CÔNG ƯỚC SỐ 102
CÔNG ƯỚC
VỀ
QUY PHẠM TỐI THIỂU VỀ AN TOÀN XÃ HỘI, 1952
Hội nghị toàn thể của Tổ chức
Lao động quốc tế,
Được Hội đồng quản trị của Văn
phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 4 tháng 6 năm 1952, trong
kỳ họp thứ ba mươi lăm, và
Sau khi đã quyết định chấp thuận
một số đề nghị về các quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, là vấn đề thuộc
điểm thứ năm trong chương trình nghị sự kỳ họp, và
Sau khi đã quyết định rằng những
đề nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước quốc tế,
Thông qua ngày 28 tháng 6 năm
1952, Công ước dưới đây, gọi là Công ước về An toàn xã hội (quy phạm tối
thiểu), 1952.
Phần I.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
1. Trong Công ước này, các thuật
ngữ dưới đây được hiểu như sau :
a) “được quy định” nghĩa
là được xác định bởi pháp luật hoặc quy định;
b) “nơi thường trú” là
nơi cư trú quen thuộc trên lãnh thổ của Nước thành viên, và thuật ngữ “người
thường trú” là chỉ một người vẫn thường trú trên lãnh thổ của Nước thành viên;
c) “người vợ” là chỉ
người vợ ăn theo người chồng;
d) “người vợ góa” là chỉ
người phụ nữ ăn theo người chồng tới khi người chồng chết;
e) “con” là chỉ đứa con
dưới tuổi hết bắt buộc đi học, hoặc đứa con dưới 15 tuổi, tuy theo quy định;
f) “thâm niên” là chỉ
thời gian đóng góp, hoặc thời gian đã làm việc, hoặc thời gian thường trú, hoặc
một sự kết hợp của những thời gian đó, tùy theo quy định.
2. Tại các Điều 10, 35 và 49,
thuật ngữ “trợ cấp” được hiểu là sự chăm sóc được cung cấp trực tiếp, hoặc các
khoản trợ cấp gián tiếp, bao gồm việc hoàn trả các phí tổn mà đương sự đã gánh
chịu.
Điều 2
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Công ước này sẽ:
a) phải áp dụng :
i) phần I;
ii) ít nhất là 3 phần trong các
phần II, III, IV, V, VI, VII, VIII, IX và X; bao gồm ít hất là một trong các
phần IV, V, VI, IX và X;
iii) những quy định tương ứng
trong các phần IX, XII và XIII;
iv) Phần XIV;
b) khi phê chuẩn, phải chỉ rõ
phần nào trong các phần từ III đến X mà mình chấp nhận những nghĩa vụ theo Công
ước.
Điều 3
1. Nước thành viên mà nền kinh
tế và các phương tiện y tế chưa phát triển đủ mức thì có thể, và trong bất kỳ
thời hạn nào mà cơ quan có thẩm quyền thấy cần thiết, bằng một bản tuyên bố kèm
theo văn bản phê chuẩn, bảo lưu việc sử dụng những ngoại lệ tạm thời được nêu
trong những Điều sau đây: 9e); 12(2); 15đ); 18(2); 21c); 27đ); 34(3); 42đ);
48c); 55đ); và 61đ).
2. Mọi Nước thành viên có bản
tuyên bố theo Đoạn 1, Điều này, trong báo cáo hàng năm về tình hình áp dụng
Công ước này theo Điều 22 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế, khi nói về mỗi
ngoại lệ mà mình bảo lưu việc sử dụng, thì phải cho biết:
a) những lý do của các ngoại lệ
đó;
b) thời điểm nhất định chấm dứt
việc thực hiện các ngoại lệ đó.
Điều 4
1. Sau khi mọi Nước thành viên
đã phê chuẩn Công ước này có thể báo cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc
tế biết là mình chấp nhận những nghĩa vụ theo Công ước này đối với một hoặc
nhiều phần trong những phần từ II đến X mà mình chưa ghi rõ khi phê chuẩn.
2. Những cam kết quy định trong
Đoạn 1, Điều này, sẽ được coi là một bộ phận không tách rời của việc phê chuẩn
và sẽ có hiệu lực tương tự ngay sau khi thông báo.
Điều 5
Trong mục
đích áp dụng phần nào thuộc những phần từ II đến X của Công ước này được chỉ rõ
trong việc phê chuẩn của mình, khi Nước thành viên có trách nhiệm bảo vệ những
nhóm người theo luật định/ được quy định mà tổng số ít nhất bao gồm một tỷ lệ
nhất định những người làm công ăn lương hoặc những người thường trú, thì Nước
thành viên đó, trước khi cam kết áp dụng phần nói trên, phải bảo đảm đạt được
tỷ lệ đó.
Điều 6
Để áp dụng
các phần II, III, IV, V , VIII (riêng về chăm sóc y tế) và các phần IX hoặc X
của Công ước này, các Nước thành viên có thể cho bao gồm việc bảo vệ theo các
chế độ bảo hiểm mà pháp luật hoặc quy định quốc gia không coi là bắt buộc đối
với người được bảo vệ, một khi việc bảo vệ đó:
a) được các cơ quan kiểm soát
hoặc được người sử dụng lao động và người lao động cùng nhau giám sát, theo quy
định đã có;
b) bao gồm một bộ phận quan
trọng những người mà mức thu nhập không cao hơn mức thu nhập của những người
thợ nam giới có tay nghề cao;
c) kết hợp cùng với những hình
thức bảo vệ khác, nếu thích hợp, sẽ thỏa mãn những điều khoản có liên quan của
Công ước này.
Phần II.
CHĂM SÓC Y TẾ
Điều 7
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm việc cung cấp
những sự trợ giúp cho người được bảo vệ khi tình trạng của họ cần đến sự chăm
sóc y tế có tính chất phòng bệnh hoặc chữa bệnh, theo những Điều sau đây của
Phần này.
Điều 8
Các trường
hợp bảo vệ phải bao gồm mọi tình trạng đau ốm vì bất kỳ nguyên nhân gì và tình
trạng thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả tiếp theo.
Điều 9
Những
người được bảo vệ bao gồm:
a) các loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương, và cả
vợ, con của họ;
b) hoặc các loại được quy định
trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người
thường trú trong nước, và cả vợ, con của họ;
c) hoặc các loại được quy định
trong những người thường trú, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người
thường trú trong nước;
d) hoặc, nếu đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, thì phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong
các cơ sở công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên, cùng với vợ, con của họ.
Điều 10
1. Các trợ cấp ít nhất phải gồm :
a) Trong trường hợp đau ốm:
i) sự chăm sóc của bác sỹ đa
khoa, kể cả việc thăm bệnh tại nhà;
ii) sự chăm sóc của các chuyên
gia y tế trong các bệnh viện cho người nằm viện hoặc không nằm viện, và sự chăm
sóc mà các chuyên gia y tế có thể tiến hành ngoài bệnh viện;
iii) việc cung cấp các dược phẩm
thiết yếu theo đơn của thầy thuốc hoặc của một nhân viên y tế có bằng cấp;
iv) việc nằm viện khi cần thiết.
b) trong trường hợp thai nghén,
sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo:
i) sự chăm sóc trước khi đẻ,
trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một thầy thuốc hoặc một người đỡ đẻ có bằng cấp
tiến hành;
ii) việc nằm viện khi cần thiết.
2. Người thụ hưởng hoặc người
trụ cột gia đình của người đó có thể bị buộc tham gia chịu phí tổn về chăm sóc
y tế trong trường hợp đau ốm; các quy tắc về việc tham gia này phải được quy
định để tránh một gánh nặng quá mức.
3. Việc trợ cấp theo Điều này
phải nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe của người được bảo vệ, kể
cả khả năng làm việc và khả năng đáp ứng nhu cầu cá nhân người đó.
4. Các cơ quan chính phủ hoặc
các thể chế quản lý việc trợ cấp này phải khuyến khích những người được bảo vệ,
bằng mọi cách coi là thích đáng, để họ sử dụng các cơ quan dịch vụ y tế công
cộng của cơ quan hoặc của các cơ quan được cơ quan thừa nhận, dành cho họ.
Điều 11
Trong mọi
trường hợp bảo vệ, các trợ cấp nêu trong Điều 10 ít nhất phải được bảo đảm cho
người được bảo vệ khi người đó hoặc người trụ cột gia đình của người đó đã có
thâm niên có thể được coi là cần thiết để tránh sự lạm dụng.
Điều 12
1. Các trợ cấp nêu trong Điều 10
phải được cấp trong suốt thời gian trường hợp bảo vệ xảy ra, trừ trường hợp đau
ốm, thì thời hạn được trợ cấp có thể giới hạn ở mức 26 tuần cho mỗi lần; tuy
nhiên, các trợ cấp sẽ không bị đình chỉ chừng nào mà trợ cấp ốm đau vẫn được
chi trả và phải có quy định để nâng cao giới hạn kể trên đối với những loại
bệnh đã ấn định và được thừa nhận là cần được chăm sóc lâu hơn.
2. Nếu đã có bản tuyên bố để áp
dụng Điều 3, thời gian trợ cấp có thể giới hạn ở mức 13 tuần cho mỗi lần.
Phần III.
TRỢ CẤP ỐM ĐAU
Điều 13
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm việc cung cấp
cho những người được bảo vệ khoản trợ cấp ốm đau, theo những Điều sau đây của
Phần này.
Điều 14
Các
trường hợp bảo vệ phải bao gồm sự mất khả năng lao động do đau ốm gây ra và dẫn
đến gián đoạn thu nhập, như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định.
Điều 15
Những
người được bảo vệ bao gồm:
a) những loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương;
b) hoặc những loại được quy định
trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người
thường trú;
c) hoặc mọi người thường trú mà
phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới
hạn quy định theo Điều 67;
d) hoặc, khi đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong
các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Điều 16
1. Nếu người được bảo vệ là
người làm công ăn lương hoặc người trong dân số hoạt động kinh tế, thì trợ cấp
là chế độ chi trả định kỳ một khoản được tính theo quy định tại Điều 65 hoặc
Điều 68.
2. Nếu người được bảo vệ là
người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra
không vượt quá giới hạn quy định, thì trợ cấp là chế độ chi trả định kỳ một khoản
được tính theo quy định tại Điều 67.
Điều 17
Trong
trường hợp bảo vệ, trợ cấp nêu ở Điều 16 ít nhất phải bảo đảm cho người được
bảo vệ đã có thâm niên có thể được coi là cần thiết, để tránh sự lạm dụng.
Điều 18
1. Trợ cấp nêu tại Điều 16 phải
được trả trong suốt thời gian trường hợp bảo vệ xảy ra, miễn là thời gian trợ
cấp có thể giới hạn trong 26 tuần cho từng trường hợp đau ốm, và với khả năng
không trả trở cấp trong 3 ngày đầu khi thu nhập bị gián đoạn.
2. Khi đã có có bản tuyên bố áp
dụng Điều 3, thời gian trợ cấp có thể giới hạn:
a) trong một khoảng thời gian mà
tổng số ngày hưởng trợ cấp đau ốm trong một năm ít nhất phải gấp 10 lần con số
trung bình của những người được bảo vệ trong năm đó.
b) Hoặc trong 13 tuần cho từng
trường hợp đau ốm với khả năng không trả trợ cấp trong 3 ngày đầu khi thu nhập
bị gián đoán.
Phần IV.
TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP
Điều 19
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải đảm bảo cho những
người được bảo vệ được nhận trợ cấp khi thất nghiệp, theo những Điều sau đây
của Phần này.
Điều 20
Trường
hợp bảo vệ phải bao gồm tình trạng gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc quy
định quốc gia quy định, và xảy ra do không thể có được một công việc thích hợp,
trong tình hình người được bảo vệ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc.
Điều 21
Những
người được bảo vệ phải bao gồm:
a) những loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương;
b) hoặc mọi người thường trú mà
phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới
hạn quy định theo Điều 67;
c) hoặc, khi đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong
các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Điều 22
1. Nếu người được bảo vệ là
người làm công ăn lương hoặc người trong dân số hoạt động kinh tế, thì trợ cấp
là chế độ chi trả định kỳ một khoản được tính theo quy định tại Điều 65 hoặc
Điều 68.
2. Nếu người được bảo vệ là
người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra
không vượt quá giới hạn quy định, thì trợ cấp là chế độ chi trả định kỳ một
khoản được tính theo quy định tại Điều 67.
Điều 23
Trong
trường hợp bảo vệ, trợ cấp nêu ở Điều 16 ít nhất phải bảo đảm cho người được
bảo vệ đã có thâm niên có thể được coi là cần thiết, để tránh sự lạm dụng.
Điều 24
1. Trợ cấp nêu tại Điều 22 phải
được trả trong suốt thời gian trường hợp bảo vệ xảy ra với một ngoại trừ là
thời gian được trợ cấp có thể giới hạn:
a) ở 13 tuần trong thời kỳ 12
tháng, nếu người được bảo vệ là người làm công ăn lương;
b) ở 26 tuần trong thời kỳ 12
tháng, nếu người được bảo vệ là người thường trú mà các phương tiện sinh sống
trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định.
2. Trong trường hợp pháp luật
hoặc quy định quốc gia quy định rằng thời gian trợ cấp sẽ dài ngắn tùy theo
thời gian đóng góp và/hoặc tùy theo trợ cấp đã hưởng trước đó trong một thời gian
quy định, thì những quy định tại Khoản a) Đoạn 1 sẽ coi là đã được thỏa mãn nếu
thời gian trung bình hưởng trợ cấp là 12 tuần trở lên trong thời kỳ 12 tháng.
3. Trợ cấp có thể không được trả
trong một thời gian tạm chờ là 7 ngày đầu tiên trong từng trường hợp gián đoạn
thu nhập, và những ngày thất nghiệp trước và sau một công việc tạm thời không
quá một thời hạn đã định sẽ được tính như một bộ phận của trường hợp gián đoạn
thu nhập đó.
4. Nếu là người lao động làm
theo mùa vụ, thì thời gian được hưởng trợ cấp và thời gian tạm chờ có thể được
quy định thích hợp với điều kiện làm việc của họ.
Phần IV.
TRỢ CẤP TUỔI GIÀ
Điều 25
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải đảm bảo cho những
người được bảo vệ được nhận trợ cấp tuổi già ( hưu bổng) theo những Điều sau
đây của Phần này.
Điều 26
1. Trường hợp bảo vệ là tình
trạng sống lâu hơn một độ tuổi được quy định.
2. Độ tuổi quy định không được
quá 65. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền có thể ấn định một độ tuổi cao
hơn, xét theo khả năng làm việc của những người cao tuổi trong nước đó.
3. Pháp luật hoặc quy định quốc
gia có thể đình chỉ trợ cấp nếu người thụ hưởng tiến hành những hoạt động có
thu nhập đã được quy định, hoặc có thể giảm bớt trợ cấp có tính chất đóng góp
khi thu nhập của người đó vượt quá một mức quy định và có thể giảm bớt trợ cấp
không có tính chất đóng góp khi thu nhập hay những phương tiện sinh sống khác
của người đó, hoặc cả hai thứ cộng lại, vượt quá một mức quy định.
Điều 27
Những
người được bảo vệ phải bao gồm:
a) những loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương;
b) hoặc những loại được quy định
trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người
thường trú;
c) hoặc mọi người thường trú mà
phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới
hạn quy định theo Điều 67;
d) hoặc, khi đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong
các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Điều 28
Trợ cấp
là chế độ chi trả định kỳ theo mức được tính như sau:
a) theo quy định tại Điều 65
hoặc Điều 66, khi người được bảo vệ là người làm công ăn lương hoặc nhựng loại
trong dân số hoạt động;
b) theo quy định tại Điều 67,
khi người được bảo vệ là người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi
trường hợp bảo vệ xảy ra, không vượt quá giới hạn quy định.
Điều 29
1. Khi xảy ra trường hợp bảo vệ,
trợ cấp nêu tại Điều 28, phải ít nhất bảo đảm cho:
a) người được bảo vệ mà trước
khi trường hợp bảo vệ xảy ra và theo những quy tắc quy định, đã có thâm niên có
thể gồm 30 năm đóng góp hay làm việc, hoặc 20 năm thường trú;
b) khi về nguyên tắc mọi hoạt
động đều được bảo vệ, thì bảo bảo đảm cho người được bảo vệ đã có thâm niên
đóng góp theo quy định, và đối với người đó, trong suốt độ tuổi lao động, sự
đóng góp đã đạt số đóng góp trung bình hàng năm theo quy định.
2. Nếu việc trợ cấp nêu tại Đoạn
1 tùy thuộc vào việc có một khoảng thời gian đóng góp hoặc làm việc tối thiểu,
thì ít nhất phải bảo đảm một trợ giảm bớt cho:
a. người được bảo vệ nào, trước
khi trường hợp bảo vệ xảy ra và theo những quy tắc đã định, đã có thâm niên 15
năm đóng góp hoặc làm việc;
b. khi về nguyên tắc mọi hoạt
động đều được bảo vệ, thì phải bảo đảm cho người được bảo vệ nào đã có thâm
niên đóng góp theo quy định, và đối với người đó, trong suốt độ tuổi lao động,
sự đóng góp đã đạt một nửa số đóng góp trung bình hàng năm quy định theo khoảng
b) Đoạn 2, Điều này.
3. Những quy định tại Đoạn 1,
Điều này, coi là được thỏa mãn, nếu trợ cấp được tính theo Phần XI nhưng theo
một tỷ lệ phần trăm thấp hơn 10 đơn vị so với tỷ lệ ghi trong Biểu kèm theo
phần đó cho đối tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn, sẽ ít nhất bảo đảm cho người
được bảo vệ nào, theo quy tắc đã định, đã có 10 năm đóng góp hay làm việc, hoặc
đã có 5 năm thường trú.
4. Tỷ lệ phần trăm ghi ở Biểu
kèm theo Phần XI có thể được giảm bớt theo mức phần trăm, nếu thâm niên để
hưởng trợ cấp tương ứng với mức phần trăm giảm bớt là trên 10 năm đóng góp hoặc
làm việc, nhưng dưới 30 năm đóng góp hoặc làm việc. Nếu thâm niên đó là trên 15
năm thì một trợ cấp giảm bớt sẽ được cấp theo Đoạn 2, Điều này.
5. Nếu trợ cấp nêu trong Đoạn 1,3
hoặc 4, Điều này, tùy thuộc vào việc có một khoảng thời gian đóng góp hoặc làm việc
tối thiểu, thì phải bảo đảm trợ cấp giảm bớt theo những điều kiện quy định, cho
người được bảo vệ đã cao tuổi khi quy định cho phép áp dụng Phần này của Công
ước bắt đầu có hiệu lực, và do đó không có đủ những điều kiện quy định theo Đoạn
2, Điều này, trừ phi việc trợ cấp phù hợp với những quy định tại các Đoạn 1, 3
hoặc 4, Điều này, được trả cho người đó ở một độ tuổi cao hơn so với độ tuổi
bình thường.
Điều 30
Các trợ cấp
nêu ở các Điều 28 và 29 phải được trả trong suốt thời gian xảy ra trường hợp
bảo vệ.
Phần VI.
TRỢ CẤP TRONG TRƯỜNG HỢP
TAI NẠN LAO ĐỘNG HOẶC BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Điều 31
Mọi nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm cho những người
được bảo vệ được trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp, theo những Điều sau đây của Phần này.
Điều 32
Những
trường hợp bảo vệ phải bao gồm những trường hợp sau đây, nếu do các tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp được quy định gây ra:
a) tình trạng đau ốm;
b) mất khả năng lao động do tình
trạng đau ốm gây ra và dẫn đến gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc quy định
quốc gia quy định;
c) mất hoàn toàn khả năng thu
nhập, hoặc mất một phân khả năng thu nhập vượt quá mức quy định, nếu tình trạng
đó có cơ trở thành thường xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực;
d) người vợ góa hoặc con cái bị
mất phương tiện sinh sống do người trụ cột gia đình chết; trong trường hợp là
người vợ góa, thì quyền được hưởng trợ cấp có thể tùy thuộc vào sự suy đoán
chiểu theo pháp luật hoặc quy định quốc gia, rằng người đó không thể tự đài thọ
cho nhu cầu của chính mình.
Điều 33
Những
người được bảo vệ phải bao gồm :
a) những loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương,
và, đối với trợ cấp tiền tuất thì bao gồm cả vợ và con của người làm công ăn
lương thuộc loại đó;
b) hoặc, khi đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong
các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên và, đối với trợ cấp
tiền tuất thì bao gồm cả vợ và con của người làm công ăn lương thuộc loại đó;
Điều 34
1. Về tình trạng đau ốm, việc
trợ cấp phải bao gồm việc chăm sóc y tế nêu tại các Đoạn 2 và 3, Điều này.
2. Chăm sóc y tế phải gồm :
a) sự chăm sóc của bác sỹ đa khoa
và các chuyên gia cho người nằm viện hoặc không nằm viện, kể cả thăm bệnh tại
nhà;
b) sự chăm sóc răng miệng;
c) sự chăm sóc của các hộ lý,
tại nhà hoặc trong bệnh viện hay tại một cơ quan y tế;
d) sự điều dưỡng tại bệnh viện,
nhà nghỉ sau khi ốm, nhà an dưỡng hoặc tại các cơ quan y tế khác;
e) các vật liệu về răng, thuốc
men và các vật liệu y tế hoặc giải phẫu khác, kể cả các dụng cụ chỉnh hình và
việc bảo dưỡng các dụng cụ đó, và đeo kính mắt;
f) sự chăm sóc của người làm
nghề khác nhưng được công nhận hợp pháp là có liên quan đến nghề y tế, tiến
hành dưới sự giám sát của một thầy thuốc hoặc một nha sĩ.
3. Khi đã có bản tuyên bố để áp
dụng Điều 3, chăm sóc y tế phải gồm ít nhất là :
a) sự chăm sóc của y sĩ điều trị
chung, kể cả thăm bệnh tại nhà;
b) sự chăm sóc của các chuyên
gia trong bệnh viện cho người nằm viện hoặc không nằm viện, sự chăm sóc của các
chuyên gia có thể tiến hành ngoài bệnh viện;
c) việc cung cấp các dược liệu
thiết yếu, theo đơn của thầy thuốc hoặc nhân viên y tế khác có bằng cấp;
d) việc nằm viện nếu cần thiết.
4. Sự chăm sóc y tế được cung
cấp theo các khoản trên phải nhằm bảo toàn, hồi phục hoặc cải thiện sức khỏe
cho người được bảo vệ, kể cả khả năng làm việc và khả năng ứng phó với nhu cầu
cá nhân.
Điều 35
1. Các cơ quan chính phủ hoặc
thể chế quản lý chăm sóc y tế phải hợp tác thích đáng với các cơ quan chung về
đào tạo lại nghề nghiệp để làm cho người có khuyết tật tái thích ứng được với
một công việc thích hợp.
2. Pháp luật hoặc quy định quốc
gia có thể cho phép các cơ quan hoặc thể chế nói trên có các biện pháp đào tạo
lại nghề nghiệp cho những người có khuyết tật.
Điều 36
1. Trong trường hợp mất khả năng
lao động, có thể thường xuyên mất toàn bộ khả năng thu nhập, hoặc bị giảm sút
tương ứng về thể lực, hoặc mất người trụ cột gia đình, thì trợ cấp sẽ là chế độ
chi trả định kỳ một mức được tính theo quy định tại Điều 65 hoặc Điều 66.
2. Trong trường hợp có thể
thường xuyên mất một phần khả năng thu nhập, hoặc trong trường hợp có giảm sút
tương ứng về thể lực thì trợ cấp sẽ là chế độ chi trả định kỳ được ấn định với
một mức tỷ lệ thích hợp so với tỷ lệ quy định cho trường hợp mất hoàn toàn khả
năng thu nhập hoặc bị giảm tương ứng về thể lực.
3. Các chế độ chi trả định kỳ có
thể chuyển thành một số vốn chi trả một lần:
a) khi mức độ mất khả năng là
không đáng kể;
b) hoặc khi các cơ quan có thẩm
quyền được đảm bảo rằng số vốn đó sẽ được sử dụng đích đáng;
Điều 37
Khi xảy
ra trường hợp bảo vệ, chế độ trợ cấp quy định tại Điều 34 và 36 phải được đảm
bảo tối thiểu cho người được bảo vệ đã từng làm công ăn lương trên lãnh thổ của
Nước thành viên vào lúc xảy ra tai nạn nếu thương tật đó là do tại nạn hoặc vào
lúc nhiễm bệnh nếu thương tật đó là do nhiễm bệnh và, đối với chế độ chi trả
định kỳ tiền tuất do người lao động trụ cột gia đình chết, phải đảm bảo chi trả
cho vợ và con của người đó.
Điều 38
Trợ cấp
nêu tại các Điều 34 và 36 phải được trả trong suốt thời gian trường hợp bảo vệ
xảy ra; tuy nhiên, đối với trường hợp mất khả năng lao động, trợ cấp có thể
không được trả trong 3 ngày đầu tiên của mỗi lận gián đoạn thu nhập.
Phần VII.
TRỢ CẤP GIA ĐÌNH
Điều 39
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm cho những
người được bảo vệ được trợ cấp gia đình (phụ cấp gia đình) theo những Điều sau
đây của Phần này.
Điều 40
Trường
hợp bảo vệ là gánh nặng về con cái theo quy định.
Điều 41
Những
người được bảo vệ phải bao gồm :
a) những loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương;
b) hoặc những loại được quy định
trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20 % toàn bộ người thường
trú;
c) hoặc mọi người thường trú mà
phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới
hạn quy định;
d) hoặc, nếu đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương làm việc trong các
doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Điều 42
Việc trợ
cấp phải là:
a) chế độ chi trả định kỳ cho
mọi người được bảo vệ đã có thâm niên theo quy định;
b) hoặc việc cung cấp cho con
cái hoặc vì con cái, các thực phẩm, áo quần, chỗ ở, đi nghỉ hè, hoặc sự trợ
giúp về nội trợ;
c) hoặc gồm các trợ cấp được ghi
trong cả hai khoản a) và b).
Điều 43
Trợ cấp
nêu tại Điều 42 ít nhất phải bảo vệ khi người đó trong một thời kỳ quy định, đã
có thâm niên có thể gồm 3 tháng đóng góp hay làm việc, hoặc một năm thường trú,
tùy theo quy định.
Điều 44
Tổng giá
trị các trợ cấp theo Điều 42, cho người được bảo vệ phải là:
a) 3% tiền lương của người lao
động nam giới thành niên thông thường, được xác định theo những quy tắc nêu tại
Điều 66, nhân với tổng số con cái của người được bảo vệ;
b) Hoặc 1,5% của tiền lương nói
trên, nhân với tổng số con cái của người thường trú.
Điều 45
Khi trợ
cấp gồm chế độ chi trả định kỳ, thì phải trả trong suốt thời gian của trường
hợp bảo vệ.
Phần VIII.
TRỢ CẤP THAI SẢN
Mọi Nước thành viên chịu hiệu
lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm cho những người được bảo vệ, được
trợ cấp thai sản, theo những Điều sau đây của Phần này.
Điều 47
Trường
hợp bảo vệ bao gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo, sự gián đoạn
thu nhập nảy sinh như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định.
Điều 48
Những
người được bảo vệ phải bao gồm:
a) Mọi người phụ nữ thuộc loại
làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm
công ăn lương; trong trường hợp trợ cấp y tế về thai sản thì bao gồm cả vợ của
những người thuộc các loại này.
b) hoặc mọi người phụ nữ thuộc
các loại được quy định trong dân số hoạt động kinh tế, và tổng số ít nhất chiếm
20 % toàn bộ người thường trú; trong trường hợp trợ cấp y tế về thai sản thì
bao gồm cả vợ của những người thuộc các loại này.
c) hoặc, nếu đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm mọi người phụ nữ thuộc những loại làm công ăn
lương được quy định, và tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn
lương làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở
lên; trong trường hợp trợ cấp y tế về thai sản thì bao gồm cả vợ của những
người thuộc các loại này.
Điều 49
1. Nếu là trường hợp thai nghén,
sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo, thì trợ cấp y tế về thai sản phải bao gồm
sự chăm sóc y tế nêu tại các Đoạn 2 và 3, Điều này.
2. Những chăm sóc y tế phải gồm
ít nhất:
a) những chăm sóc trước khi đẻ,
trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một thầy thuốc hoặc một người đỡ đẻ có bằng cấp
tiến hành;
b) việc nằm viện khi cần thiết.
3. Chăm sóc y tế nêu tại Đoạn 2,
Điều này, phải nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe của người phụ nữ
được bảo vệ, và cả khả năng làm việc, khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của
họ.
4. Các cơ quan chính phủ hoặc
thể chế quản lý trợ cấp y tế về thai sản phải khuyến khích những người phụ nữ
được bảo vệ, bằng mọi cách được coi là thích đáng, để họ sử dụng các dịch vụ y
tế chung của cơ quan hoặc của cơ quan được thừa nhận, dành cho họ.
Điều 50
Trong
trường hợp gián đoạn thu nhập do thai nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp
theo, trợ cấp sẽ là chế độ chi trả định kỳ được tính theo quy định tại Điều 65
hoặc Điều 66. Mức chi trả định kỳ có thể thay đổi trong thời gian bảo vệ, với
điều kiện là mức trung bình phải phù hợp với những quy định nói trên.
Điều 51
Trong
trường hợp bảo vệ, trợ cấp nêu tại các Điều 49 và 50 ít nhất phải bảo đảm cho
người phụ nữ thuộc các loại được bảo vệ đã có thâm niên được coi là cần thiết,
để tránh lạm dụng; trợ cấp nêu tại Điều 49 cũng phải bảo đảm cho cả vợ của
người thuộc những loại được bảo vệ, nếu người này đã có thâm niên như quy định.
Điều 52
Trợ cấp
nêu tại các Điều 49 và 50 phải trả trong suốt thời gian xảy ra trường hợp bảo
vệ; tuy nhiên, chế độ chi trả định kỳ có thể giới hạn ở mức 12 tuần, trừ phi
nếu pháp luật hoặc quy định quốc gia đòi hỏi hoặc cho phép một thời gian vắng
mặt tại nơi làm việc dài hơn, thì việc chi trả không thể giới hạn ở một thời
gian ngắn hơn.
Phần IX.
TRỢ CẤP TÀN TẬT
Điều 53
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm cho người
được bảo vệ được trợ cấp tàn tật, theo những Điều sau đây của Phần này.
Điều 54
Trường
hợp bảo vệ là tình trạng không có khả năng tiến hành một hoạt động có thu nhập
ở một mức độ quy định, khi tình trạng đó có cơ sở trở thành thường xuyên hoặc
vẫn tiếp tục tồn tại sau khi ngừng trợ cấp ốm đau.
Điều 55
Những
người được bảo vệ phải bao gồm :
a) những loại làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương;
b) hoặc những loại được quy định
trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20 % toàn bộ người thường
trú;
c) hoặc mọi người thường trú mà
phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới
hạn quy định;
d) hoặc, nếu đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định,
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương làm việc trong các
doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Điều 56
Trợ cấp
phải là chế độ chi trả định kỳ một mức được tính như sau :
a) Theo quy định tại Điều 65
hoặc Điều 66, nếu người được bảo vệ là loại làm công ăn lương hoặc loại trong
dân số hoạt động kinh tế;
b) Theo quy định tại Điều 67,
nếu người được bảo vệ là người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi
trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định.
Điều 57
1. Trong trường hợp bảo vệ, trợ
cấp nêu tại Điều 56 phải ít nhất được bảo đảm :
a) cho một người được bảo vệ đã
có, trước khi xảy ra tình huống, theo các thể lệ quy định, thâm niên tính bằng
15 năm đóng góp hay làm việc, hoặc 10 năm thường trú, hoặc,
b) khi về nguyên tắc tất cả
những người hoạt động đều được bảo vệ, thì phải bảo đảm trợ cấp cho một người
được bảo vệ đã có thâm niên bằng 3 năm đóng góp, và đối với người đó, trong
suốt độ tuổi lao động, sự đóng góp đã đạt số trung bình hàng năm theo quy định.
2. Khi trợ cấp nêu ở Đoạn 1 tùy
thuộc vào việc có một thời gian đóng góp hay làm việc tối thiểu thì một trợ cấp
giảm bớt phải được bảo đảm ít nhất cho:
a) người được bảo vệ, trước khi
trường hợp xảy ra và theo những quy tắc đã định, đã có thâm niên 5 năm đóng góp
hay làm việc;
b) về nguyên tắc mọi người hoạt
động đều được bảo vệ thì phải bảo đảm cho người được bảo vệ nào đã có thâm niên
3 năm đóng góp, và đối với người đó, trong suốt độ tuổi lao động, sự đóng góp
đã đạt một nửa số đóng góp trung bình hàng năm quy định theo Khoản b, Đoạn 1,
Điều này.
3. Các quy định của Đoạn 1, Điều
này, sẽ coi là được thỏa mãn nếu trợ cấp tính theo Phần XI, những theo một tỷ
lệ phần trăm thấp hơn 10 đơn vị sơ với tỷ lệ ghi ở Biểu kèm theo phần đó cho
đối tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn, sẽ ít nhất được bảo đảm cho người được bảo
vệ nào, theo quy tắc đã định, đã có 5 năm đóng góp, làm việc hay thường trú.
4. Tỷ lệ phần trăm ghi ở Biểu
kèm theo Phần XI có thể được giảm bớt theo mức phần trăm khi thâm niên để hưởng
khoản trợ cấp tương ứng với mức phần trăm giảm bớt cao hơn 5 năm đóng góp hay
làm việc, nhưng thấp hơn 15 năm đóng góp hay làm việc. Một trợ cấp giảm bớt sẽ
được trả theo Đoạn 2, Điều này.
Điều 58
Trợ cấp
nêu tại các Điều 56 và 57 phải được trả trong suốt thời gian của trường hợp bảo
vệ hoặc cho tới khi trợ cấp tuổi già sẽ được trả.
Phần X.
TRỢ CẤP TIỀN TUẤT
Điều 59
Mọi Nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải bảo đảm cho người
được bảo vệ được nhận trợ cấp tiền tuất theo những Điều sau đây của Phần này.
Điều 60
1. Trường hợp bảo vệ phải gồm
việc người vợ góa hoặc con cái bị mất phương tiện sinh sống do người trụ cột
gia đình chết; trong trường hợp là vợ góa thì quyền được trợ cấp có thể tùy
thuộc vào sự suy đoán chiếu theo pháp luật hoặc quy định, rằng người đó không
thể tự đài thọ cho những nhu cầu của chính mình.
2. Pháp luật hoặc quy định quốc
gia có thể đình chỉ trợ cấp nếu người thụ hưởng tiến hành những hoạt động có
thu nhập đã được quy định, hoặc có thể giảm bớt trợ cấp có tính chất đóng góp
khi thu nhập của người đó vượt quá một mức quy định, và giảm bớt trợ cấp không
có tính chất đóng góp nếu thu nhập hay các phương tiện sinh sống khác của người
đó, hoặc cả hai thứ cộng lại, vượt quá một mức quy định.
Điều 61
Những
người được bảo vệ phải bao gồm:
a) Người vợ và con cái của người
trụ cột gia đình thuộc loại làm công ăn lương được quy định, và những loại này
tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương;
b) hoặc vợ, con của người trụ
cột gia đình thuộc các loại được quy định trong dân số hoạt động kinh tế, tổng
số ít nhất chiếm 20% toàn bộ người thường trú;
c) hoặc vợ góa hoặc con cái có
tư cách thường trú đã mất người trụ cột gia đình mà phương tiện sinh sống trong
khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định theo Điều 67;
d) hoặc, nếu đã có bản tuyên bố
để áp dụng Điều 3, phải bao gồm vợ và con của người trụ cột gia đình thuộc loại
làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm
công ăn lương làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người
trở lên.
Điều 62
Trợ cấp
phải là chế độ chi trả định kỳ theo mức được tính như sau :
a) theo quy định tại Điều 65
hoặc Điều 66, nếu người được bảo vệ là loại làm công ăn lương hoặc loại trong
dân số hoạt động kinh tế;
b) theo quy định tại Điều 67,
nếu người được bảo vệ là người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi
trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định.
Điều 63
1. Trong trường hợp bảo vệ, trợ
cấp nêu tại Điều 62 phải ít nhất đảm bảo cho:
a) người được bảo vệ mà người
trụ cột gia đình, theo quy tắc đã định, đã có thâm niên 15 năm đóng góp hoặc
làm việc, hoặc 10 năm thường trú;
b) về nguyên tắc, vợ, con của
người hoạt động đều được bảo vệ, thì phải bảo đảm cho người được bảo vệ mà
người trụ cột gia đình đã có thâm niên 3 năm đóng góp, mà đối với người trụ cột
gia đình này, trong suốt độ tuổi lao động, sự đóng góp đã đạt số đóng góp trung
bình hàng năm đã quy định.
2. Nếu trợ cấp nêu tại Đoạn 1
phụ thuộc vào việc phải có thâm niên đóng góp hoặc làm việc tối thiểu, thì ít
nhất phải bảo đảm trợ cấp giảm bớt cho:
a) người được bảo vệ mà người
trụ cột gia đình, theo quy tắc đã định, đã có thâm niên 5 năm đóng góp hoặc làm
việc;
b) khi về nguyên tắc , vợ, con
của mọi người hoạt động đều được bảo vệ, thì phải bảo đảm cho người được bảo vệ
mà người trụ cột gia đình đã có thâm niên 3 năm đóng góp, và đối với người trụ
cột gia đình này, trong suốt độ tuổi lao động, sự đóng góp đã đạt một nửa số
đóng góp trung bình hàng năm quy định theo Khoản b, Đoạn 1, Điều này.
3. Các quy định của Đoạn 1, Điều
này, sẽ coi là được thỏa mãn nếu trợ cấp tính theo Phần XI, những theo một tỷ
lệ phần trăm thấp hơn 10 đơn vị sơ với tỷ lệ ghi ở Biểu kèm theo phần đó cho
đối tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn, sẽ ít nhất được bảo đảm cho người được bảo
vệ mà người trụ cột gia đình, theo quy định đã định, đã có 5 năm đóng góp, làm
việc hay thường trú.
4. Tỷ lệ phần trăm ghi ở Biểu
kèm theo Phần XI có thể được giảm bớt theo mức phần trăm khi thâm niên để hưởng
khoản trợ cấp tương ứng với mức phần trăm giảm bớt cao hơn 5 năm đóng góp hay
làm việc, nhưng dưới 15 năm đóng góp hay làm việc. Một trợ cấp giảm bớt sẽ được
trả theo Đoạn 2, Điều này.
5. Có thể đặt điều kiện một thời
gian kết hôn tối thiểu, để người vợ góa không con được suy đoán là không thể tự
đài thọ cho nhu cầu của chính mình, có quyền hưởng trợ cấp tiền tuất.
Điều 64
Trợ cấp
nêu tại các Điều 62 và 63 phải được trả trong suốt thời gian của trường hợp bảo
vệ.
Phần XI.
TIÊU CHUẨN ĐỂ TÍNH CHẾ
ĐỘ CHI TRẢ ĐỊNH KỲ
Điều 65
1. Trong mọi sự chi trả định kỳ
theo Điều này, mức trợ cấp cộng thêm mức trợ cấp gia đình được trả trong trường
hợp bảo vệ đối với đối tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn nêu trong Biểu kèm theo
Phần này, và trong trường hợp cụ thể đó, ít nhất phải bằng tỷ lệ phần trăm ghi
trong biểu so với tổng thu nhập trước đó của người thụ hưởng hoặc người trụ cột
gia đình của người đó, và so với mức trợ cấp gia đình cho một người được bảo vệ
có gánh nặng gia đình giống như gánh nặng gia định của đối tượng thụ hưởng đủ
tiêu chuẩn.
2. Thu nhập trước đó của người
thụ hưởng hoặc của người trụ cột gia đình của người đó được tính theo những quy
tắc đã định, và nếu người được bảo vệ hoặc người trụ cột gia đình của họ được
chia thành nhiều thứ bậc khác nhau theo mức thu nhập, thì thu nhập trước đó của
họ có thể được tính theo mức thu nhập cơ bản của thứ bậc tương ứng của họ.
3. Có thể quy định mức tối đa
cho khoản trợ cấp hoặc khoản thu nhập dùng để tính toán trợ cấp, miễn là mức
tối đa đó được ấn định sao cho đáp ứng được quy định tại Đoạn 1, Điều này khi
thu nhập trước đó của người thụ hưởng hoặc của người cụ cột gia đình của người
đó thấp hơn hoặc chỉ ngang với tiền lương của một người thợ nam giới có tay
nghề.
4. Thu nhập trước đó của người
thụ hưởng hoặc của người trụ cột gia đình của người đó, tiền lương của người
thợ nam giới có tay nghề trợ cấp và các khoản trợ cấp gia đình được tính theo
cùng một cơ sở thời gian.
5. Đối với những người thụ hưởng
khác, trợ cấp được ấn định sao cho có mối tương quan hợp lý với trợ cấp đối với
đối tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn.
6. Để áp dụng Điều này, người
thợ nam giới có tay nghề là :
a) người thợ lắp máy hoặc người
thợ tiện trong công nghiệp cơ khí, nhưng không phải là công nghiệp cơ điện;
b) hoặc là một người coi như thợ
có tay nghề mẫu được chọn theo quy định tại khoản tiếp theo;
c) hoặc là một người có thu nhập
ngang hoặc cao hơn thu nhập của 75% toàn bộ người được bảo vệ, và thu nhập này
được xác định trên cơ sở hàng năm, hoặc một kỳ ngắn hơn, tùy theo quy định;
d) hoặc là một người có thu nhập
bằng 125% thu nhập trung bình của toàn bộ người được bảo vệ.
7. Để áp dụng Khoản b) Đoạn
trên, người thợ coi như có tay nghề mẫu sẽ được chọn trong những nhóm hoạt động
kinh tế quan trọng tập trung đông nhất những người nam giới hoạt động được bảo
vệ trong trường hợp đó, hoặc tập trung đông nhất những người trụ cột gai đình
của những người được bảo vệ trong một ngành tập trung đông nhất những người
được bảo vệ đó, hoặc những người trụ cột gia đình đó; về mặt này, sẽ sử dụng
bảng phân loại quốc tế mẫu theo từng loại công nghiệp cho mọi ngành hoạt động
kinh tế do Hội đồng kinh tế và xã hội Liên hợp quốc thông qua tại kỳ họp thứ
VII ngày 27/8/1948, được in lại trong phần phụ lục kèm theo Công ước này, cùng
mọi sửa đổi bổ sung có thể có sau này.
8. Khi trợ cấp khác nhau theo
từng vùng thì có thể chọn người thợ nam giới có tay nghề trong mỗi vùng, theo
quy định tại các Đoạn 6 và 7, Điều này.
9. Tiền lương của người thợ nam
giới có tay nghề được xác định theo tiền lương trả cho số giờ làm việc bình
thường được ấn định trong thỏa ước tập thể, hoặc được ấn định bởi hay do pháp
luật hoặc quy định, hoặc theo tập quán, kể cả khoản phụ cấp đắt đỏ, nếu có; nếu
tiền lương được xác định như vậy vẫn khác nhau theo từng vùng mà không áp dụng
được Đoạn 8, Điều này, thì sử dụng mức lương trung bình.
10. Các mức chi trả định kỳ đang
tiến hành về trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
(trừ những chi trả về trợ cấp mất khả năng lao động), trợ cấp tàn tật và trợ
cấp tiền tuất sẽ được điều chỉnh lại sau khi có những diễn biến đáng kể về mức
thu nhập chung do những diễn biến đáng kể về giá sinh hoạt gây ra.
Điều 66
1. Trong trường hợp chế độ chi
trả định kỳ được áp dụng theo Điều này, mức trợ cấp cộng thêm với mức phụ cấp
gia đình được trả, trong trường hợp xảy ra cho đối tượng thụ hưởng đủ tiêu
chuẩn nêu trong Biểu kèm theo Phần này, trong trường hợp đó sẽ ít nhất phải ngang
với tỷ lệ phần trăm được ghi trong biểu so với tổng số tiền lương của một người
lao động nam giới thành viên thông thường và so với mức phụ cấp gia đình trả
cho một người được bảo vệ có gánh nặng gia đình giống như đối tượng thụ hưởng
đủ tiêu chuẩn.
2. Tiền lương của người lao động
nam giới thành niên thông thường, trợ cấp và khoản phụ cấp gia đình đều được
tính theo cùng một cơ sở thời gian.
3. Đối với những người thụ hưởng
khác, trợ cấp ấn định sao cho có mối tương quan hợp lý với trợ cấp cho đối tượng
thụ hưởng đủ tiêu chuẩn.
4. Để áp dụng Điều này, người
lao động nam giới thông thường là :
a) Một người coi như người lao
động mẫu không có trình độ nghề nghiệp trong công nghiệp cơ khí, nhưng không
phải là công nghiệp cơ điện;
b) hoặc một nhóm người coi như
người lao động mẫu không có trình độ nghề nghiệp được xác định theo quy định
tại khoản tiếp theo.
5. Người được coi là tiêu biểu
cho nhóm lao động không có tay nghề theo Khoản b) của Đoạn trên phải là người
thuộc nhóm hoạt động kinh tế quan trọng chiếm số lượng lớn những người nam giới
hoạt động kinh tế được bảo vệ trong trường hợp đó, hoặc những người trụ cột gia
đình của những người được bảo vệ đó, nếu trường hợp có thể xảy ra nhưu vậy
thuộc bộ phận chiếm số đông nhất những người hay những trụ cột như vậy; để đạt
mục đích này cần phải sử dụng bảng phân loại ngành ngành tiêu chuẩn quốc tế
được Hội đồng kinh tế và xã hội Liên hợp quốc thông qua tại kỳ họp thứ VII ngày
27/8/1948, được in lại trong Phần phụ lục kèm theo Công ước này, hoặc sử dụng
bảng phân loại như thế có thể được sửa đổi bất kỳ lúc nào.
6. Khi trợ cấp khác nhau theo
từng vùng thì có thể chọn người lao động nam giới thành niên thông trường trong
mỗi vùng, theo quy định tại các Đoạn 4 và 5, Điều này.
7. Tiền lương của người lao động
nam giới thông thường được xác định theo tiền lương trả cho số giờ làm việc
bình thường được ấn định trong thỏa ước tập thể, hoặc được ấn định bởi hay do
pháp luật hoặc quy định, hoặc theo tập quán, kể cả khoản phụ cấp đắt đỏ, nếu
có; nếu tiền lương được xác định như vậy vẫn khác nhau theo từng vùng mà không
áp dụng được Đoạn 6, Điều này, thì sử dụng mức lương trung bình.
8. Các mức chi trả định kỳ đang
tiến hành về trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
(trừ những chi trả về trợ cấp mất khả năng lao động), trợ cấp tàn tật và trợ
cấp tiền tuất sẽ được điều chỉnh lại sau khi có những diễn biến đáng kể về mức
thu nhập chung do những diễn biến đáng kể về giá sinh hoạt gây ra.
Điều 67
Trong
trường hợp chế độ chi trả định kỳ được áp dụng theo Điều này :
a) mức trợ cấp phải được ấn định
theo một bảng tính quy định, hoặc theo bảng tính do các cơ quan có thẩm quyền
quyết định theo những quy tắc nhất định.
b) Mức trợ cấp hỉ có thể được
giảm bớt khi các phương tiện sinh sống khác của gia đình người thụ hưởng vượt
quá mức quan trọng được quy định, hoặc do các cơ quan có thẩm quyền quyết định
theo những quy tắc nhất định.
c) Tổng mức trợ cấp và các
phương tiện sinh sống khác cộng lại, sau khi trừ đi những mức quan trọng nêu
tại Khoản b) nói trên, phải đủ để bảo đảm cho gia đình người thụ hưởng, những
điều kiện sinh sống lành mạnh và không thấp hơn mức trợ cấp tính theo quy định
tại Điều 66.
d) Những quy định tại Khoản c)
coi là được thỏa mãn nếu tổng mức các loại trợ cấp trả theo phần đó vượt quá ít
nhất 30 % tổng mức các loại trợ cấp tính theo quy định tại Điều 66 và những quy
định:
i) của khoản b) Điều 15 cho Phần
III;
ii) của khoản b) Điều 27 cho
Phần V;
iii) của khoản b) Điều 55 cho
Phần IX;
iv) của khoảng b) Điều 61 cho
Phần X
BIỂU (PHỤ LỤC KÈM THEO PHẦN XI)
Phần
|
Trường
hợp
|
Đối
tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn
|
Tỷ
lệ phần trăm
|
III
IV
V
VIII
IX
X
|
Ốm đau
Thất nghiệp
Tuổi già
Mất khả năng lao động
Tàn tật
Tiền tuất
Thai sản
Tàn tật
Tiền tuất
|
Người có vợ và 2 con
Người có vợ và 2 con
Người có vở ở tuổi về hưu
Người có vợ và 2 con
Người có vợ và 2 con
Vợ góa có 2 con
Phụ nữ
Người có vợ và 2 con
Vợ góa có 2 con
|
45
45
40
50
50
40
45
40
40
|
Phần XII.
ĐỐI XỬ BÌNH ĐẲNG VỚI
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THƯỜNG TRÚ
Điều 68
1. Những công dân nước ngoài
thường trú cũng phải có những quyền giống như những công dân chính quốc : Miễn
là những quy định đặc biệt về những người nước ngoài hay công dân sinh ra ngoài
lãnh thổ của Nước thành viên có thể được đưa ra theo luạt định về các chế độ
trợ cấp hay các phần của chế độ trợ cấp mà phải trả toàn bộ hay chủ yếu ngoài
công quỹ và về các chế độ chuyển tiếp.
2. Đối với những chương trình
bảo hiểm xã hội bắt buộc nhằm bảo vệ người lao động, những người được bảo vệ là
công dân của một Nước thành viên khác mà đã chấp thuận các nghĩa vụ quy định
trong Phần tương ứng của Công ước phải theo quy định tại Phần đó, có các quyền
giống như các công dần của Nước thành viên hữu quan: Miễn là việc áp dụng đoạn
này có thể phải tuân theo một thỏa thuận song phương hay đa phương hiện hành
quy định nguyên tắc tương hỗ.
Phần
XIII.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 69
Trợ cấp
mà một người được bảo vệ có quyền hưởng khi áp dụng một phần trong các Phần từ
II đến X trong Công ước này có thể bị đình chỉ trong mức độ được quy định :
a) chừng nào đương sự không có
mặt trên lãnh thổ của Nước thành viên;
b) chừng nào đương sự được phát
theo công quỹ hoặc được một thể chế hay một cơ quan an toàn xã hội đài thọ; tuy
nhiên nếu trợ cấp vượt quá mức cấp phát, đài thọ đó, thì phải trả lại mức chênh
lệch cho những người ăn theo người thụ hưởng.
c) chừng nào đương sự nhận bằng
tiền mặt một khoảng trợ cấp an toàn xã hội khác, trừ khoản trợ cấp gia đình và
trong suốt thời gian mà đương sự được bồi thường bởi một bên thứ ba về cùng một
trường hợp nào đó, miễn là trợ cấp bị đình chỉ không vượt quá phần trợ cấp
khác, hoặc không vượt quá mức bồi thường của bên thứ 3;
d) khi đương sự dùng cách gian
lận để xóa trợ cấp;
e) khi trường hợp xảy ra là do
lỗi cố ý của đương sự;
f) trong trường hợp thích hợp,
khi đương sự chểnh mạng trong việc sử dụng dịch vụ y tế hoặc dịch vụ tái thích
ứng được dành cho họ, hoặc không tuân theo những quy tắc đã định về việc xác
định xem trường hợp có xảy ra và còn tồn tại ay không, và những quy định về
thái độ của người thụ hưởng trợ cấp;
g) về trợ cấp thất nghiệp, khi
đương sự chểnh mảng trong việc sử dụng dịch vụ việc làm được dành cho họ;
h) về trợ cấp thất nghiệp, khi
đương sự đã mất việc làm vì một lý do trực tiếp của hành động ngừng làm việc
trong tranh chấp lao động, hoặc đương sự đã tự ý rời bỏ công việc mà không có ý
do chính đáng;
i) về trợ cấp tiền tuất, chừng
nào người vợ góa sống chung với một người khác như là vợ của người đó.
Điều 70
1. Mọi người khiếu nại đều phải
được quyền kháng cáo trong trường hợp bị từ chối trợ cấp, hoặc khiếu nại về
chất lượng hay số lượng của trợ cấp.
2. Trong khi áp dụng Công ước
này, nếu việc quản lý chăm sóc y tế được giao cho một cơ quan chính phủ chịu
trách nhiệm trước Quốc hội, thì quyền kháng cáo quy định tại Đoạn 1, Điều này,
có thể được thay thế bằng quyền đòi cơ quan có thẩm quyền điều tra mọi khiếu
nại về việc bị từ chối chăm sóc y tế hoặc về chất lượng chăm sóc y tế đã cung
cấp.
3. Nếu việc kiện cáo được đưa
đến các tòa án thiết lập đặc biệt để xử lý những vấn đề an toàn xã hội và những
người được bảo vệ có đại diện trong thẩm phán, thì có thể không cần quyền kháng
cáo.
Điều 71
1. Chi phí cho các loại trợ cấp
được áp dụng theo Công ước này và kinh phí quản lý các loại trợ cấp đó phải
được tài trợ tập thể bằng cách đóng góp hay bằng thuế, hoặc bằng cả hai cách
đó, theo những thể thức để tránh tình trạng khó khăn cho người thiếu thốn
phương tiện sinh sống và có lưu ý tới tình hình kinh tế của Nước thành viên và
của những loại người được bảo vệ.
2. Tổng số tiền đóng góp bảo
hiểm do người làm công ăn lương được bảo vệ phải chịu không được vượt quá 50%
tổng số tiền sử dụng vào việc bảo vệ cho người làm công ăn lương và vợ, con họ.
Để xác định việc đáp ứng điều kiện đó có được thực hiện không, tất cả các loại
trợ cấp do Nước thành viên cấp theo Công ước này có thể được xem xét một cách
tổng thể, ngoại trừ loại trợ cấp gia đình và ngoại trừ loại trợ cấp về tai nạn
lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, nếu những loại trợ cấp này thuộc những nhánh
riêng.
3. Nước thành viên phải chịu
trách nhiệm chung về dịch vụ trợ cấp được áp dụng theo Công ước này và phải sử
dụng mọi biện pháp cần thiết nhằm đạt mục tiêu đó; khi cần thiết, Nước thành
viên phải bảo đảm rằng các công việc nghiên cứu và những sự tính toán dự liệu
cần thiết về thăng bằng thu chi phải tiến hành trước khi có sửa đổi về trợ cấp,
về mức đóng góp bảo hiểm, hoặc về các loại thuế được sử dụng vào việc đài thọ
cho những trường hợp xảy ra.
Điều 72
1. Trong trường hợp việc quản lý
không được giao cho một thể chế do các cơ quan quy định hoặc cho một cơ quan
chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, thì các đại diện của những người
được bảo vệ phải tham gia vào việc quản lý hoặc được liên kết với việc quản lý
bằng quyền tư vấn theo những điều kiện quy định; pháp luật hoặc quy định quốc
gia cũng có thể quy định sự tham gia của các đại diện người sử dụng lao động và
của các cơ quan.
2. Nước thành viên phải chịu trách
nhiệm chung về việc quản lý đúng đắn các thể chế và các cơ cấu có liên quan đến
việc áp dụng Công ước này.
Phần XIV.
NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC
Điều 73
Công ước
này không áp dụng đối với :
a) những trường hợp xảy ra trước
khi phần tương ứng của Công ước này bắt đầu có hiệu lực đối với Nước thành viên
hữu quan;
b) những loại trợ cấp đối với
những trường hợp xảy ra sau khi phần tương ứng của Công ước này đã có hiệu lực
đối với Nước thành viên hữu quan, nhưng quyền được hưởng những loại trợ cấp đó
lại thuộc về những thời điểm trước khi phần tương ứng đó bắt đầu có hiệu lực.
Điều 74
Công ước
này không được coi là xét lại bất kỳ một Công ước hiện hành nào.
Điều 75
Nếu Công
ước nào được Hội nghị thông qua sau này thì những quy định về một hoặc nhiều
vấn đề được xử lý trong Công ước này được chỉ rõ trong Công ước mới sẽ thôi áp
dụng cho Nước thành viên đã phê chuẩn Công ước đó, ngay sau khi Công ước đó bắt
đầu có hiệu lực đối với Nước thành viên hữu quan.
Điều 76
1. Mọi Nước thành viên phê chuẩn
Công ước này cam kết rằng, trong báo cáo hàng năm về việc áp dụng Công ước theo
Điều 22 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế, phải cung cấp :
a) những thông báo đầy đủ về
pháp luật hoặc pháp quy có hiệu lực những quy định của Công ước này;
b) những chứng cứ về việc mình
đã đáp ứng những đòi hỏi về thống kê được nêu trong :
i) các Điều 8 a), b), c) hoặc
d); 15 a), b) hoặc d); 21 a) hoặc c); 27 a) hoặc d); 33 a) hoặc b); 41 a), b)
hoặc d); 48 a), b) hoặc c); 55 a), b) hoặc d); 61 a), b) hoặc d), về số lượng
người được bảo vệ.
ii) các Điều 44, 65, 66, hoặc 67
về mức trợ cấp;
iii) các khoản a) Đoạn 2, Điều
18 về thời gian trợ cấp ốm đau;
iv) Đoạn 2, Điều 24, về thời
gian trợ cấp thất nghiệp;
v) Đoạn 2, Điều 71, về tỷ lệ số
tiền đóng góp bảo hiểm của những người làm công ăn lương được bảo vệ.
Về phương pháp trình bày, các
chứng cứ này phải được cung cấp càng phù hợp càng tốt với những gợi ý của Hội
đồng quản trị Văn phòng Lao động quốc tế để nhằm đạt tới tính thống nhất tối đa.
2. Mọi Nước thành viên phê chuẩn
Công ước này, vào những khoảng thời gian thích hợp do Hội đồng quản trị quyết
định, sẽ gửi cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế các bản báo cáo về
tình hình và thực trạng pháp luật của mình đối với những quy định nào của mỗi
một phần trong các phần từ II đến X trong Công ước này mà mình chưa ghi trong
phê chuẩn hoặc trong thông báo để áp dụng Điều 4.
Điều 77
1. Công ước này không áp dụng
đối với các thuyền viên và những đánh bắt cá; những quy định để bảo vệ cho các
thuyền viên và người đánh bắt cá đã được Hội nghị Lao động quốc tế thông qua
trong Công ước về An toàn xã hội cho người đi biển, 1946, và trong Công ước về
Hưu bổng của người đi biển, 1946.
2. Nước thành viên có thể loại
trừ các thuyền viên và người đánh bắt cá ra khỏi số người làm công ăn lương, số
người trong dân số hoạt động kinh tế hoặc số người thường trú, khi số này được
dùng để tính tỷ lệ phần trăm người làm công ăn lương hoặc người thường trú được
bảo vệ, trong khi áp dụng một phần nào đó trong các Phần từ II đến X mà mình đã
phê chuẩn.
Phần XV.
NHỮNG QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG
Các Điều 78, 78 và từ 82 đến 87
Những quy định cuối cùng mẫu,
trừ Điều 82, vì Điều này quy định việc bãi ước đối với Công ước “hoặc một trong
những Phần từ II đến X, hoặc nhiều phần trong những phần đó”. Điều 82 cũng đã
được thảo theo quy định cuối cùng mẫu về việc bãi ước.
Các Điều 80 và 81
Tuyên bố áp dụng cho các lãnh
thổ phi chính quốc.
PHỤ LỤC:
Bảng phân loại ngành tiêu chuẩn
quốc tế đối với mọi hoạt động kinh tế (đã được thay thế bằng bảng phân loại
mới, xem phụ lục của Công ước số 130).