận trong hợp đồng
theo quy định của pháp luật là: lãi trên nợ gốc trong hạn, lãi chậm trả lãi
trên nợ gốc trong hạn, lãi trên nợ gốc quá hạn. Như vậy, “số tiền còn phải
thi hành án” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết
số 01 được hiểu bao gồm nợ gốc chưa trả và lãi trên nợ gốc trong hạn
chưa trả.
VI. Quy định của
pháp luật về thương mại, xây dựng
Trong các vụ án tranh chấp hợp
đồng thương mại và hợp đồng xây dựng do đương sự vi phạm thời hạn thanh toán,
Tòa án tuyên bên vi phạm phải thanh toán cả tiền lãi do chậm thanh toán và phạt
do vi phạm thời hạn thanh toán thì có đúng quy định của pháp luật không? (VKSND thành phố Đà Nẵng)
Trả lời:
1. Về bản chất, lãi chậm thanh toán
và phạt do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có nội dung, ý nghĩa khác nhau, cụ thể như
sau:
- Phạt vi phạm là chế tài để trừng phạt
và phòng ngừa vi phạm, được quy định tại Điều 300 và Điều 301
Luật Thương mại năm 2005 (áp dụng đối với hợp đồng thương mại) và khoản 1, khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng năm 2014 (áp dụng đối
với hợp đồng xây dựng):
+ Điều 300 Luật
Thương mại năm 2005 quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có
thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
này”.
+ Điều 301 Luật
Thương mại năm 2005 quy định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng,
nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường
hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.
+ Khoản 1 và khoản 2
Luật Xây dựng năm 2014 quy định: “(1) ... phạt hợp đồng xây dựng phải được
các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng; (2) Đối với công trình xây dựng sử dụng
vốn nhà nước, mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng
bị vi phạm…”
- Lãi do chậm thanh toán là khoản tiền
mà bên được thanh toán đương nhiên và đáng lẽ phải được hưởng từ việc sử dụng số
tiền nếu được thanh toán đúng hạn, được quy định tại Điều 306
Luật Thương mại năm 2005 như sau: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm
thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý
khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm
trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh
toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, quan điểm cho rằng lãi do chậm
thanh toán là một hình thức phạt vi phạm hợp đồng là không chính xác.
2. Tham khảo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số
quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm về xử lý việc không trả nợ
đúng hạn trong hợp đồng vay tài sản có quy định: “Hợp đồng vay tài sản có thỏa
thuận xử lý đối với hành vi không trả nợ đúng hạn của bên vay thì Tòa án xem
xét, quyết định theo nguyên tắc chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi
không trả nợ đúng hạn”; việc áp dụng phạt vi phạm, tính lãi hay hình thức
khác dù đã có thỏa thuận trong hợp đồng do Tòa án căn cứ vào quy định tương ứng
của pháp luật tại thời điểm xác lập hợp đồng, thời điểm tính lãi suất để xem
xét, quyết định.
Do vậy, nếu tranh chấp hợp đồng mà có
cả vi phạm chậm thanh toán và vi phạm khác thì có thể áp dụng cả lãi do chậm
thanh toán và phạt vi phạm (nếu đã có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng);
nếu chỉ có vi phạm chậm thanh toán thì Tòa án chỉ áp dụng một trong hai hình thức
trên.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc
về áp dụng pháp luật và nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự,
vụ án hành chính để VKSND các cấp nghiên cứu, tham khảo. Quá trình thực hiện, nếu
có vấn đề cần trao đổi, đề nghị phản ánh về VKSNDTC (qua Vụ 14) để xem xét, xử
lý kịp thời./.
Nơi nhận:
- Như kính gửi:
- Đ/c Viện trưởng VKSTC (để b/c);
- Đ/c Trần Công Phàn, PVT VKSTC (để b/c);
- Lưu: VT, V14.
|
TL.
VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ PHÁP CHẾ
VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC
Hoàng Thị Quỳnh Chi
|
[1] Thông tư liên tịch số
02/2010/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2019 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của
BLTTDS.
[2] Nội dung trả lời cũng áp dụng
trong tố tụng hành chính
[3] Nội dung trả lời này cũng áp dụng
trong tố tụng hành chính
[4] Nội dung trả lời này cũng áp dụng
trong tố tụng hành chính
[5] Thông tư liên tịch số
03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và
TAND trong việc thi hành một số quy định
của Luật Tố tụng hành chính.
[6] Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày
22/3/2018 về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
[7] Công văn số 354/TANDTC-PC ngày
13/8/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc tổng kết thí
điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhân dân.