Kính
gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh gửi tới sau kỳ họp thứ 7 Quốc hội
khóa XV do Ban Dân nguyện chuyển đến theo Công văn số 655/BDN ngày 02/8/2024 với
nội dung kiến nghị như sau:
“Đối với dự án Luật Di sản
văn hóa (sửa đổi):
1. Về giải thích từ ngữ (Điều
3)
- Tại khoản 22 và khoản 23,
đề nghị quy định giải thích rõ hoạt động “sửa chữa thường xuyên”, “tôn tạo” được
thực hiện đối với di tích và danh lam thắng cảnh, đảm bảo phù hợp với thực tiễn
và thống nhất với khoản 24 Điều này quy định hoạt động tu bổ (trong đó có tôn tạo)
áp dụng đối với cả di tích và danh lam thắng cảnh.
- Tại khoản 25, quy định:
“Tu sửa cấp thiết di tích là hoạt động sửa chữa mà không phải tháo rời toàn bộ
cấu kiện, thành phần kiến trúc hoặc là hoạt động chống đỡ, gia cố, gia cường tạm
thời để ngăn chặn di tích, di tích thuộc danh mục kiểm kê di tích khỏi bị sập đổ,
hủy hoại”. Thực tế, nếu tu sửa di tích mà “không phải tháo rời toàn bộ cấu kiện,
thành phần kiến trúc hoặc là hoạt động chống đỡ, gia cố, gia cường tạm thời”
thì không đúng với tính chất tu sửa cấp thiết. Do đó, đề nghị sửa thành: “Tu sửa
cấp thiết di tích là hoạt động sửa chữa mang tính cấp bách nhằm ngăn ngừa di
tích thuộc danh mục kiểm kê di tích khỏi bị sập đổ, hủy hoại”.
- Đề nghị bổ sung giải thích
các khái niệm: “Đối tượng kiểm kê di tích”, “địa điểm khảo cổ”, đảm bảo tính khả
thi trong quá trình thực hiện.
2. Về sở hữu di sản văn hóa
(Điều 4)
Cần quy định rõ hình thức sở
hữu riêng, sở hữu chung về di sản văn hóa và quy định cụ thể thẩm quyền, tiêu
chí xác định các hình thức sở hữu đối với di sản văn hóa; nguyên tắc quản lý, bảo
vệ, phát huy di sản văn hóa. Đồng thời quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp
quyền sở hữu đối với di sản văn hóa phát sinh giữa cá nhân, tổ chức nhằm bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng của cộng đồng, người dân đối với di sản văn hóa.
3. Về các loại hình di sản
văn hóa phi vật thể (Điều 9)
Công ước 2003 của UNESCO
phân loại di sản văn hóa phi vật thể thành 5 loại hình/lĩnh vực, bao gồm: Các
truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản
văn hóa phi vật thể; nghệ thuật trình diễn; tập quán xã hội, tín ngưỡng và các
lễ hội; tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; nghề thủ công
truyền thống.
Tuy nhiên, tại Điều 9 dự thảo
Luật chia di sản văn hóa phi vật thể thành 6 loại hình/lĩnh vực, trong đó tách
lễ hội truyền thống thành mục riêng. Đề nghị cân nhắc quy định phân loại này vì
lễ hội truyền thống phải gắn chặt với tín ngưỡng, không thể bóc tách lễ hội
truyền thống ra khỏi tín ngưỡng, độc lập với tín ngưỡng.
4. Về chính sách đối với nghệ
nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể (Điều 13)
Tại điểm d, khoản 1 quy định:
“Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân ưu tú được nhà nước phong tặng được hưởng trợ cấp
sinh hoạt hàng tháng, hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm y tế, được hỗ trợ chi phí mai
táng khi chết”. Đề nghị quy định rõ mức được hưởng trợ cấp sinh hoạt hàng tháng
là bao nhiêu; đồng thời quy định chỉ hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm y tế, chi phí
mai táng khi chết đối với những người không hưởng lương hưu (hoặc đã được hưởng
chính sách khác).
Hiện nay, HĐND tỉnh Hà Tĩnh
đã ban hành Nghị quyết số 98/2022/NQ- NĐND ngày 16/12/2022 về một số chính sách
phát triển văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2023 - 2025,
trong đó quy định hỗ trợ 1.000.000 đồng/người/tháng đối với Nghệ nhân Ưu tú,
1.500.000 đồng/người/tháng đối với Nghệ nhân Nhân dân; ngoài ra tỉnh chưa có
chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm y tế, chi phí mai táng khi chết đối với đối
tượng này. Vì vậy, đề nghị Luật cần quy định để ngoài chính sách chung thì tỉnh
có thể ban hành chính sách riêng, tạo điều kiện cho các nghệ nhân Nhân dân, nghệ
nhân ưu tú hoạt động, cống hiến.
5. Về cấp độ, tiêu chí xếp hạng
và hình thức xếp hạng di tích (Điều 23)
Tại điểm b, khoản 3, đề nghị
bổ sung nội dung quản lý đối với trường hợp di tích nằm giáp ranh giữa 2 tỉnh
trở lên hoặc 2 tỉnh cùng xếp hạng.
6. Về dự án đầu tư, xây dựng
công trình trong khu vực bảo vệ di tích (Điều 27)
Cần quy định đẩy mạnh việc
phân cấp, giảm bớt các thủ tục hành chính theo hướng chỉ nên quy định việc lấy
ý kiến các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa đối với các dự án đầu tư xây dựng
công trình trong khu vực bảo vệ 1, trước khi cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ
trương đầu tư. Còn khu vực bảo vệ 2 nên giao cho UBND tỉnh xem xét, quyết định
và không phải xin ý kiến.
7. Về dự án đầu tư, xây dựng
công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích có khả năng tác động tiêu cực đến
di tích, cảnh quan văn hóa của di tích (Điều 28)
Đề nghị xem xét bổ sung quy
định về khoảng cách tối thiểu của các công trình xây dựng có khả năng ảnh hưởng
tới di tích để làm cơ sở thẩm định, đánh giá tác động các công trình xây dựng,
dự án phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
8. Về tiêu chuẩn xếp hạng bảo
tàng (Điều 35)
Tại khoản 1 đề nghị thay cụm
từ “phòng, chống các dấu hiệu từ nấm mốc, mối mọt, côn trùng, sinh vật gây hại”
bằng cụm từ “các tác nhân gây hại đến di tích” thành:“Bảo quản định kỳ di tích
là hoạt động kiểm tra, phát hiện, vệ sinh cơ học, các tác nhân gây hại đến di
tích cấu kiện, thành phần kiến trúc, hiện vật, cảnh quan văn hóa của di tích nhằm
bảo vệ di tích trước khi phải thực hiện tu sửa cấp thiết, sửa chữa thường xuyên
di tích” vì ngoài nấm mốc, mối mọt, côn trùng, sinh vật gây hại đến di tích còn
có các tác nhân khác.
9. Về giám định, điều kiện
thực hiện giám định di vật, cổ vật và đăng ký di vật, cổ vật (Điều 39)
- Tại khoản 3 quy định: “Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, bảo tàng công lập được thực hiện giám định di vật,
cổ vật khi đáp ứng đủ các điều kiện tại khoản 2 Điều này và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về kết quả giám định”. Tuy nhiên, tại điểm b, khoản 6 quy định:
“Di vật, cổ vật phải được giám định tại cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 3
Điều này hoặc cơ sở kinh doanh giám định di vật, cổ vật quy định tại Điều 77 Luật
này trước khi đăng ký”.
Như vậy, theo điểm b, khoản
6, ngoài hai chủ thể là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch và Bảo tàng tỉnh còn
quy định thêm “các cơ sở kinh doanh” cũng có thể thực hiện việc giám định nếu
đáp ứng đủ điều kiện. Đề nghị sửa lại đảm bảo thống nhất.
- Đề nghị rà soát phạm vi hoạt
động giám định di vật, cổ vật, đảm bảo thống nhất với Luật Giám định tư pháp
năm 2012 về điều kiện tổ chức thực hiện giám định, chủ thể thực hiện giám định
(cá nhân, tổ chức), chủ thể có thẩm quyền công nhận cá nhân giám định ...
10. Về tiêu chuẩn xếp hạng bảo
tàng (Điều 68)
Tại điểm c, khoản 2 quy định:
“Số lượng khách tham quan bảo tàng hàng năm có từ 50.000 lượt người trở lên (đối
với bảo tàng có thu phí tham quan) hoặc có từ 100.000 lượt người trở lên (đối với
bảo tàng không thu phí tham quan)” đối với bảo tàng hạng II; điểm c, khoản 3
quy định: “Số lượng khách tham quan bảo tàng hàng năm có từ 25.000 lượt người
trở lên (đối với bảo tàng có thu phí tham quan) hoặc trên 50.000 lượt người trở
lên (đối với bảo tàng không thu phí tham quan)” đối với Bảo tàng hạng
III. Quy định tiêu chuẩn xếp hạng như vậy là quá cao, không phù hợp với thực tế.
Đề nghị xem xét giảm tiêu chuẩn.
11. Về kinh doanh di vật, cổ
vật (Điều 78)
Tại điểm b, khoản 4 quy định
một trong các điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh di vật, cổ vật đối
với cá nhân đó là “Có trình độ chuyên môn hoặc am hiểu về di vật, cổ vật”. Việc
quy định điều kiện “am hiểu về di vật, cổ vật” còn mang tính định tính, dẫn đến
khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện thủ tục cấp chứng
chỉ hành nghề kinh doanh di vật, cổ vật cho cá nhân. Đề nghị quy định đảm bảo
thuận lợi, thống nhất và khả thi.
12. Về ứng dụng công nghệ
thông tin, công nghệ số trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa (Điều
85)
Việc số hóa di sản, ứng dụng
công nghệ thông tin, công nghệ số trong lĩnh vực di sản văn hóa được Luật Di sản
văn hóa bổ sung là vấn đề cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, đây là nội dung mới cần
cập nhật được những vấn đề về quản lý, hoạt động, bản quyền, quyền khai thác, sử
dụng, lưu trữ,… Đề nghị quy định rõ để tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động
bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát huy giá trị của di sản văn hóa theo nền tảng
công nghệ kỹ thuật số.
13. Về quỹ bảo tồn di sản
văn hóa (Điều 90)
Tại khoản 1 quy định: “Quỹ bảo
tồn di sản văn hóa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách…” và tại khoản 3
quy định: “Quỹ bảo tồn di sản văn hóa có tư cách pháp nhân; có con dấu riêng;
được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại”.
Tuy nhiên Luật Ngân sách nhà
nước năm 2015 và Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ về
việc hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước không quy định về tư cách pháp
nhân của quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Do đó, đề nghị rà soát, làm rõ
cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý và mục tiêu của Quỹ để đảm bảo tính khả thi, thống
nhất với Luật Ngân sách nhà nước và các quy định khác có liên quan.
14. Ngoài ra, đề nghị bổ
sung một điều về các di sản, các danh nhân đã được UNESCO vinh danh và các di sản
được UNESCO ghi danh, đồng thời có những chính sách đặc thù đối với các di sản,
danh nhân này.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch xin trả lời như sau:
1) Về kiến
nghị liên quan đến việc giải thích từ ngữ tại Điều 3 dự thảo Luật Di sản văn
hóa (sửa đổi)
- Giải thích rõ hoạt động “sửa
chữa thường xuyên”, “tôn tạo” tại khoản 22 và khoản 23 được thực hiện đối với
di tích và danh lam thắng cảnh
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã tiếp thu, làm rõ các loại công trình sửa chữa, cải tạo tại điểm a khoản 1 và
điểm a khoản 2 Điều 28 của Dự thảo Luật (sửa đổi); đồng thời, bổ sung, làm rõ trường
hợp sửa chữa nhỏ di tích tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 36 và giao thẩm quyền
cho người được giao quản lý, sử dụng di tích; chỉnh lý điểm a, điểm c khoản 1
Điều 29 “...trừ trường hợp sửa chữa nhỏ quy định tại điểm b, điểm c khoản
1 Điều 36 của Luật này”. Bên cạnh đó, đã phân cấp thẩm quyền quy định
rõ việc thực hiện bảo quản thường xuyên, sửa chữa nhỏ cho người đại diện, tổ chức
được giao quản lý, sử dụng di tích tại khoản 1 Điều 36 và tu sửa cấp thiết di
tích do Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh tại khoản 2 Điều 36 của Dự thảo
Luật (sửa đổi).
- Về đề nghị điều chỉnh sửa
khoản 25 thành “Tu sửa cấp thiết di tích là hoạt động sửa chữa mang tính cấp
bách nhằm ngăn ngừa di tích thuộc danh mục kiểm kê di tích khỏi bị sập đổ, hủy
hoại”
Khoản 23 Điều 3 của Dự thảo Luật
Di sản văn hóa (sửa đổi) đã quy định về tu sửa cấp thiết là hoạt động sửa chữa
hoặc chống đỡ, gia cố, gia cường tạm thời để ngăn chặn di tích khỏi bị sập đổ,
hủy hoại nhưng không được tháo rời toàn bộ cấu kiện, thành phần kiến trúc của
di tích. Đối với việc tu sửa cần tháo rời toàn bộ cấu kiện, thành phần kiến
trúc của di tích, tác động tới yếu tố cấu thành di tích, theo quy định của Dự
thảo Luật (được kế thừa từ Luật Di sản văn hóa năm 2001, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009), nội dung tu sửa cần lập thành dự
án, không thuộc nội hàm của tu sửa cấp thiết.
- Đề nghị bổ sung giải thích
các khái niệm: “Đối tượng kiểm kê di tích”, “địa điểm khảo cổ”, đảm bảo tính khả
thi trong quá trình thực hiện.
Đối với “Đối tượng kiểm kê di
tích”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiếp thu, và quy định tại khoản 1 Điều
23 của Dự thảo Luật (sửa đổi).
Đối với “địa điểm khảo cổ”, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nghiên cứu, rà soát và quy định Điều 3. Giải
thích từ ngữ theo hướng: Các thuật ngữ lặp đi lặp lại nhiều lần, cần giải thích
để được hiểu đúng trong các quy định sẽ được quy định tại Điều 3; các thuật ngữ
chỉ sử dụng tại một số điều khoản cụ thể hoặc đã rõ thì không quy định giải
thích từ ngữ để tránh số lượng khái niệm phải giải thích quá nhiều. Theo đó,
không giải thích từ ngữ “địa điểm khảo cổ” trong Dự thảo Luật (sửa đổi).
2) Về kiến
nghị liên quan đến sở hữu di sản văn hóa tại Điều 4 dự thảo Luật Di sản văn hóa
(sửa đổi)
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã tiếp thu và điều chỉnh tại dự thảo Luật (sửa đổi), theo đó xác định di sản
văn hóa thuộc từng loại hình sở hữu được xác lập quyền sở hữu tại khoản 3, 4 Điều
4 của dự thảo Luật (sửa đổi). Đồng thời, quy định quyền sở hữu đối với di sản
văn hóa được xác định đăng ký và giải quyết tranh chấp thực hiện theo quy định
của pháp luật về di sản, đất đai, quản lý sử dụng tài sản công, sở hữu trí tuệ,
hình sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan tại khoản 5 Điều 4 của
dự thảo Luật (sửa đổi).
3) Về kiến
nghị cân nhắc quy định phân loại lễ hội truyền thống thành mục riêng tại Điều 9
dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
Về các loại hình di sản văn hóa
phi vật thể quy định tại Điều 9 Dự thảo Luật (sửa đổi), Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã nghiên cứu kỹ nội dung Công ước 2003 để bảo đảm tính tương thích giữa
Công ước với Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), vừa bảo đảm phù hợp với loại hình
di sản văn hóa phi vật thể và thực tiễn công tác quản lý di sản văn hóa phi vật
thể ở Việt Nam.
Công ước 2003 đưa ra 05 loại
hình di sản văn hóa phi vật thể, Luật Di sản văn hóa hiện hành quy định 07 loại
hình, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định 06 loại hình do tách riêng
loại hình “lễ hội truyền thống” trong loại hình tập quán xã hội, tín ngưỡng và
lễ hội” của Công ước 2003. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể có tính độc
lập tương đối, có tính giao thoa với nhau, như: Trong loại hình Nghề thủ công
truyền thống có cả Tri thức dân gian, Tập quán xã hội, tín ngưỡng và ngược lại;
trong loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian có cả các biểu đạt và truyền khẩu
truyền thống và ngược lại...
Loại hình lễ hội truyền thống
là loại hình có tính tổng hợp cao nhất và bao trùm trong tất cả các loại hình của
di sản văn hóa phi vật thể, gắn kết tới tất cả các loại hình còn lại. Đặc thù lễ
hội ở Việt Nam gồm 04 loại hình lễ hội (lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ
hội ngành nghề, lễ hội có nguồn gốc nước ngoài), trong đó chỉ “lễ hội truyền thống”
sẽ có khả năng đáp ứng tiêu chí nhận diện của di sản văn hóa phi vật thể.
Vì vậy, việc quy định 06 loại
hình di sản văn hóa phi vật thể trong dự thảo Luật, tách “lễ hội truyền thống”
thành loại hình riêng để phù hợp với thực trạng di sản văn hóa phi vật thể, đặc
thù lễ hội truyền thống của Việt Nam và để có biện pháp riêng, cụ thể và phù hợp
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị loại hình di sản văn hóa phi vật thể là lễ hội
truyền thống (Điều 20 dự thảo Luật sửa đổi).
4) Về kiến
nghị Điều 13 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) cần quy định để ngoài chính
sách chung thì tỉnh có thể ban hành chính sách riêng, tạo điều kiện cho các nghệ
nhân Nhân dân, nghệ nhân ưu tú hoạt động, cống hiến
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã đề xuất Chính phủ, Quốc hội nội dung về chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân
(Điều 14), cụ thể: Tại Khoản 2 Điều 14 Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
quy định: “Ngoài các chính sách quy định tại khoản 1 Điều này, căn cứ điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn
lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định
chế độ đãi ngộ nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể trên địa
bàn” nhằm đảm bảo các tỉnh, thành phố chủ động có các chính sách phù hợp với
địa phương.
5) Về kiến
nghị điều chỉnh nội dung về cấp độ, tiêu chí xếp hạng và hình thức xếp hạng di
tích tại Điều 23 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã tiếp thu và điều chỉnh thống nhất quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xếp hạng
di tích, phân định rõ về thẩm quyền xếp hạng di tích trên địa bàn 1 tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; xếp hạng di tích khi di tích phân bố trên địa bàn 02
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên tại điểm a khoản 2 Điều 25 của Dự
thảo Luật; hồ sơ di sản thế giới, hồ sơ di sản thế giới đa quốc gia tại điểm b
khoản 3 Điều 25 của Dự thảo Luật (sửa đổi).
6) Về kiến
nghị việc phân cấp, giảm bớt các thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư,
xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích tại Điều 27 của dự thảo Luật
Di sản văn hóa (sửa đổi)
Tại dự thảo Luật Di sản văn hóa
(sửa đổi), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã làm rõ thẩm quyền chấp thuận triển
khai đối với dự án đầu tư, xây dựng công trình bảo vệ và phát huy giá trị di
tích; dự án đầu tư xây dựng công trình kinh tế - xã hội. Theo đó, chỉ được phê
duyệt và triển khai thực hiện sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đối với di sản thế giới, di tích quốc gia đặc biệt, di
tích quốc gia; của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối với di tích cấp tỉnh; là
cơ sở để cơ quan chủ trì thẩm định, cấp phép dự án đầu tư, xây dựng công trình
chấp thuận chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án đầu tư, xây dựng công
trình trong khu vực bảo vệ di tích theo quy định của pháp luật về đầu tư, đầu
tư công và pháp luật khác có liên quan, bảo đảm sự phù hợp và thống nhất với quy
định về thẩm quyền với Luật Đầu tư và pháp luật khác có liên quan.
Đối với quy định về thẩm quyền
chấp thuận triển khai xây dựng nhà ở riêng lẻ trong khu vực bảo vệ I và khu vực
bảo vệ II của tất cả các loại hình di tích, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
chỉnh lý theo hướng quy định rõ việc thực hiện theo quy định của pháp luật về
xây dựng và chỉ được triển khai thực hiện sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản
của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại khoản 2 Điều 29 của Dự thảo Luật (sửa đổi).
7) Về kiến
nghị xem xét bổ sung quy định về khoảng cách tối thiểu của các công trình xây dựng
có khả năng ảnh hưởng tới di tích liên quan đến dự án đầu tư, xây dựng công
trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích có khả năng tác động tiêu cực đến di
tích, cảnh quan văn hóa của di tích tại Điều 28 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa
đổi)
Đặc thù Di tích của Việt Nam đa
dạng loại hình lịch sử - văn hoá, khảo cổ, kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng
cảnh, đa dạng về chất liệu gỗ, đất, đá, gạch..., quy mô; tính chất, phạm vi to,
nhỏ, lớn, bé rất khác nhau (ví dụ Chùa Một Cột, danh thắng Tràng An...). Do đó,
việc xác định khoảng cách tối thiểu của công trình có khả năng ảnh hưởng tới di
tích tùy thuộc yếu tố gốc và yếu tố cảnh quan văn hoá, môi trường sinh thái tạo
nên giá trị của di tích, khó thể có định lượng chung về khoảng cách tối thiểu
mà cần căn cứ hiện trạng mỗi di tích cụ thể và yêu cầu bảo vệ và phát huy giá
trị di tích đó để xác định.
8) Về kiến
nghị chỉnh sửa cụm từ “phòng, chống các dấu hiệu từ nấm mốc, mối mọt, côn
trùng, sinh vật gây hại” bằng cụm từ “các tác nhân gây hại đến di tích” tại khoản
1 Điều 35 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
xin tiếp thu và đã điều chỉnh bổ sung tại khoản 1 Điều 36 của dự thảo Luật (sửa
đổi) quy định về Bảo quản thường xuyên, sửa chữa nhỏ, tu sửa cấp thiết di tích.
9) Về kiến
nghị liên quan đến Điều 39 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
- Về việc điều chỉnh nội dung để
đảm bảo sự thống nhất liên quan đến việc giám định, điều kiện thực hiện giám định
di vật, cổ vật và đăng ký di vật, cổ vật tại Điều 39 dự thảo Luật (sửa đổi)
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
xin tiếp thu và đã rà soát các quy định để bảo đảm sự thống nhất, cụ thể tại
khoản 3 Điều 41. Giám định, điều kiện thực hiện giám định di vật, cổ vật và
đăng ký di vật, cổ vật, như sau: “3. Cơ quan chuyên môn về văn hóa cấp tỉnh, bảo
tàng công lập đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này hoặc cơ sở
kinh doanh giám định di vật, cổ vật quy định tại khoản 1 Điều 79 của Luật này
được thực hiện giám định di vật, cổ vật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
kết quả giám định”.
- Về việc rà soát phạm vi hoạt
động giám định di vật, cổ vật, đảm bảo thống nhất với Luật Giám định tư pháp
năm 2012 về điều kiện tổ chức thực hiện giám định, chủ thể thực hiện giám định
(cá nhân, tổ chức), chủ thể có thẩm quyền công nhận cá nhân giám định ...
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
xin tiếp thu và đã rà soát các quy định, đảm bảo thống nhất với Luật Giám định
tư pháp năm 2012 và các quy định khác của pháp luật có liên quan, cụ thể tại Điều
41. Giám định, điều kiện thực hiện giám định di vật, cổ vật và đăng ký di vật,
cổ vật. Đồng thời, Chính phủ sẽ quy định chi tiết trình tự, thủ tục, hồ sơ giám
định di vật, cổ vật; cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận chuyên gia giám định
di vật, cổ vật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong các hoạt
động giám định di vật, cổ vật.
10) Về
kiến nghị giảm tiêu chuẩn xếp hạng bảo tàng tại Điều 68 dự thảo Luật Di sản văn
hóa (sửa đổi)
Các tiêu chuẩn xếp hạng bảo
tàng sẽ không đưa vào Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) mà sẽ giao Chính phủ
quy định chi tiết. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xin tiếp thu ý kiến của cử
tri tỉnh Hà Tĩnh và sẽ nghiên cứu, điều chỉnh các quy định về tiêu chuẩn xếp hạng
bảo tàng trong quá trình xây dựng, tham mưu Chính phủ ban hành các văn bản dưới
luật, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn hoạt động của các đơn vị, địa
phương.
11) Về
kiến nghị liên quan đến điểm b khoản 4 Điều 78 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa
đổi) về kinh doanh di vật, cổ vật
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
xin tiếp thu và đã rà soát quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình thực hiện thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh
di vật, cổ vật cho cá nhân tại Điều 80, cụ thể như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân được kinh
doanh di vật, cổ vật; bảo quản, phục chế di vật, cổ vật; số hóa, xây dựng cơ sở
dữ liệu di vật, cổ vật thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp
luật về đầu tư, doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan và đáp
ứng các điều kiện sau:
a) Có giấy chứng nhận đủ điều
kiện đầu tư kinh doanh di vật, cổ vật đối với cơ sở kinh doanh di vật, cổ vật;
b) Có chứng chỉ hành nghề kinh
doanh di vật, cổ vật đối với chủ cơ sở hoặc người đại diện theo pháp luật;
c) Có trụ sở bảo đảm điều kiện
để lưu giữ, bảo quản hoặc trưng bày di vật, cổ vật và các phương tiện, kỹ thuật
phù hợp với ngành, nghề đăng ký.”.
Đồng thời, dự thảo Luật Di sản
văn hóa (sửa đổi) đã giao Chính phủ quy định chi tiết các nội dung này để tạo
điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
12) Về
kiến nghị quy định rõ để tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ,
khai thác, sử dụng và phát huy giá trị của di sản văn hóa theo nền tảng công
nghệ kỹ thuật số liên quan đến Điều 85 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
Các nội dung liên quan đến bản
quyền, quyền khai thác, sử dụng, lưu trữ trong lĩnh vực di sản văn hóa được quy
định rõ tại khoản 3 Điều 88 dự thảo Luật (sửa đổi), cụ thể việc khai thác, phát
huy giá trị di sản văn hóa trên môi trường điện tử thực hiện theo các quy định
của Luật này, Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
13) Về
kiến nghị rà soát, làm rõ cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý và mục tiêu của Quỹ bảo
tồn di sản văn hóa để đảm bảo tính khả thi, thống nhất với Luật Ngân sách nhà
nước và các quy định khác có liên quan
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã rà soát, nghiên cứu quy định rõ về Quỹ bảo tồn di sản văn hóa: (i) Quỹ không
sử dụng ngân sách nhà nước và Nhà nước không hỗ trợ kinh phí đối với các hoạt động
của Quỹ; (ii) Chính sách về Quỹ đã được Chính phủ thông qua để trình Quốc hội.
Hiện nay, một số Quỹ hoạt động không hiệu quả nhưng Quỹ này được thành lập nhằm
bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hoá nhưng ngân sách Nhà nước tại một số địa
phương chưa bảo đảm được, đặc biệt là di tích; (iii) Thực tế, mô hình Quỹ bảo tồn
di sản văn hoá đã có thí điểm ở tỉnh Thừa Thiên Huế, đây là mô hình mới, có cơ
chế quản lý, vận động hỗ trợ bước đầu đạt hiệu quả nhất định.
14) Về
kiến nghị đề nghị bổ sung một điều về các di sản, các danh nhân đã được UNESCO
vinh danh và các di sản được UNESCO ghi danh, đồng thời có những chính sách đặc
thù đối với các di sản, danh nhân này
- Về việc bổ sung điều về các
di sản, các danh nhân đã được UNESCO vinh danh, các di sản được UNESCO ghi
danh, đồng thời có những chính sách đặc thù đối với các di sản, danh nhân này:
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất trong Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa
đổi) nội dung này quy định tại Khoản 9 Điều 7: “Tổ chức, tham gia, phối hợp với
UNESCO tổ chức các sự kiện văn hóa, lịch sử vinh danh, kỷ niệm ngày sinh hoặc
năm mất đối với cá nhân người Việt Nam có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực
văn hóa, khoa học, giáo dục có tầm ảnh hưởng lớn đối với quốc gia, dân tộc và
lan tỏa đến khu vực hoặc thế giới.”.
- Về biện pháp bảo vệ các di sản
được UNESCO ghi danh, Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã quy định cụ thể ở
các Chương, điều trong từng lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể, di sản vật thể
và di sản tư liệu, đảm bảo các di sản này đều có biện pháp bảo vệ phù hợp với
Công ước quốc tế và pháp luật của Việt Nam.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
trân trọng gửi tới Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh để trả lời cử tri./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Đoàn Chủ tịch UBTƯMTTQ Việt Nam;
- Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- HĐND, UBND tỉnh Hà Tĩnh;
- Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chính phủ;
- Bộ VHTTDL: Bộ trưởng, các Thứ trưởng;
- Các Cục: DSVH, VHCS; Vụ PC; Cổng TTĐT Bộ;
- Lưu: VT, VP (TKBT), PAV (15).
|
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Hùng
|