BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 172/BVHTTDL-PC
V/v phối hợp biên soạn
tài liệu giới thiệu Luật, Nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ
họp thứ 8
|
Hà Nội, ngày 14 tháng 01 năm 2025
|
Kính gửi: Bộ Tư pháp
(Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật)
Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhận được Công văn số 7335/BTP- PBGDPL ngày
19/12/2024 của Bộ Tư pháp về việc phối hợp biên soạn tài liệu giới thiệu Luật,
Nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 8. Căn cứ các nội
dung hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đã xây dựng tài
liệu giới thiệu Luật Di sản văn hóa số 45/2024/QH15 (gửi kèm theo Công văn).
Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch kính gửi Bộ Tư pháp tài liệu để đăng tải công khai
trên Cổng Thông tin điện tử phổ biến, giáo dục pháp luật quốc gia và Trang
thông tin điện tử phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc Cổng Thông tin điện tử Bộ
Tư pháp.
Trân
trọng./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng;
- Cục Di sản văn hóa;
- Cổng thông tin điện tử Bộ VHTTDL (để đăng tải);
- Lưu: VT, PC, QC (03).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Hoàng Đạo Cương
|
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
CỤC DI SẢN VĂN HÓA
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
TÀI LIỆU GIỚI THIỆU
LUẬT DI SẢN VĂN HOÁ SỐ 45/2024/QH15
Luật
Di sản văn hóa số 45/2024/QH15 (sau đây gọi là Luật Di sản văn hoá năm 2024)
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV thông qua tại kỳ
họp thứ 8 ngày 23 tháng 11 năm 2024. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 7 năm 2025, thay thế Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 (đã được sửa
đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 32/2009/QH12) trừ trường hợp quy định về
nội dung chuyển tiếp tại Điều 95 của Luật này.
I.
SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
1.
Cơ sở chính trị
Công
tác bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa luôn được Đảng và Nhà nước
đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để giữ gìn được những bản sắc văn
hóa của dân tộc, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, lan tỏa các
giá trị văn hóa tới bạn bè quốc tế, góp phần nâng cao vị thế quốc gia… Tầm quan
trọng, vai trò, vị trí của văn hóa trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các Nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, của Quốc hội, của Chính phủ, là cơ sở để các cơ quan chức năng
cụ thể hóa, xây dựng được các chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa:
-
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện những quan điểm mới về quyền con người, trong đó
có quyền văn hóa được thể hiện tại Điều 41: “Mọi người có quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở
văn hóa”.
-
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16 tháng 7 năm 1998 của Hội nghị lần thứ V Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó đã xác định nhiệm vụ “Bảo tồn
và phát huy các di sản văn hóa”.
-
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục
xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
-
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI và Kết luận số 76-KL/TW ngày 04 tháng 6 năm 2020
của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”.
-
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó có nội dung xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-
Nhất là, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (ngày 24 tháng 11 năm 2021), Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định rõ vị trí, vai trò của văn hóa trong sự phát
triển kinh tế - xã hội và là cơ hội để các cấp, các ngành xây dựng chiến lược
phát triển văn hóa trong thời đại mới, với những nội dung chính: “Quan tâm
hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân
tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển “sức mạnh
mềm” của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong
thời gian tới...”.
Như
vậy, việc ban hành Luật Di sản văn hóa nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa
nói chung và di sản văn hóa nói riêng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước, tăng cường về phân cấp, phát huy nguồn lực xã hội và đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ hội nhập, phát triển.
2.
Cơ sở thực tiễn
2.1.Khắc
phục bất cập của Luật Di sản văn hóa năm 2001 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2009)
Sau
hơn 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung,
sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà
nước ta hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân ở khắp
mọi miền đất nước. Nhờ đó, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
ngày càng hiệu quả, với những thành tựu đáng ghi nhận: Theo số liệu thống kê
năm 2023 (thời điểm đang xây dựng dự án Luật Di sản văn hóa), đã xếp hạng trên
10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.621 di tích quốc gia và 130 di tích quốc
gia đặc biệt (trên tổng số 40.000 di tích đã được kiểm kê); khoảng 70.000 di
sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê, 534 di sản được đưa vào Danh
mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các di sản của Việt Nam được UNESCO
công nhận/ghi danh, bao gồm: 09 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 15 di
sản văn hóa phi vật thể (trong đó 13 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách
di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 02 di sản văn hóa phi vật
thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp); 09 di sản
tư liệu (03 di sản tư liệu thế giới, 06 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái
Bình Dương)…
Hệ
thống bảo tàng đã phát triển từ một vài bảo tàng được xây dựng từ thời Pháp
thuộc thành một hệ thống gồm 197 bảo tàng (127 bảo tàng công lập và 70 bảo tàng
ngoài công lập) đang bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị trên 4 triệu hiện
vật - là di vật, cổ vật quý giá mang đặc trưng văn hóa của địa phương, vùng
miền, quốc gia. Hiện nay, đã có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng
Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia, trong đó 168 hiện vật, nhóm hiện vật
đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị tại các bảo tàng.
Tuy
nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tế đang diễn ra, hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn
chế, bất cập cả về nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Do đó,
việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa là hết sức cần thiết để bắt
kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội, điều chỉnh, cụ thể hóa được những
vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
2.2.
Một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc chung chung cần quy định rõ
hơn
- Quy
định đối tượng di tích trong danh mục được kiểm kê được bảo vệ và phát huy giá
trị theo quy định của Luật Di sản văn hóa nhưng chưa quy định cụ thể về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục.
- Quy
định thẩm quyền công nhận, ghi danh di sản nhưng chưa quy định trình tự, thủ
tục để triển khai thực hiện.
- Quy
định mua cổ vật thông qua thương lượng và đấu giá; quy định nhà nước dành ngân
sách thích đáng để mua cổ vật nhưng chưa quy định cụ thể cơ chế, chính sách
thực hiện.
- Quy
định về việc giám định cổ vật nhưng chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và
tiêu chuẩn chuyên gia giám định.
- Quy
định bảo vật quốc gia được bảo vệ, bảo quản theo chế độ đặc biệt nhưng chưa quy
định cụ thể về việc bảo vệ, bảo quản sẽ được tiến hành như thế nào.
- Quy
định khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp cho hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa nhưng chưa quy định cụ thể để khuyến khích và có cơ chế
thực hiện.
- Quy
định nguồn lực xã hội hóa cho bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa còn chung
chung, chưa rõ cơ chế triển khai.
2.3.
Một số quy định của Luật còn chồng chéo, bất cập, có tính khả thi chưa cao hoặc
không còn phù hợp với thực tiễn, cần sửa đổi hoặc bãi bỏ
- Hai
cơ quan cùng thẩm định dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích (cơ quan xây
dựng và cơ quan văn hóa) gây ra bất cập khi thời gian thẩm định hồ sơ dự án kéo
dài, có thể gây ra chậm trễ trong việc triển khai thực hiện dự án.
- Quy
định việc xây dựng các công trình ngoài khu vực bảo vệ của di tích nhưng xét
thấy có ảnh hưởng xấu đến cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái của di
tích phải xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền nhưng chưa quy định rõ cơ quan
nào sẽ xác định, tiêu chí nào để xác định có nguy cơ để có cơ sở thực hiện
trong thực tiễn.
- Quy
định về điều kiện thành lập bảo tàng chưa phù hợp với mô hình bảo tàng ngoài
công lập.
- Quy
định về việc phân loại bảo tàng công lập trong Luật gây khó khăn trong thực
hiện khi khó xác định và cách hiểu bảo tàng nào là bảo tàng quốc gia, bảo tàng
cấp tỉnh (không rõ giữa bảo tàng tổng hợp và bảo tàng chuyên đề).
-
Chưa quy định các biện pháp cụ thể, cần thiết để bảo vệ di sản ở từng lĩnh vực
di sản văn hóa phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
-
Chưa xác định rõ các loại hình di sản văn hóa phi vật thể và hình thức thể hiện
nên khó khăn khi nhận diện, kiểm kê và thực hiện biện pháp bảo vệ, phát huy giá
trị di sản.
-
Chưa có quy định về người đại diện, đầu mối chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị diễn ra tại di tích; chưa rõ nhiệm vụ của
ban quản lý di tích để thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương.
2.4.
Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn cần được bổ sung mới trong Luật
-
Luật Di sản văn hóa năm 2009 chưa quy định nội dung các hoạt động, cơ chế để
thu hút, huy động được sự đóng góp, tham gia của tổ chức, cá nhân trong công
tác bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hóa… Hiện nay,
các địa phương đang rất cần khai thác, phát huy giá trị di sản để phát triển
kinh tế - xã hội. Nhưng do không có cơ chế, chính sách, ưu đãi thuế cho chi phí
sản xuất, nên do lợi nhuận không cao, nhiều rủi ro khi đầu tư, khó thu hồi vốn
cũng là trở ngại rất lớn trong công tác vận động, thu hút sự tham gia của doanh
nghiệp. Trong khi, nguồn kinh phí hỗ trợ cho công tác bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa còn rất thấp so với nhu cầu thực tế: Đầu tư tu bổ di tích
còn thấp, nên mới chỉ thực hiện chống đỡ cục bộ, chưa đặt di tích ở trong tình
trạng bền vững lâu dài để trở thành một sản phẩm hoàn chỉnh có sức hấp dẫn thu
hút khách tham quan dẫn đến việc tạo nguồn thu tái đầu tư cho tu bổ, tôn tạo di
tích còn bị hạn chế. Di sản tư liệu, di sản văn hóa phi vật thể sau khi được
ghi danh chưa có đầy đủ chương trình, đề án, kế hoạch để bảo vệ và phát huy giá
trị. Hoạt động bảo tàng chưa được quan tâm, đầu tư kinh phí để xây dựng, cải
tạo trụ sở, mua sắm trang bị thiết yếu để bảo vệ, bảo quản hiện vật… Vì vậy,
cần bổ sung mới các quy định trong Luật Di sản văn hóa: về phạm vi, quyền hạn,
nội dung hoạt động xã hội hóa bảo vệ di sản, cơ chế và thẩm quyền hướng dẫn
thực hiện; quy định về Quỹ Bảo tồn di sản văn hóa; quy định về việc hỗ trợ cộng
đồng địa phương tại địa bàn có di tích.
-
Chưa quy định thẩm quyền, hướng dẫn các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy
di sản văn hóa phi vật thể trong các Danh sách của UNESCO và Danh mục di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia như quy định về báo cáo định kỳ tình trạng di sản
và tình hình bảo vệ, phát huy giá trị di sản sau khi được đưa vào Danh mục di
sản văn hóa phi vật thể quốc gia, các Danh sách của UNESCO; nội dung, cơ chế
thực hiện, triển khai, tổng hợp, xử lý thông tin các Báo cáo bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể theo cam kết với UNESCO…
-
Luật chỉ quy định công trình trực tiếp bảo vệ và phát huy giá trị di tích nhưng
chưa quy định việc xây dựng, cải tạo công trình ở trong khu vực bảo vệ và ngoài
khu vực bảo vệ di tích mà xét thấy có ảnh hưởng xấu đến cảnh quan, môi trường
sinh thái của di tích.
-
Chưa có quy định về di sản tư liệu - một loại hình thuộc di sản văn hóa nhưng
chưa được quy định bởi bất kỳ luật nào trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
-
Chưa có quy định về việc mua và đưa cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài
về nước; đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo
quản ở trong nước.
-
Thiếu các quy định trong lĩnh vực bảo tàng, như: chức năng, nhiệm vụ giáo dục
và ứng dụng công nghệ; việc phải có dự án trưng bày nội thất, ngoài trời của
bảo tàng công lập được thẩm định, phê duyệt trước khi thực hiện các dự án xây
dựng, cải tạo, nâng cấp công trình bảo tàng; kinh doanh dịch vụ bảo tàng.
-
Thiếu các quy định về chuyển đổi số di sản văn hóa; việc khai thác, sử dụng di
sản văn hóa; hợp tác công - tư; nguồn lực cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa (từ nguồn lực tài chính, ngân sách nhà nước, xã hội hóa, Quỹ
bảo tồn, nguồn nhân lực...).
II.
MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG
1.
Mục đích
Việc
ban hành Luật Di sản văn hóa nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước về văn hóa, di sản văn hóa. Sửa đổi, hoàn thiện các quy
định của pháp luật về di sản văn hóa hiện hành, khắc phục những hạn chế, bất
cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới trong các hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; đảm bảo tính kế thừa, tính thống
nhất, đồng bộ giữa Luật Di sản văn hóa với các luật khác có liên quan. Xây dựng
Luật Di sản văn hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, các hoạt động dịch vụ,
hợp tác công tư trong lĩnh vực di sản văn hóa…, và đảm bảo hài hòa giữa bảo tồn
và phát triển.
2.
Quan điểm
-
Tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng về văn
hóa, di sản văn hóa.
- Kế
thừa, phát triển những quy định của pháp luật về di sản văn hóa hiện hành đã
được thực tiễn kiểm nghiệm; sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong chính sách, pháp luật đã được chỉ ra trong quá trình
tổng kết thi hành Luật Di sản văn hóa.
- Bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của Luật Di sản văn hóa
với hệ thống pháp luật hiện hành.
- Cập
nhật, nội luật hóa các quy định của quốc tế về bảo vệ, phát huy giá trị các di
sản văn hóa.
- Bám
sát 03 nhóm chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Di sản văn hóa đã được Chính
phủ thông qua để quy phạm hóa vào Luật các cơ chế, chính sách cụ thể.
-
Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính gắn với
kiểm soát, giám sát việc thực hiện, đảm bảo quản lý thống nhất từ Trung ương
đến địa phương trong lĩnh vực di sản văn hóa.
- Hoàn
thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ và phát huy các
giá trị di sản văn hóa của dân tộc, từng bước đưa di sản văn hóa đóng góp cho
sự phát triển kinh tế…
III.
BỐ CỤC VÀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT
1.
Bố cục của Luật
Luật
Di sản văn hóa gồm 09 chương, 95 điều với các nội dung cơ bản
sau: a) Chương I. Những quy định chung, gồm 9 điều (từ Điều 1 đến
Điều 9), Chương này quy định về: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng;
Giải thích từ ngữ; Sở hữu di sản văn hóa; Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm quản
lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Nguyên tắc quản lý, bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa; Chính sách của Nhà nước về di sản văn hóa;
Ngày Di sản văn hóa Việt Nam và các hành vi nghiêm cấm. …
b)
Chương II. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, gồm 11 điều (từ Điều 10 đến Điều 20).
Chương
này quy định: Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể; Kiểm kê di sản văn hóa
phi vật thể và Danh mục kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể; Danh mục, danh sách
và tiêu chí ghi danh, ghi danh bổ sung về di sản văn hóa phi vật thể; nh sách
đối với nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể; Duy trì thực Ghi
danh, ghi danh bổ sung và hủy bỏ ghi danh di sản văn hóa phi vật thể; Chính
sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể; Duy trì thực hành,
truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể; Nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa di sản
văn hóa phi vật thể; Quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể đã được kiểm kê và ghi danh; Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ
mai một, thất truyền; Biện pháp bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của
các dân tộc Việt Nam; Biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị lễ hội truyền thống.
c)
Chương III. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, gồm 02 mục và 30 Điều.
-
Mục 1: Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, gồm 19 điều (từ
Điều 21 đến Điều 39) quy định các nội dung: Các loại hình di tích; Tiêu chí
nhận diện di tích theo loại hình; Kiểm kê di tích và Danh mục kiểm kê di tích;
Xếp hạng và hủy bỏ xếp hạng di tích; Thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hồ sơ xếp
hạng, xếp hạng bổ sung, hủy bỏ quyết định xếp hạng và bổ sung, chỉnh sửa hồ sơ
khoa học di tích, di sản thế giới; Hoạt động phát huy giá trị di tích; Khu vực
bảo vệ di tích, nguyên tắc xác định và cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích,
điều chỉnh khu vực bảo vệ di tích, di sản thế giới; Sửa chữa, cải tạo, xây dựng
công trình, thực hiện các hoạt động trong khu vực bảo vệ di tích, di sản thế
giới; Dự án đầu tư xây dựng, xây dựng công trình, sửa chữa, cải tạo, xây dựng
lại nhà ở riêng lẻ, thực hiện hoạt động trong khu vực bảo vệ di tích, di sản
thế giới; Dự án đầu tư xây dựng, xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ, thực hiện
hoạt động nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích, nằm ngoài vùng đệm của khu vực di
sản thế giới; Đưa thêm, di dời, thay đổi hiện vật trong di tích; Tổ chức, người
đại diện được giao quản lý, sử dụng di tích; Nhiệm vụ của tổ chức được giao
quản lý, sử dụng di tích; Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Dự án
bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Bảo quản thường xuyên, sửa chữa nhỏ, tu sửa
cấp thiết di tích; Quy hoạch khảo cổ; Quản lý, bảo vệ địa điểm, khu vực khảo
cổ; Thăm dò, khai quật khảo cổ.
-
Mục 2: Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, gồm 13 điều (từ Điều 39 đến Điều 52), quy định các
nội dung: Phân loại và xác định di vật, cổ vật; Giám định, điều kiện thực hiện
giám định di vật, cổ vật; Sưu tầm, kiểm kê di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
Đăng ký di vật, cổ vật; Công nhận, công nhận bổ sung, hủy bỏ công nhận bảo vật
quốc gia; Quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và xử lý di vật, cổ vật được
phát hiện, giao nộp; Yêu cầu bảo vệ, bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
Bảo quản, phục chế di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Trưng bày di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia; Bảo vệ và phát huy giá trị di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
trong nhà truyền thống, nhà lưu niệm, nhà trưng bày, thiết chế văn hoá khác;
Đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo quản có
thời hạn ở trong nước và nước ngoài; Thu hồi, mua và đưa di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia có nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài về nước; Bản sao di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia.
d)
Chương IV. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu, bao gồm 11 điều, (từ Điều 53 đến Điều 63)
Chương
này quy định các nội dung: Phân loại và tiêu chí nhận diện di sản tư liệu; Kiểm
kê di sản tư liệu và Danh mục kiểm kê di sản tư liệu; Danh mục và tiêu chí ghi
danh, ghi danh bổ sung di sản tư liệu; Ghi danh, ghi danh bổ sung và hủy bỏ ghi
danh di sản tư liệu; Bảo quản di sản tư liệu; Nghiên cứu và sưu tầm di sản tư
liệu; Phục chế di sản tư liệu; Hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di
sản tư liệu thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng; Đề án, dự án, kế hoạch và báo cáo
định kỳ về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu sau khi được ghi danh; Đưa
di sản tư liệu được ghi danh đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo quản ở trong nước,
nước ngoài; đưa di sản tư liệu có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước; Bản
sao của di sản tư liệu.
đ)
Chương V. Bảo tàng, gồm 14 điều (từ Điều
64 đến Điều 77)
Chương
này quy định các nội dung: Hệ thống bảo tàng Việt Nam; Thành lập bảo tàng công
lập; Sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể bảo tàng công lập; Cấp, cấp lại,
thu hồi giấy phép hoạt động bảo tàng ngoài công lập; Nhiệm vụ của bảo tàng; Xếp
hạng, xếp lại hạng bảo tàng và thẩm quyền xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng; Đầu
tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật và trưng
bày bảo tàng công lập; Hoạt động sưu tầm hiện vật của bảo tàng; Hoạt động kiểm
kê, tư liệu hóa hiện vật của bảo tàng; Hoạt động bảo quản hiện vật của bảo
tàng; Hoạt động trưng bày hiện vật và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của
bảo tàng; Hoạt động giáo dục của bảo tàng; Hoạt động truyền thông của bảo tàng;
Hoạt động dịch vụ của bảo tàng.
e)
Chương VI. Hoạt động kinh doanh, dịch vụ về di sản văn hóa, gồm 04 điều (từ Điều 78 đến Điều 81)
Chương
này quy định các nội dung: Kinh doanh bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Kinh
doanh giám định di vật, cổ vật; Kinh doanh di vật, cổ vật; Kinh doanh dịch vụ
bảo tàng.
(g)
Chương VII. Điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa gồm 09 điều (từ Điều 82 đến Điều 90)
Chương
này quy định các nội dung: Nguồn tài chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa; Ngân sách nhà nước chi cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa; Đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho nhân lực quản lý, bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hoá; Cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa và chuyển đổi
số trong lĩnh vực di sản văn hóa; Tuyên truyền, quảng bá, giáo dục truyền thống
thông qua di sản văn hóa và phát huy giá trị di sản văn hóa trên môi trường
điện tử; Xã hội hóa trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Sử dụng,
khai thác di sản văn hóa; Quỹ bảo tồn di sản văn hóa.
h)
Chương VIII. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa, gồm 03 điều (từ Điều 90 đến Điều 92)
Chương
này quy định các nội dung: Trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa; Hội
đồng Di sản văn hóa quốc gia; Thanh tra chuyên ngành di sản văn hóa
i)
Chương IX. Điều khoản thi hành, gồm 03
điều (từ Điều 93 đến Điều 95)
Chương
này quy định các nội dung về: Sửa đổi, bổ sung luật có liên quan; Hiệu lực thi
hành; Quy định chuyển tiếp.
2.
Phạm vi điều chỉnh của Luật
Luật
Di sản văn hoá năm 2024 quy định về di sản văn hóa, hoạt động quản lý, bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân trong hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy
giá trị di sản văn hóa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 1).
IV.
MỘT SỐ NỘI DUNG TRỌNG TÂM VÀ ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT DI SẢN VĂN HÓA
Trên
cơ sở kế thừa quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản
văn hóa ngày 18/6/2009, Luật Di sản văn hóa năm 2024 gồm 09 chương, 95 điều,
tăng 02 chương, 22 điều so với Luật Di sản văn hóa năm 2009 (07 chương, 73
điều), Luật Di sản văn hóa được xây dựng tập trung làm rõ 03 chính sách lớn
gồm: Luật Di sản văn hóa tập trung vào 03 nội dung chính trong các chính sách
đã được Quốc hội thông qua, bao gồm: “Chính sách 1: Hoàn thiện các quy định về
nguyên tắc, đối tượng, trình tự, thủ tục kiểm kê, nhận diện, ghi danh, biện
pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở các lĩnh vực di sản
văn hóa vật thể (di tích; di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia), di sản văn hóa phi
vật thể, di sản tư liệu và hoạt động bảo tàng. Chính sách 2: Nâng cao hiệu quả
tổ chức, hoạt động của các cơ quan trực tiếp quản lý di sản, tăng cường nội
dung, trách nhiệm, cơ chế thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước về di
sản văn hóa từ Trung ương đến địa phương. Chính sách 3: Tăng cường nội dung, cơ
chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa và thu hút, nâng cao hiệu quả huy động
nguồn lực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”.
1.
Nội dung quy định chung
1.1.
Rõ các hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu chung và sở hữu riêng) và việc
xác lập di sản văn hóa theo từng loại hình; rõ quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ
của các đối tượng (chủ sở hữu, được giao quản lý trực tiếp, cộng đồng và xã
hội); nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
1.2.
Quy định rõ các chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ phát huy giá trị
di sản văn hóa và ưu tiên bố trí ngân sách thực hiện các hoạt động có tính đặc
thù; đào tạo bồi dưỡng nhân lực; Bổ sung, quy định rõ hơn về các hành vi bị
nghiêm cấm ở các lĩnh vực.
1.3.
Quy định về các hoạt động kinh doanh, dịch vụ về di sản văn hóa.
1.4.
Nguồn lực cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá gồm nguồn tài
chính, nguồn nhân lực; xây dựng, cập nhật quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu về
di sản văn hoá; phát huy giá trị di sản văn hóa trên môi trường số; ứng dụng
khoa học công nghệ thông tin, tuyên truyền quảng bá di sản văn hoá; xã hội hoá
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; sử dụng, khai thác di sản văn
hoá; hợp tác công tư; hợp tác quốc tế.
1.5.
Quy định mới về cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hoá, rõ trách nhiệm của
Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Uỷ ban nhân dân các cấp; Thanh
tra, chuyên ngành về di sản văn hóa.
1.6.
Quy định sửa đổi Luật Xây dựng về công trình bảo quản, tu bổ phục hồi di tích
là công trình tính chất chuyên ngành.
1.7.
Bổ sung quy định về Ngày Di sản văn hoá Việt Nam
1.8.
Bổ sung quy định Quỹ bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam
Luật
Di sản văn hoá năm 2009 chỉ quy định Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp, tài
trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa nhưng chưa quy định rõ nội
dung, việc thực hiện đóng góp tài trợ như thế nào? Thực tế, trong bối cảnh kinh
phí Nhà nước còn hạn chế, rất cần có nguồn huy động từ quỹ ra đời sẽ để đáp ứng
yêu cầu cấp bách trong việc cùng với Nhà nước tạo nên nguồn lực tài chính cần
thiết để đáp ứng yêu cầu thực tế triển khai các hoạt động về bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa mà chưa được ngân sách bố trí kinh phí hoặc kinh phí
chưa đủ để tu bổ các di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt đang có nguy cơ bị
xuống cấp nghiêm trọng, sưu tầm và bảo quản hiện vật, mua và đưa các hiện vật,
cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước, mua và bảo quản các hiện
vật, cổ vật có giá trị đặc biệt ở trong nước, bảo vệ các di sản văn hóa phi vật
thể, di sản tư liệu có nguy cơ mai một, thất truyền ...
10
Việc
quy định nội dung Quỹ bảo tồn di sản văn hóa tại Điều 89 sẽ là căn cứ pháp lý
để thành lập Quỹ, giải quyết khó khăn hiện nay của ngành Di sản văn hoá. Quỹ
bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam được thành lập sẽ huy động phần đóng góp của
các đối tượng hưởng lợi từ hoạt động di sản, huy động nguồn kinh phí từ xã hội
hóa và cùng với một phần ngân sách nhà nước triển khai các hoạt động di sản văn
hóa một cách chủ động, chuyên nghiệp góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng phát
triển kinh tế, hỗ trợ hoạt động truyền thông về di sản văn hóa trong cộng
đồng...
1.9.
Quy định về sử dụng, khai thác di sản văn hóa
Quy
định sử dụng, khai thác di sản văn hoá tại Điều 88 là một trong những điểm mở
của Luật, để thể hiện vai trò của di sản văn hoá trở thành tài sản, nguồn lực
trong đóng góp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp văn hoá, vừa góp phần
quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hoá ở trong nước và quốc tế. Theo đó quy
định sử dụng, khai thác di sản văn hóa là việc sử dụng công trình, địa điểm,
nội dung, hình ảnh, thông tin và giá trị của di sản văn hóa để tuyên truyền,
giới thiệu, quảng bá, giáo dục, biểu diễn, sáng tạo sản phẩm công nghiệp văn
hóa, phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng
thời, quy định di sản văn hóa hạn chế sử dụng, khai thác trong một số trường
hợp để bảo đảm tuân thủ nguyên tắc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá
quy định tại Điều 6 và Điều 9 của Luật.
2.
Nội dung liên quan đến các biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị theo
từng lĩnh vực, loại hình di sản văn hóa
2.1.
Di sản văn hoá phi vật thể
2.1.1.
Về thay đổi, mở rộng chính sách đối với nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể
Trong
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, người nắm giữ,
thực hành di sản được đánh giá là nhân tố quan trọng nhất. Di sản văn hóa phi
vật thể không nằm ngoài con người, nó được chính bản thân con người dưới góc độ
là cá nhân, nhóm, cộng đồng nắm giữ và thực hành. Họ là những người đóng vai
trò chủ chốt trong quá trình tiếp nhận, sáng tạo và chuyển giao cho thế hệ kế
tiếp; là những người “kiến tạo xã hội mang màu sắc truyền thống”. Nói
như vậy có nghĩa là, di sản văn hóa phi vật thể luôn sống cùng đời sống của con
người; nó chịu những tác động, đe dọa và có nguy cơ mai một, thất truyền, “đóng
băng ở quá khứ”. Do đó, việc bảo vệ, truyền dạy, thực hành và tái sáng tạo
di sản văn hóa phi vật thể sẽ giúp gìn giữ di sản phi vật thể sống, thay đổi và
thích ứng với đời sống. Thời gian qua đã có nhiều nghệ nhân qua đời mà chưa
nhận được sự tôn vinh, chính sách đãi ngộ xứng đáng. Bên cạnh đó, nhiều nghệ
nhân đang gặp khó khăn không chỉ trong hoạt động thực hành di sản văn hóa phi
vật thể mà còn ngay trong chính cuộc sống, bởi họ là những người không thuộc
các cơ quan nhà nước, không có lương, ít được hưởng chính sách xã hội. Nhiều
người trong số họ sinh sống ở các vùng dân tộc thiểu số, khó khăn. Di sản văn
hóa phi vật thể do họ đang nắm giữ chưa thể được phát huy đúng mức.
Luật
Di sản văn hóa đã có nhiều điểm mới, quan trọng, bao quát và phù hợp hơn trong
chính sách đối với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể. Cụ thể là:
Lần
đầu tiên, khái niệm về nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể và nhiều khái niệm
khác liên quan được đưa vào Luật: “Nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể”,
“Chủ thể di sản văn hóa phi vật thể”, “Người thực hành”... Cùng với đó, các
chính sách liên quan tới đối tượng này cũng được đưa vào Luật, như: khoản 7
Điều 6: “Tôn trọng quyền của cộng đồng chủ thể và nghệ nhân nắm giữ bí
quyết, kỹ năng thực hành di sản văn hóa phi vật thể trong việc quyết định các
yếu tố cần được bảo vệ và những hình thức, mức độ cần được phát huy của di sản;
xác định nguy cơ, tác động đe dọa sự tồn tại và lựa chọn giải pháp bảo vệ di
sản”; khoản 4 Điều 7: “Tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ
nhân có tài năng xuất sắc, nghệ nhân có công lao bảo vệ, phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là nghệ nhân người dân tộc thiểu số, nghệ
nhân sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, nghệ nhân là người khuyết tật,
người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo.”...
Đặc
biệt là chính sách quy định tại Điều 14. Chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể
di sản văn hóa phi vật thể: 1. Nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể,
đặc biệt ưu tiên nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân
tộc thiểu số được hưởng chính sách, chế độ đãi ngộ của Nhà nước như sau: a)
Được Nhà nước xét tặng, tổ chức lễ trao tặng danh hiệu vinh dự nhà nước và thực
hiện các hình thức tôn vinh khác theo quy định của pháp luật về thi đua khen
thưởng; b) Hỗ trợ cơ sở vật chất, công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và không gian văn
hóa liên quan cho hoạt động duy trì thực hành, truyền dạy, sáng tạo, trình
diễn, để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể; c) Hỗ trợ kinh
phí, cơ sở vật chất, công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và không gian văn hóa liên
quan cho việc thành lập, tổ chức hoạt động của các câu lạc bộ, nhóm thực hành
di sản văn hóa phi vật thể; d) Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú được Nhà
nước phong tặng được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng, hỗ trợ tiền đóng bảo
hiểm y tế, hỗ trợ chi phí mai táng khi chết; đ) Các chế độ, chính sách khác
theo quy định của pháp luật. Các quy định lớn về chính sách đối với nghệ nhân
được quy định tại Luật cũng được giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
Điều
26 của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 quy
định: “Trợ cấp sinh hoạt hằng tháng và ưu đãi khác đối với nghệ nhân đã được
phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn”
thì ở Luật Di sản văn hóa năm 2024 quy định: “Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân
ưu tú được Nhà nước phong tặng được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng, hỗ trợ
tiền đóng bảo hiểm y tế, hỗ trợ chi phí mai táng khi chết;”. Như vậy có thể
thấy, chính sách hỗ trợ, trợ cấp không chỉ còn là đối với đối tượng là nghệ
nhân “có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn” mà đã mở rộng ra cho các
nghệ nhân khác. Hay như, trước tình hình thực tiễn và đề nghị từ các cấp chính
quyền địa phương, Luật Di sản văn hóa cũng quy định: “Ngoài các chính sách
quy định tại khoản 1 Điều này, căn cứ điều kiện phát triển kinh tế - xã hội,
khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định chế độ đãi ngộ nghệ nhân, chủ
thể di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn.” (Khoản 2, Điều 14).
So
với các quy định trước đây (Luật Di sản văn hóa 2001 và sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009), các nội dung chính sách đối với nghệ
nhân di sản văn hóa phi vật thể được quy định tại Luật Di sản văn hóa có nhiều
thay đổi lớn và được đánh giá là tích cực, khắc phục được những bất cập trong
thời gian qua, phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu về các nhiệm vụ quản lý,
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, phù hợp với
Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
2.1.2.
Về quy định bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền
Luật
Di sản văn hóa năm 2001 có 01 chương 11 Điều về bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể và được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Luật Di sản
văn hóa năm 2009 sau khi Việt Nam tham gia Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể. Điều 20 của Luật Di sản văn hóa quy định “Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất
truyền”.
Tại
khoản 2 Điều 7 Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể
và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia cũng quy định “Trong quá trình kiểm kê, khi phát
hiện di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để kịp thời có biện
pháp bảo vệ”. Tuy nhiên, các quy định này chưa nêu cụ thể việc xác định và
thực hiện các biện pháp bảo vệ đối với di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ
mai một thất truyền.
Thực
tiễn cho thấy, di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền hiện
hữu. Hơn nữa, trong quan hệ hợp tác quốc tế và thực thi Công ước 2003 của
UNESCO, di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền luôn được ưu
tiên bảo vệ. UNESCO có Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp
để ghi danh di sản và quan tâm bảo vệ. Do vậy, trong Luật di sản văn hóa lần
này, đã bổ sung quy định về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai
một, thất truyền tại Điều 18, cụ thể về tiêu chí xác định, các biện pháp bảo
vệ, quy định về trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức xây dựng hồ sơ đề
nghị UNESCO hỗ trợ bảo vệ các di sản được ghi danh trong Danh sách cần bảo vệ
khẩn cấp từ Quỹ bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Công ước 2003 của UNESCO
về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể…
2.1.3.
Quy định rõ, cụ thể hơn về các biện pháp bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ
viết của các dân tộc Việt Nam
Tiếng
nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam có vai trò quan trọng. Luật Di sản văn
hóa năm 2001 cũng đã có nội dung quy định về việc bảo vệ tiếng nói, chữ viết
các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, các nội dung này còn chưa cụ thể và khó triển
khai trong thực tiễn. Khắc phục những khiếm khuyết này, Luật Di sản văn hóa năm
2024 đã quy định các nội dung, biện pháp cụ thể, thực tế trong việc bảo vệ và
phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam. Cụ thể:
Điều
19 quy định về các biện pháp bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các
dân tộc Việt Nam: Nhà nước bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, đặc biệt đối với tiếng nói, chữ viết
của các dân tộc thiểu số và tiếng nói, chữ viết có nguy cơ mai một thông qua
các biện pháp sau đây: Nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa, lưu giữ và truyền dạy
các biểu đạt và truyền thống truyền khẩu bằng tiếng nói, chữ viết của cộng đồng
các dân tộc; dạy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số cho cán bộ, công
chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân công tác ở vùng
đồng bào miền núi, dân tộc thiểu số theo yêu cầu công việc, cho học sinh người
dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật về giáo dục; ban hành quy tắc
phiên âm tiếng nói của những dân tộc chưa có chữ viết; Sưu tầm, biên soạn, dịch
thuật, phân loại và lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và ngữ văn
truyền miệng, diễn xướng dân gian; xây dựng từ điển, sách giáo khoa, tài liệu
giảng dạy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, cơ sở dữ liệu về tiếng nói, chữ
viết của các dân tộc; khuyến khích giới thiệu di sản văn hóa tại các bảo tàng,
di tích bằng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số; xuất bản sách, báo,
thực hiện các chương trình phát thanh, truyền hình, sân khấu về di sản văn hóa
bằng tiếng dân tộc thiểu số.
2.2.
Di tích
2.2.1.
Quy định hoạt động xây dựng trong khu vực bảo vệ di tích
a) Về
việc thực hiện công trình trong khu vực bảo vệ di tích
Để
khắc phục hạn chế của Luật Di sản văn hóa năm 2001, được bổ sung, sửa đổi năm
2009 về quy định các loại công trình được thực hiện trong khu vực bảo vệ di
tích, Luật Di sản văn hóa năm 2024 (Điều 28) đã bổ sung quy định rõ việc cải
tạo, sửa chữa, xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích như sau:
-
Trong khu vực bảo vệ I: 1) sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình trực tiếp
phục vụ bảo vệ và phát huy giá trị di tích, di sản thế giới; 2) sửa chữa, cải
tạo, xây dựng lại nhà ở riêng lẻ trên cơ sở hiện trạng nhà ở riêng lẻ đã có.
-
Trong khu vực bảo vệ II: 1) sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình trực tiếp
phục vụ bảo vệ và phát huy giá trị di tích; 2) sửa chữa, cải tạo, xây dựng nhà
ở riêng lẻ; 3) sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình kinh tế - xã hội; 4) sử
dụng khu vực biển để thực hiện hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển; 5)
thực hiện hoạt động kinh tế - xã hội theo quy định của các luật chuyên ngành.
Các
quy định bổ sung mới trong khu vực bảo vệ I và II của di tích bảo đảm tuân thủ
quy định của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của
UNESCO (Công ước 1972) và Hướng dẫn thực hiện Công ước 1972 về việc bảo vệ vùng
đệm di sản thế giới.
- Quy
định tại Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ với
quy định của Luật Xây dựng khi quy định rõ việc thực hiện dự án, công trình xây
dựng; sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình trực tiếp phục vụ bảo vệ và phát
huy giá trị di tích, nhà ở riêng lẻ, công trình kinh tế - xã hội; sử dụng khu
vực biển để thực hiện hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển; thực hiện
hoạt động kinh tế - xã hội thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa năm
2024, quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công, xây dựng và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
b) Về
thẩm quyền thẩm định các dự án, công trình xây dựng trong khu vực bảo vệ di tích
Luật
Di sản văn hóa năm 2024 đã quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hồ sơ
thực hiện đối với từng loại công trình: 1) dự án, công trình xây dựng công
trình, sửa chữa cải tạo, xây dựng lại nhà ở riêng lẻ trong khu vực bảo vệ di
tích, di sản thế giới tại Điều 29; 2) dự án đầu tư, xây dựng công trình, nhà ở
riêng lẻ nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích, di sản thế giới tại Điều 30. Theo
đó, phân cấp thẩm quyền từ Thủ tướng Chính phủ cho Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch có ý kiến bằng văn bản đối với các dự án, công trình xây dựng
trong khu vực bảo vệ di tích quốc gia, quốc gia đặc biệt, di sản thế giới, giao
cơ quan chuyên môn về văn hóa cấp tỉnh đối với dự án còn lại (Điều 29). Quy
trình được thực hiện tại các điều trên là các thủ tục hành chính nội bộ giữa
các cơ quan nhà nước, chỉ còn duy nhất trường hợp xây dựng nhà ở riêng lẻ không
thuộc trường hợp phải cấp phép xây dựng (theo quy định của pháp luật về xây
dựng) sẽ thực hiện thủ tục hành chính giữa chủ đầu tư với cơ quan chuyên môn
cấp tỉnh và được phân cấp cho địa phương thực hiện.
2.2.2.
Về quy định lập, điều chỉnh khoanh vùng bảo vệ di tích
a)
Luật Di sản văn hóa năm 2024 (Điều 27) đã quy định rõ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh chịu trách nhiệm quyết định việc xác định ranh giới khu vực bảo vệ, điều
chỉnh ranh giới khu vực bảo vệ di tích và quyết định ranh giới, điều chỉnh ranh
giới khoanh vùng khu vực bảo vệ di tích cấp tỉnh; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch thỏa thuận ranh giới khu vực bảo vệ di tích di tích quốc gia và
Thủ tướng Chính phủ quyết định ranh giới khu vực bảo vệ di tích quốc gia đặc
biệt, di sản thế giới theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
b)
Luật Di sản văn hóa năm 2024 cũng đã quy định cụ thể nguyên tắc xác định khoanh
vùng, điều chỉnh khoanh vùng khu vực bảo vệ di tích, cũng như quy định đầy đủ
trình tự, hồ sơ để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh dễ thực hiện (Điều 27).
2.2.3.
Về quy định thực hiện dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
-
Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã quy định cụ thể về hoạt động bảo quản thường
xuyên, sửa chữa nhỏ di tích, di sản thế giới không phải lập thành hồ sơ và
không phải trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với di tích trong tình trạng
xuống cấp, cần thực hiện tu sửa cấp thiết, Luật quy định phân cấp thẩm quyền
cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thực hiện đối với di tích cấp tỉnh, cấp
quốc gia, cấp quốc gia đặc biệt, di sản thế giới (Điều 36).
-
Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã quy định hoạt động, dự án bảo quản tu bổ, phục
hồi di tích là dự án đầu tư có tính chất xây dựng chuyên ngành (khoản 1 Điều
35) và bổ sung quy định về dự án tu bổ di tích quy định trong Luật Xây dựng. Để
đồng bộ với pháp luật về xây dựng, đầu tư, Luật cũng đã quy định cụ thể cấp có
thẩm quyền phê duyệt các dự án tu bổ di tích (khoản 3 Điều 35, Điều 93). Đồng
thời để tháo gỡ vướng mắc cho địa phương khi di tích trong tình trạng xuống
cấp, đã quy định trường hợp lập dự án tu bổ di tích không phải lập quy hoạch
bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích được phê duyệt khi có ý kiến xác nhận của cơ
quan chuyên môn có thẩm quyền về văn hóa (khoản 1 Điều 35).
2.2.4.
Bổ sung các quy định về phát huy giá trị di tích
Luật
Di sản văn hóa năm 2024 quy định bổ sung nhiều hoạt động phát huy giá trị di
tích được triển khai trong và ngoài khu vực bảo vệ di tích, cụ thể là quy định
tại Điều 26 về hoạt động phát huy giá trị di tích và Điều 88 về sử dụng, khai
thác di sản văn hóa.
Việc
bổ sung quy định rõ về phát huy giá trị di tích (Điều 26) và sử dụng, khai thác
di sản văn hóa (Điều 88) góp phần tháo gỡ vướng mắc và cụ thể hóa những hoạt
động được phép triển khai trong khu vực bảo vệ di tích, di sản thế giới.
2.2.5.
Về quy định thăm dò, khai quật khảo cổ dưới nước và bảo vệ di sản văn hóa dưới
nước
Luật
Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 không quy định về đối
tượng di sản văn hóa dưới nước, cũng như điều kiện để thăm dò, khai quật khảo
cổ dưới nước. Do đó, Luật Di sản văn hóa lần này đã bổ sung đối tượng quy hoạch
khảo cổ bao gồm di sản văn hoá dưới nước (khoản 3 Điều 37): “Đối tượng được
đưa vào quy hoạch khảo cổ là các địa điểm, khu vực trong lòng đất và dưới nước
đã phát hiện di tích, di vật hoặc có dấu hiệu lưu giữ di tích, di vật có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học”; bổ sung điều kiện thăm dò, khai quật khảo
cổ dưới nước phải lập thành dự án và có giấy phép của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (khoản 2 Điều 39): “2. Việc thăm dò, khai quật khảo cổ phải đáp ứng
các điều kiện sau: a) Phù hợp với quy hoạch khảo cổ quy định tại Điều 37 của
Luật này trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật này; b) Lập thành
dự án khai quật khảo cổ được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật
này, pháp luật về đầu tư, đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư
và quy định khác của pháp luật có liên quan; c) Có giấy phép của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch”. Trường hợp di sản văn hóa dưới nước xác định
có quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng về lịch sử, văn hóa, khoa học phải kịp
thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ (khoản 4 Điều 39).
Việc
quy định cụ thể như trên góp phần vào việc quản lý, bảo vệ chặt chẽ hơn đối với
loại hình di sản văn hóa dưới nước.
2.3.
Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
2.3.1.
Quy định cụ thể các biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia
- Quy
định rõ việc phân loại và xác định di vật, cổ vật.
- Quy
định rõ việc bảo vệ và phát huy giá trị, rõ việc quản lý đối với di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc các hình thức sở hữu, theo hướng: trường hợp thuộc
sở hữu toàn dân không được kinh doanh, mua bán, trao đổi, tặng cho, thực hiện
hình thức chuyển quyền sở hữu khác hoặc để thực hiện biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
dân sự; trường hợp di vật, cổ vật thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng được kinh
doanh, mua bán, trao đổi, tặng cho, thực hiện hình thức chuyển quyền sở hữu
khác hoặc để thực hiện biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự và để thừa kế ở trong
nước. Không kinh doanh bảo vật quốc gia. Không kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ
vật; Quy định rõ về kinh doanh di vật, cổ vật; Việc xử lý di vật, cổ vật được
phát hiện, giao nộp, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thu giữ được.
- Quy
định cụ thể chế độ bảo vệ, bảo quản, phục chế di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia,
kho bảo quản.
- Quy
định mới về trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia gồm trưng bày thường
xuyên, trưng bày chuyên đề, trưng bày có thời hạn ở trong nước và nước ngoài,
trưng bày trên môi trường điện tử.
- Quy
định mới bảo vệ và phát huy giá trị di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong nhà
truyền thống, lưu niệm, nhà trưng bày, thiết chế văn hóa khác.
- Quy
định mới về việc đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đi trưng bày, triển lãm
nghiên cứu hoặc bảo quản có thời hạn ở trong nước; đồng thời rà soát, bổ sung
các quy định về đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đi trưng bày, triển lãm
nghiên cứu hoặc bảo quản có thời hạn ở nước ngoài.
- Quy
định rõ về việc làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, rõ về số lượng
bản sao được làm.
2.3.2.
Về quy định mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về
nước
Luật
Di sản văn hóa 2009 chưa có các nội dung quy định về việc mua và đưa di vật, cổ
vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước, đồng thời, trong các quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2015 mới chỉ quy định về việc tặng cho tài sản. Luật
quy định cụ thể việc mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước
ngoài về nước và quy định những ưu đãi chính sách thuế nhằm khuyến khích cá
nhân, tổ chức cùng tham gia trong việc này.
Việc
quy định cụ thể mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài
về nước không chỉ để bổ sung, hoàn thiện các sưu tập cổ vật, bảo vật, di sản
văn hóa bị thất lạc, “chảy máu” ra nước ngoài, mà còn khẳng định vị thế, tầm
ảnh hưởng của dân tộc, đồng thời, góp phần đảm bảo tính toàn vẹn của di sản văn
hóa - một nội dung quan trọng mà UNESCO rất chú trọng trong bảo tồn di sản văn
hóa, đồng thời thể hiện vai trò của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết
quốc tế tại các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
2.4.
Di sản tư liệu
Một
trong những nội dung mới của Luật Di sản văn hóa năm 2024 là bổ sung quy định
mới về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu, cụ thể:
2.4.1.
Kiểm kê, ghi danh di sản tư liệu vào các danh mục kiểm kê, quốc gia, khu vực và
thế giới
Nội
dung tập trung về hoạt động quản lý di sản tư liệu, gồm: nhận diện, quản lý,
kiểm kê, ghi danh di sản tư liệu; di sản tư liệu phải được kiểm kê với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về di sản văn hóa ở Trung ương và cấp tỉnh để lựa chọn,
ghi danh vào các Danh mục Di sản tư liệu của quốc gia, khu vực và thế giới; quy
định trình tự, thủ tục kiểm kê, số hóa, chuyển đổi số, bảo vệ, phát huy giá trị
và đề nghị ghi danh di sản tư liệu của Việt Nam; quy định thẩm quyền phê duyệt
các dự án, đề án về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu; quy định về việc
làm bản sao di sản tư liệu; quyền lợi, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sở hữu
di sản tư liệu sau khi được ghi danh vào các Danh mục Di sản tư liệu của quốc
gia, khu vực và thế giới.
2.4.2.
Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
Thêm
mới quy định về việc triển khai các biện pháp bảo vệ phù hợp (như lập và triển
khai kế hoạch, chương trình, đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư
liệu...) sau khi di sản được kiểm kê, ghi vào các danh sách của UNESCO, Danh
mục quốc gia, có chính sách đảm bảo cơ chế thực thi nhằm tăng cường bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa. Bổ sung các quy định nhằm điều chỉnh các hoạt
động liên quan đến di sản tư liệu, như: giao Chính phủ quy định chi tiết việc
lựa chọn di sản tư liệu có giá trị để đăng ký vào Danh mục của quốc gia, khu
vực và thế giới về di sản tư liệu; việc kiểm kê, bảo vệ và phát huy giá trị di
sản tư liệu của Việt Nam.
2.5.
Hoạt động bảo tàng
2.5.1.
Về quy định phân loại hệ thống bảo tàng Việt Nam gồm bảo tàng công lập và ngoài
công lập
Theo
đó, Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã bỏ phân loại đối với bảo tàng công lập, bao
gồm: bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành thuộc các Bộ, ngành, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương; bảo tàng chuyên ngành thuộc
các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội ở
trung ương và bảo tàng cấp tỉnh. Quy định về việc phân loại bảo tàng công lập
trong Luật Di sản văn hóa năm 2009 gây khó khăn trong thực hiện khi khó xác
định và không có tiêu chuẩn và cách hiểu bảo tàng nào là bảo tàng quốc gia, bảo
tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh (không rõ giữa bảo tàng tổng hợp và bảo
tàng chuyên đề)... Do đó, mô hình tổ chức của bảo tàng công lập sẽ không quy
định cụ thể trong Luật Di sản văn hóa năm 2024 mà do cơ quan có thẩm quyền
thành lập quyết định theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc phù hợp với mô
hình của cơ quan tổ chức chủ quản.
2.5.2.
Quy định về đầu tư, xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc, hạ tầng
kỹ thuật và trưng bày bảo tàng công lập phải có đề cương trưng bày được phê
duyệt trước khi thực hiện dự án
Trong
hoạt động thực tiễn nhiều năm qua, việc đầu tư xây dựng bảo tàng tại một số địa
phương hiện chỉ tập trung đầu tư cho công trình kiến trúc bảo tàng, chưa có sự
quan tâm đúng mức đối với nội dung trưng bày của bảo tàng và các quy định
chuyên ngành bảo tàng trong công trình kiến trúc. Do vậy, nhiều bảo tàng được
đầu công trình nhưng vẫn chưa thể mở cửa trưng bày phục vụ khách tham quan, cồn
trình chưa bảo đảm chất lượng và hiệu quả, dẫn tới có nhiều bảo tàng đầu tư
không đồng bộ giữa xây dựng công trình với trưng bày, thiết kế không phù hợp
với công năng, nội dung trưng bày trùng lặp… nên thiếu sức thu hút đối với công
chúng. Do Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, có công năng sử dụng đa
dạng từ bảo quản đến trưng bày phục vụ khách tham quan, nên phần công trình
kiến trúc phải phù hợp để thỏa mãn công năng của bảo tàng. Vì vậy, Luật quy
định cần phải có cơ quan chuyên môn có thẩm quyền có ý kiến về nội dung trưng
bày, dự án công trình kiến trúc của bảo tàng để đảm bảo tính lịch sử, khoa học
và có sự thống nhất chung trong công tác quản lý thực hiện việc trưng bày của
bảo tàng trên toàn quốc; hạn chế lãng phí, trùng lắp và kém hiệu quả của công
trình văn hóa bảo tàng.
2.5.3.
Một số quy định khác trong hoạt động bảo tàng:
- Bổ
sung quy định mới về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể bảo tàng công lập.
- Sửa
đổi quy định về điều kiện thành lập bảo tàng do chưa phù hợp với mô hình bảo
tàng ngoài công lập. Theo đó. Luật Di sản văn hóa tách riêng quy định về điều
kiện thành lập bảo tàng công lập và điều kiện thành lập bảo tàng ngoài công lập.
- Sửa
đổi, bổ sung quy định về cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép hoạt động bảo tàng
ngoài công lập. Theo đó, Luật đã phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu cơ quan
văn hóa cấp tỉnh, Luật Di sản văn hóa năm 2009 thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh.
- Rà
soát, bổ sung các nhiệm vụ cho bảo tàng: “ứng dụng khoa học công nghệ, tư liệu
hóa, phục chế, quản lý hiện vật, trưng bày trên môi trường điện tử, trưng bày ở
trong nước và nước ngoài, diễn giải truyền thông và giáo dục di sản văn hóa, tổ
chức các hoạt động văn hóa phù hợp..”
- Quy
định rõ việc xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng tiêu chuẩn xếp hạng bảo tàng, thẩm
quyền xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng.
- Quy
định mới về các hoạt động chuyên môn đặc thù của bảo tàng như: Hoạt động sưu
tầm hiện vật; Hoạt động kiểm kê, tư liệu hóa hiện vật của bảo tàng; Hoạt động
bảo quản hiện vật của bảo tàng; Hoạt động trưng bày hiện vật và giới thiệu di
sản văn hóa phi vật thể của bảo tàng; Hoạt động giáo dục của bảo tàng; Hoạt
động truyền thông của bảo tàng; Hoạt động dịch vụ của bảo tàng.
V.
CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN LUẬT
1.
Chuẩn bị nguồn nhân lực
Sau
khi Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thông qua, các cơ quan, tổ chức tiếp tục
thực hiện các quy định về di sản mà không phát sinh về nhân lực. Nguồn nhân lực
cho công tác triển khai thi hành Luật Di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm hiệu quả và tính bền vững của quá trình thực thi. Đội ngũ
nhân lực cần được phát triển đồng bộ cả về số lượng và chất lượng, bao gồm cán
bộ quản lý nhà nước, chuyên gia, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực di sản văn hoá
và các lực lượng tham gia khác. Đặc biệt, cần chú trọng đào tạo và bồi dưỡng
chuyên môn cho cán bộ làm công tác quản lý và bảo vệ di sản văn hóa, bảo đảm họ
được cập nhật kiến thức mới, nắm vững các quy định của Luật và kỹ năng ứng dụng
công nghệ hiện đại trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Việc
xây dựng đội ngũ chuyên gia và nhà nghiên cứu có trình độ cao, am hiểu sâu về
các loại hình di sản văn hóa là vô cùng cần thiết. Cần có chính sách thu hút và
đãi ngộ đối với đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia
giỏi trong nước và quốc tế.
Nguồn
nhân lực cho công tác triển khai thi hành Luật Di sản văn hóa là yếu tố then
chốt quyết định hiệu quả và tính bền vững của quá trình thực thi. Đội ngũ nhân
lực cần được xây dựng và phát triển một cách đồng bộ, cả về số lượng lẫn chất
lượng, để đáp ứng yêu cầu thực tế ngày càng cao trong công tác quản lý, bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa.
2.
Chuẩn bị kinh phí
Để
đảm bảo triển khai thi hành Luật Di sản văn hóa sau khi được Quốc hội thông
qua, Nhà nước cần đầu tư một khoản kinh phí cho việc tổ chức triển khai thực
hiện, cụ thể là:
- Cân
đối, bố trí ngân sách hàng năm để tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, tập huấn,
in ấn tài liệu, hợp đồng với các chuyên gia, báo cáo viên, các cơ quan truyền
thông, trên các phương tiện thông tin đại chúng...;
- Chi
phí triển khai thi hành Luật khi có hiệu lực thi hành và chi phí kiểm tra, giám
sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá... tình hình thực thi Luật theo định kỳ hoặc
đột xuất;
- Chi
phí xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
VI.
DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH CỦA LUẬT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
1.
Dự báo tác động chính sách của Luật
Luật
Di sản văn hóa năm 2024 được thông qua với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung và
những quy định mới quan trọng, góp phần vào mục tiêu hoàn thiện thể chế, chính
sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa. Luật đã đưa ra các chính sách mang tính đột phá để huy động tối đa các
nguồn lực xã hội tham gia vào công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa, khắc phục được bất cập, hạn chế, sửa đổi, bổ sung được những quy định phát
sinh từ thực tiễn... bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các quy định khác của
pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Từ những quy định
mới hay những quy định được sửa đổi, bổ sung sẽ có những phát sinh trong công
tác thực hiện ví dụ như quy định về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát, xử lý vi phạm trong các luật liên quan, phát sinh các thủ tục hành
chính... Tuy nhiên, đây là những biện pháp cần thiết để bảo đảm tính chính
đáng, sự công bằng trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa,
hay sẽ có những hạn chế trong việc tổ chức thực hiện do Luật mới được ban hành,
công tác hướng dẫn triển khai đôi khi sẽ không kịp thời, đầy đủ, sâu rộng đến
đối tượng chịu sự tác động của Luật nên sẽ có độ trễ nhất định khi thực thi...
2.
Những vấn đề cần lưu ý khi thực hiện
Khi
Luật Di sản văn hóa có hiệu lực từ 01/7/2025 sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa. Tuy nhiên, để Luật thực sự đi vào cuộc sống, cần triển
khai các biện pháp tuyên truyền đồng bộ, sâu rộng trên phương tiện truyền thông
đại chúng, qua các hội nghị, hội thảo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, văn bản
hướng dẫn tổ chức thi hành từ Trung ương đến địa phương để các chính sách của
Luật đến được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng chịu sự tác động của
Luật.
VII.
TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH LUẬT DI SẢN VĂN HÓA
1.
Về ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành Luật
Căn
cứ các điều, khoản giao tại Luật Di sản văn hoá 2024, căn cứ Quyết định số
1610/QĐ-TTg ngày 19/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục và phân
công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật,
Nghị quyết được Quốc hội khoá XV thông qua tại Kỳ họp 8, Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du Lịch tham mưu trình các văn bản quy định chi tiết, cụ thể:
a)
Các văn bản quy định chi tiết thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ
Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch sẽ trình Chính phủ ban hành 07 Nghị định, cụ thể:
-
Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Di sản văn
hóa (Điểm d Khoản 3 Điều 7; Khoản 7 Điều 25; Khoản 11 Điều 27; Khoản 5 Điều 37;
Khoản 8 Điều 39; Khoản 5 Điều 41; Khoản 4 Điều 43; Khoản 4 Điều 44; Khoản 5
Điều 45; Khoản 7 Điều 50; Khoản 7 Điều 51; Khoản 8 Điều 52; Khoản 4 Điều 56;
Khoản 6 Điều 60; Khoản 5 Điều 61; Khoản 10 Điều 63; Khoản 4 Điều 67; Khoản 5
Điều 69; Khoản 2 Điều 83; Khoản 7 Điều 85; Khoản 6 Điều 89; Khoản 2 Điều 91;
Khoản 2 Điều 92);
-
Nghị định quy định biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá
phi vật thể trong các Danh sách của UNESCO và Danh mục quốc gia về di sản văn
hoá phi vật thể (Khoản 5 Điều 17);
-
Nghị định quy định về chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hoá phi
vật thể (Khoản 3 Điều 14);
-
Nghị định quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hồ sơ lập, thẩm định, phê
duyệt quy hoạch khảo cổ; quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; dự án đầu tư, xây dựng công trình, sửa
chữa, cải tạo, xây dựng nhà ở riêng lẻ nằm trong, nằm ngoài khu vực bảo vệ di
tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; dự án đầu tư xây dựng, cải tạo,
nâng cấp công trình kiến trúc hạ tầng kỹ thuật và trưng bày bảo tàng công lập
(Khoản 6 Điều 29; Khoản 5 Điều 30; Khoản 5 Điều 34; Khoản 4 Điều 35; Khoản 2
Điều 70);
-
Nghị định quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi chứng
chỉ đủ điều kiện kinh doanh bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; giấy chứng nhận
đủ điều kiện kinh doanh bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh giám định di vật, cổ vật; giấy chứng nhận đủ điều kiện
kinh doanh di vật, cổ vật; chứng chỉ hành nghề kinh doanh di vật, cổ vật (Khoản
2 Điều 78; Khoản 2 Điều 79; Khoản 2 Điều 80);
-
Nghị định quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới
ở Việt Nam (Khoản 6 Điều 25);
-
Nghị định quy định về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa dưới nước (Khoản 4 Điều
39).
b)
Các văn bản quy định chi tiết thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch
Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì ban hành 09 Thông tư, cụ thể:
-
Thông tư quy định về kiểm kê di sản văn hoá, công bố danh mục kiểm kê di sản
văn hoá và việc đưa thêm, di dời, thay đổi hiện vật trong di tích (Khoản 3 Điều
11; Khoản 4 Điều 23; Khoản 3 Điều 54; Khoản 4 Điều 31);
-
Thông tư quy định chi tiết về nhiệm vụ chuyên môn của bảo tàng (Khoản 2 Điều
68);
-
Thông tư quy định chi tiết về phân loại di vật, cổ vật (Khoản 3 Điều 40);
-
Thông tư quy định chi tiết về gửi, lưu giữ hiện vật, tài liệu về di sản văn hoá
phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản tư liệu và việc nghiên
cứu, sưu tầm và tư liệu hoá di sản văn hóa (Khoản 4 Điều 77; Khoản 5 Điều 16;
Khoản 4 Điều 58);
-
Thông tư quy định chi tiết về chương trình, tài liệu, tổ chức đào tạo, tập
huấn, bồi dưỡng cho nhân lực quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
(Khoản 3 Điều 84);
-
Thông tư quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
(Điểm đ khoản 2 Điều 35);
-
Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
(Khoản 1 Điều 35);
-
Thông tư quy định quy định chung về kho bảo quản di sản tư liệu (Khoản 7 Điều
57);
-
Thông tư quy định di sản văn hoá hạn chế sử dụng, khai thác và hướng dẫn việc
khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa (Khoản 4 Điều 88,
Khoản 3 Điều 85);
2.
Về nội dung tổ chức triển khai (quán triệt, phổ biến, tuyên truyền)
Thời
gian tới, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ
biến Luật Di sản văn hóa. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng
cao nhận thức, trách nhiệm và ý thức tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ
chức và toàn thể Nhân dân.
Việc
phổ biến, tuyên truyền Luật, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan cần được thực hiện một
cách thường xuyên, rộng khắp, đa dạng về hình thức và nội dung thông qua các
buổi tọa đàm, hội nghị, hội thảo, đào tạo, tập huấn, xây dựng tài liệu…, phù
hợp với từng đối tượng cụ thể. Các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí,
truyền hình, phát thanh, mạng xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các
quy định của Luật đến gần hơn với cộng đồng. Đồng thời, các bộ, ban, ngành, Ủy
ban nhân dân các cấp và các đơn vị có liên quan phối hợp với Bộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật, các văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành bằng hình thức phù hợp với từng đối tượng, điều
kiện, tình hình thực tế của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Cán
bộ, công chức, viên chức và người có thẩm quyền thực thi pháp luật cần được đào
tạo, bồi dưỡng để nắm vững và thực hiện đúng quy định của Luật. Đồng thời, sự
tham gia tích cực của cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ, gìn giữ và phát huy
giá trị di sản văn hóa, tạo sự đồng thuận và ý thức trách nhiệm chung trong
toàn xã hội.
Trên
đây là tài liệu giới thiệu, phổ biến Luật Di sản văn hoá năm 2024, trong quá
trình triển khai Luật sẽ tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các nội dung liên quan
để công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến đến các cơ quan, tổ chức, cá
nhân được hiệu quả./.