THUYẾT
MINH
QUY HOẠCH XÂY DỰNG QCVN CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG
THUỘC LĨNH VỰC QUẢN LÝ CỦA BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2015
1. Cơ sở và định hướng quy hoạch
Quy hoạch xây
dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) cho các đối tượng thuộc lĩnh vực quản
lý của Bộ Khoa học và Công nghệ được thực hiện theo quy định tại Điều
29 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, trên cơ sở hướng dẫn lập và
phê duyệt quy hoạch xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quy định tại Thông tư số 23/2007/TT-BKHCN
ngày 29/8/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ, quan điểm tiếp cận quản lý và xác
định lĩnh vực, đối tượng, loại QCVN theo kinh nghiệm của quốc tế, khu vực có
liên quan.
Lĩnh vực, đối
tượng, loại QCVN thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ được
xác định trên cơ sở:
- Chức năng,
quyền hạn, trách nhiệm quản lý chuyên ngành của Bộ Khoa học và Công nghệ được
Chính phủ quy định tại Nghị định số 28/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008;
- Nghị định số 127/2007/NĐ-CP
ngày 1/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (Khoản t) Điều 23);
- Luật
chất lượng sản phẩm, hàng hoá (Khoản 4 điều 3) và Nghị định
số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật chất lượng sản phẩm hành hoá (Điều 3);
- Thực trạng các
yêu cầu quản lý đặc thù trong các lĩnh vực quản lý chuyên ngành có liên quan
đáp ứng nhu cầu hội nhập trong cơ chế kinh tế thị trường.
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, bao gồm: hoạt động khoa học và công
nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; sở hữu trí tuệ; tiêu chuẩn đo
lường chất lượng; năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân; quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật,
trong đó các lĩnh vực và nội dung quản lý cần xây dựng quy chuẩn kỹ thuật bao gồm:
1) Về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng:
a) Quản lý hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam; thẩm
định và công bố tiêu chuẩn quốc gia; hướng dẫn xây dựng và thẩm định quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia; tổ chức xây dựng tiêu chuẩn quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia thuộc lĩnh vực được phân công quản lý; hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn quốc
tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài ở Việt Nam; tổ chức và quản lý hoạt
động của mạng lưới quốc gia thông báo và điểm hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật
trong thương mại; thực hiện quản lý nhà nước về mã số, mã vạch và phân định sản
phẩm, hàng hóa;
b) Quản lý hệ thống chuẩn đo lường; quy định về phép đo, phương pháp
đo, phương tiện đo; tổ chức và quản lý hoạt động kiểm định phương tiện đo; chứng
nhận mẫu chuẩn, phê duyệt mẫu phương tiện đo, chứng nhận kiểm định viên đo lường;
quy định điều kiện hoạt động kiểm định và công nhận cơ sở có đủ điều kiện thực
hiện hoạt động kiểm định;
c) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tổ chức thực hiện
quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường, hàng hoá xuất
khẩu, hàng hoá nhập khẩu theo quy định của pháp luật; hướng dẫn và quản lý hoạt
động đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; công nhận năng lực
của phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức
giám định; chủ trì thực hiện chương trình quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa; thực hiện các thoả thuận và điều
ước quốc tế về việc thừa nhận lẫn nhau đối với kết quả đánh giá sự phù hợp với
tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
2) Về năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân:
a) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chương trình, dự án ứng dụng
năng lượng nguyên tử; tổ chức triển khai hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử
trong các ngành kinh tế - kỹ thuật trên phạm vi cả nước;
b) Tổ chức điều hành mạng lưới quan trắc phóng xạ môi trường quốc gia
và hệ thống phòng chuẩn quốc gia trong lĩnh vực đo lường bức xạ và hạt nhân;
c) Quy định và hướng dẫn việc khai báo, cấp giấy phép về an toàn bức xạ
và an toàn hạt nhân. Tiến hành thanh tra và xử lý vi phạm đối với các hoạt động
phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử và bảo đảm an toàn bức xạ và an toàn hạt
nhân;
d) Thống nhất quản lý nhiên liệu, vật liệu hạt nhân, vật liệu hạt nhân
nguồn và hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử; quản lý xuất
nhập khẩu công nghệ, thiết bị, nhiên liệu, vật liệu hạt nhân và nguồn phóng xạ
phục vụ cho các hoạt động triển khai ứng dụng năng lượng nguyên tử trong phạm
vi cả nước;
đ) Quy định việc quản lý chất thải phóng xạ, kiểm soát và xử lý sự cố bức
xạ, sự cố hạt nhân.
Căn cứ điểm t) khoản 1 Điều 23 Nghị định 127/2007/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Bộ Khoa học
và Công nghệ được phân công xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
(QCVN) trong các lĩnh vực sau:
- An toàn bức xạ và
hạt nhân;
- Đo lường, kiểm
tra, thử nghiệm, công nhận, chứng nhận;
- Sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ, quá trình và các đối tượng khác (trừ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ,
quá trình quy định cho các Bộ chuyên ngành khác tại Điều 23 Nghị
định 127/2007/NĐ-CP ngày 1/8/2007);
Căn cứ khoản 4 Điều 3 của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Điều 3 Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008, Bộ Khoa học
và Công nghệ đã ban hành danh mục các sản phẩm có khả năng gây mất an toàn (sản
phẩm, hàng hoá nhóm 2) kèm theo Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/03/2009 là
cơ sở quan trọng để cụ thể hoá các đối tượng QCVN.
2. Quan điểm tiếp cận quản lý và xác định
đối tượng, loại QCVN
Việc xác định lĩnh
vực, đối tượng, loại quy chuẩn kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước theo chức năng của Bộ Khoa học và Công nghệ, đặc
biệt với vai trò đầu mối giúp Chính phủ triển khai việc thực thi Luật Tiêu chuẩn
và Quy chuẩn kỹ thuật và trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế trong
những năm gần đây khi khái niệm và thực tiễn về quản lý chuyên ngành đã có nhiều
thay đổi theo hướng phải điều chỉnh để phù hợp hơn với các thể chế của nền kinh
tế thị trường. Việc quy hoạch hệ thống QCVN chuyên ngành cần đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước một cách toàn diện, có hệ thống và bền vững. Theo kinh nghiệm quản
lý của nhiều nước đi trước, việc xác định lĩnh vực, đối tượng quy chuẩn kỹ thuật
còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách quản lý vĩ mô và quản lý xã hội với các
mục tiêu cần đạt được rất rõ ràng. Trong một chừng mực nhất định, việc xác định
các lĩnh vực, đối tượng quản lý đôi khi còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính
trị.
Thực tế hoạt động về
xây dựng và ban hành QCKT trên bình diện quốc tế và khu vực cho thấy hoạt động
trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật được tiến hành nhằm đạt được sự cân bằng cần
thiết về quyền lợi giữa nhà nước, nhà sản xuất, chế tạo, nhà phân phối, xuất nhập
khẩu và người tiêu dùng căn cứ vào sự phân tích rủi ro khi sử dụng sản phẩm, dịch
vụ và bảo vệ người tiêu dùng.
Hoạt động trong
lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật hướng vào việc bảo đảm mức an toàn tối ưu, sự can
thiệp tối thiểu của nhà nước vào việc xây dựng và áp dụng các biện pháp cân bằng
trong toàn bộ chu trình vận động của sản phẩm, dịch vụ từ nhà sản xuất, chế tạo,
cung cấp dịch vụ đến người tiêu dùng để, một mặt, ngăn ngừa sự xuất hiện trên
thị trường sản phẩm, dịch vụ nguy hiểm, hàng giả và, mặt khác, để giảm thiểu
rào cản kỹ thuật đối với nhà sản xuất, chế tạo, cung cấp dịch vụ.
Việc xây dựng hệ thống
quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực Khoa học và Công nghệ theo tinh thần của Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và các văn bản hướng dẫn dưới luật nhằm thống
nhất việc quy định một cách cụ thể, có cơ sở khoa học và khả thi các yêu cầu về
kỹ thuật và biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hiệu lực của quản lý trong
cùng một loại hình văn bản đáp ứng yêu cầu quản lý chuyên ngành của Bộ trong từng
thời kỳ, phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường.
Những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định lĩnh vực, đối tượng QCVN
được xem xét bao gồm:
a)
Bản chất, quy mô và mục tiêu quản lý
Đây là vấn đề quan
trọng đầu tiên cần quan tâm đề cập đến khi xác định lĩnh vực, đối tượng QCVN.
Theo kinh nghiệm quốc tế, những lý do chính phải xây dựng và ban hành QCVN thường
là:
- Yêu cầu về an toàn, an
ninh quốc gia;
- Bảo vệ sức khoẻ, an toàn
cho con người, cuộc sống và sự tồn tại của động/ thực vật, bảo vệ môi trường;
- Ngăn ngừa các hành động
gây mất an toàn, hành vi dối trá, lừa bịp nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên có
liên quan, quyền lợi của người tiêu dùng.
Để quyết định sự cần thiết
phải quản lý các vấn đề trên bằng sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền thông qua việc xây dựng và ban hành QCVN, cần xác định rõ chức năng,
vai trò và khả năng của cơ quan này trong việc quản lý các vấn đề nêu trên.
Trong thực tế, việc can thiệp của nhà nước để quản lý các vấn đề trên không phải
lúc nào cũng là giải pháp tối ưu nhất và việc dùng quy chuẩn kỹ thuật để điều
chỉnh các đối tượng quản lý không phải là biện pháp duy nhất. Vì vậy, cần xem
xét để xác định làm rõ việc xây dựng và ban hành QCVN để quản lý các vấn đề nêu
trên phải là giải pháp đã được cân nhắc trên cơ sở xác định đây là giải pháp tối
ưu và có hiệu quả nhất so với các phương án quản lý khác.
Trong thực tế, có
nhiều hình thức quản lý của nhà nước đối với một vấn đề cụ thể, phụ thuộc vào
mục tiêu, bản chất, quy mô, điều kiện quản lý cụ thể mà cơ quan quản lý có thể
lựa chọn xác định cho mình một hình thức quản lý thích hợp. Việc tiếp cận quản
lý theo hướng này bao gồm:
- Xác định đối tượng quản
lý
- Xác định trọng tâm quản
lý đối với đối tượng cụ thể;
- Phân tích, đưa ra các giải
pháp, hình thức văn bản quản lý có thể áp dụng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp trên cơ sở kinh nghiệm, kiến thức về đối tượng quản lý và các vấn đề
ưu tiên có liên quan đến đối tượng quản lý, ví dụ như ngoài quy chuẩn kỹ thuật
có thể đưa ra các giải pháp quản lý thông qua áp dụng các quy định, văn bản pháp
luật thông thường có liên quan khác (Thông tư cấp Bộ) để quy định áp dụng các
biện pháp bắt buộc áp dụng hoặc để hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các quy định
pháp luật; giải pháp thông qua các chương trình giáo dục, áp dụng các tiêu chuẩn
tự nguyện; áp dụng các quy phạm thực hành (Code of practice); áp dụng các quy định
tự quản của các doanh nghiệp hoặc xây dựng và ban hành quy chế chung v.v…
- Lựa chọn phương án tối
ưu, khả thi nhất và với chi phí ít nhất có thể và mang lại các lợi ích tối ưu
cho xã hội. Phương án được lựa chọn phải là phương án được cân nhắc trên cơ sở
phân tích những điều kiện cụ thể của quản lý.
Việc xác định chính xác vấn
đề cần quản lý sẽ làm giảm nguy cơ rủi ro trong việc lựa chọn các phương án
thích hợp cho hành động của cơ quan quản lý hoặc là bỏ lỡ các phương án giải
quyết vấn đề có hiệu quả hơn, làm giảm khả năng đưa ra các giải pháp, quy định
quản lý thái quá không cần thiết. Những giải pháp, quy định quản lý trở nên
thái quá khi mà mức độ và/hoặc bản chất của các giải pháp, quy định quản lý dự
kiến quy đinh trong quy chuẩn kỹ thuật là cao hơn yêu cầu quản lý cần thiết. Kết
quả của việc đưa ra các giải pháp, quy định quản lý thái quá sẽ làm gia tăng
chi phí đối với các hoạt động của nền kinh tế, ví dụ như thông qua việc làm gia
tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh, tính sáng tạo hoặc giảm sự lựa
chọn của khách hàng.
Khi đã xác định được bản
chất của vấn đề cần quản lý, tầm quan trọng và quy mô quản lý là những yếu tố cần
được xem xét thông qua công cụ “đánh giá rủi ro”. Bản chất của quá trình đánh
giá rủi ro là qúa trình xem xét, đánh giá các rủi ro do thực hiện hoặc không thực
hiện các yêu cầu, quy định quản lý được đưa ra trong khuôn khổ quy chuẩn kỹ thuật
dựa trên các thông tin tin cậy về khoa học kỹ thuật công nghệ có liên quan,
phân tích vòng đời của sản phẩm và tác động của sản phẩm đối với người sử dụng
cuối cùng được dự kiến.
Việc xác định lĩnh vực, đối
tượng của QCKT cũng rất liên quan đến khả năng tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của
hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật đã được quy định trong Điều 6 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, cụ thể là:
a) Quy chuẩn kỹ thuật
phải đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, vệ sinh, sức khoẻ con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, bảo vệ động vật, thực vật,
môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
b) Hoạt động trong
lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm công khai, minh bạch, không phân biệt
đối xử và không gây trở ngại không cần thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh, thương mại.
c) Việc xây dựng quy
chuẩn kỹ thuật phải:
- Dựa trên tiến bộ
khoa học và công nghệ, kinh nghiệm thực tiễn, nhu cầu hiện tại và xu hướng phát
triển kinh tế - xã hội;
- Sử dụng tiêu chuẩn
quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài phù hợp với đặc điểm về địa
lý, khí hậu, kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam hoặc không ảnh hưởng đến lợi ích
quốc gia làm cơ sở để xây dựng quy chuẩn kỹ thuật,;
- Ưu tiên quy định
các yêu cầu về tính năng sử dụng sản phẩm, hàng hóa; hạn chế quy định các yêu
cầu mang tính mô tả hoặc thiết kế chi tiết;
- Bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam.
b) Quy định của pháp luật
về đối tượng, loại QCKT và kinh nghiệm quốc tế
Việc xác định đối
tượng cụ thể của quy chuẩn kỹ thuật cũng cần được đối chiếu với quy định về đối
tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật tại Điều
3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và cụ thể hoá trong Điều
2 Nghị định số 127/2007/NĐ-CP, bao gồm:
a) Sản phẩm, hàng hoá
được sản xuất để sử dụng trong nước; sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu; sản phẩm,
hàng hoá nhập khẩu;
b) Dịch vụ liên quan
đến các hoạt động sau: thương mại; bưu chính, viễn thông; công nghệ thông tin;
xây dựng; giáo dục, đào tạo; lao động, dạy nghề; tài chính; ngân hàng; y tế; du
lịch; văn hoá, giải trí; thể dục, thể thao; giao thông, vận tải; khoa học, công
nghệ; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; an ninh, an toàn; nông nghiệp và phát
triển nông thôn; thuỷ sản; tài nguyên và môi trường; các dịch vụ khác phát sinh
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cần được xây dựng và áp dụng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
c) Quá trình sản
xuất, khai thác, chế biến, bảo quản, vận chuyển, sử dụng, vận hành, bảo hành,
bảo trì, tái chế, tiêu huỷ, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá và các quá
trình khác trong hoạt động kinh tế - xã hội cần được xây dựng và áp dụng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
d) Môi trường đất,
nước, không khí; tiếng ồn, độ rung, bức xạ, phóng xạ; chất thải rắn, nước thải,
khí thải; phương tiện, công cụ và hoạt động quản lý, bảo vệ và gìn giữ môi
trường;
e) Các đối tượng khác
trong hoạt động kinh tế - xã hội cần được xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật.
Việc xác định các đối tượng
của QCVN theo yêu cầu quản lý nêu trên của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật
được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tiếp cận phân loại theo nội dung QCVN
(QCKT chung, QCKT an toàn, QCKT môi trường, QCKT qúa trình, QCKT dịch vụ theo Điều 28 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật).
Theo nguyên tắc tiếp cận
trên, việc quản lý chung các yếu tố tổng hợp của đối tượng QCKT là căn cứ để
xem xét đối tượng QCKT, trong đó yêu cầu quản lý chung sẽ là cơ sở để sàng lọc
các đối tượng phù hợp, trong số các đối tượng được liệt kê
Việc xác định đối tượng của
QCKT theo đặc tính của các yêu cầu về an toàn cũng có thể là căn cứ để lựa chọn
các đối tượng cụ thể có liên quan thuộc lĩnh vực quản lý có thể đưa vào danh mục
đối tượng QCKT, trong đó các yếu tố an toàn sau đây cần được xem xét cụ thể: an
toàn bức xạ; an toàn sinh học; an toàn nổ; an toàn cơ học; an toàn cháy; an
toàn hạt nhân và phóng xạ; an toàn tương thích điện từ...
Đối với nội dung qúa trình
và dịch vụ, việc xác định đối tượng QCKT có khó khăn hơn do tính phức tạp và
khó định dạng của các yêu cầu quy định làm cho việc xác định nội dung nào của
qúa trình hoặc dich vụ cần quản lý trong khuôn khổ QCKT, hoặc nội dung nào chỉ
cần quy định trong tiêu chuẩn trở nên khó khăn hơn. Trường hợp này, việc xác định
đối tượng QCKT được tiến hành một cách gián tiếp thông qua nội dung cụ thể về
qúa trình và dịch vụ được xác định cần phải quản lý và giám sát chặt chẽ bằng
QCKT.
Việc xác định đối tượng
QCVN cần hướng tới việc cải thiện tình hình quản lý phù hợp với bối cảnh kinh tế
mới, quy định của pháp luật và cam kết hội nhập trên cơ sở xem xét tổng thể vấn
đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành cụ thể, sao cho việc xác định đối
tượng này góp phần quản lý mang tính hệ thống, logic và khả thi tránh chồng
chéo, bỏ sót đối tượng quản lý, nhưng không đi vào quản lý quá chi tiết. Theo
quan điểm này, số lượng QCVN nên cố gắng giới hạn ở mức mức ít nhất có thể, đồng
thời cần có lộ trình cho việc xây dựng và ban hành các QCVN theo thứ tự ưu tiên
tuỳ theo mức độ cấp thiết, quan trọng của đối tượng, vấn đề quản lý. Những yếu
tố quan trọng về an toàn vệ sinh và an toàn sinh học được lưu tâm đặc biệt khi
xác định đối tượng QCVN trong lĩnh vực này. Nhìn chung, các yêu cầu khi xác định
đối tượng QCVN được thiết lập dựa trên các chuẩn cứ có cơ sở khoa học về an
toàn sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và khả năng tác động xấu đến môi trường xung
quanh. Các yêu cầu về giảm nguy cơ gây mất an toàn (rủi ro) đến mức độ chấp nhận
được đối với các đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật cần
được cụ thể hoá trong các QCVN cho các nhóm sản phẩm đồng nhất.
Nhìn chung, các yêu cầu được
quy định trong quy chuẩn kỹ thuật theo cách tiếp cận nêu trên được thiết lập dựa
trên các chuẩn cứ có cơ sở khoa học về an toàn sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và
khả năng tác động xấu đến môi trường xung quanh.
Trong thực tế, việc xác định
đối tượng sản phẩm cụ thể của Quy chuẩn kỹ thuật, theo kinh nghiệm của Cộng đồng
Châu Âu (EC) và quốc tế, có thể thực hiện theo nguyên tắc tiếp cận phân loại sản
phẩm để xác định đối tượng QCKT theo mức độ rủi ro.
Theo quy định tại Điều 28 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, các loại quy
chuẩn kỹ thuật bao gồm:
a) Quy chuẩn kỹ thuật
chung bao gồm các quy định về kỹ thuật và quản lý áp dụng cho một lĩnh vực quản
lý hoặc một nhóm sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình.
b) Quy chuẩn kỹ thuật
an toàn bao gồm:
- Các quy định về
mức, chỉ tiêu, yêu cầu liên quan đến an toàn sinh học, an toàn cháy nổ, an toàn
cơ học, an toàn công nghiệp, an toàn xây dựng, an toàn nhiệt, an toàn hóa học,
an toàn điện, an toàn thiết bị y tế, tương thích điện từ trường, an toàn bức xạ
và hạt nhân;
- Các quy định về
mức, chỉ tiêu, yêu cầu liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn dược
phẩm, mỹ phẩm đối với sức khoẻ con người;
- Các quy định về
mức, chỉ tiêu, yêu cầu liên quan đến vệ sinh, an toàn thức ăn chăn nuôi, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chế phẩm sinh học và hoá chất dùng cho
động vật, thực vật.
c) Quy chuẩn kỹ thuật
môi trường quy định về mức, chỉ tiêu, yêu cầu về chất lượng môi trường xung
quanh, về chất thải.
d) Quy chuẩn kỹ thuật
quá trình quy định yêu cầu về vệ sinh, an toàn trong quá trình sản xuất, khai
thác, chế biến, bảo quản, vận hành, vận chuyển, sử dụng, bảo trì sản phẩm, hàng
hóa.
e) Quy chuẩn kỹ thuật
dịch vụ quy định yêu cầu về an toàn, vệ sinh trong dịch vụ kinh doanh, thương
mại, bưu chính, viễn thông, xây dựng, giáo dục, tài chính, khoa học và công
nghệ, chăm sóc sức khoẻ, du lịch, giải trí, văn hoá, thể thao, vận tải, môi
trường và dịch vụ trong các lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm
của một số nước khu vực Châu Á-Thái bình dương được tổng hợp trong tài liệu hướng
dẫn xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ thuật của APEC, quy chuẩn kỹ thuật có thể
được phân loại một cách quy ước theo cách thức thể hiện các yêu cầu trong quy
chuẩn kỹ thuật như sau:
a) QCKT quy định các yêu cầu
kỹ thuật cụ thể (sau đây viết tắt là QCKT 1);
b) QCKT quy định các yêu cầu
kỹ thuật chung (sau đây viết tắt là QCKT 2);
c) QCKT quy định các yêu cầu
kỹ thuật thông qua việc viện dẫn tiêu chuẩn (sau đây viết tắt là QCKT 3).
Việc sử dụng các loại QCKT
nêu trên trong thực tế cần rất linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả tối ưu cho việc
quản lý các đối tượng, ví dụ trong trường hợp một đối tượng của QCKT có thể áp
dụng được cả loại QCKT 1 lẫn loại QCKT 2 thì ưu tiên áp dụng QCKT 1 liên quan đến
quy định các yêu cầu về an toàn (các yếu tố gây mất an toàn, rủi ro, các chỉ
tiêu cụ thể). Các phương thức đánh giá sự phù hợp cần được lựa chọn để phù hợp
với đối tượng cụ thể của QCKT.
3. Xác định đối tượng QCVN thuộc lĩnh vực quản
lý của Bộ Khoa học và Công nghệ
Căn cứ quy định có liên
quan tại Nghị định số 28/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008; Điều 23 Nghị
định số 127/2007/NĐ-CP ngày 1/8/2007 của Chính phủ và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP
ngày 31/12/2008 của Chính phủ; nhu cầu thực tế quản lý của Bộ Khoa học và Công
nghệ, các lĩnh vực quản lý chuyên ngành cần xây dựng và ban hành QCVN của Bộ được
xác định bao gồm:
-
Lĩnh vực đo lường chất lượng;
- Lĩnh vực an toàn bức xạ
và hạt nhân;
- Lĩnh vực các sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình và các lĩnh vực khác.
Đối tượng QCVN cụ thể
trong các lĩnh vực quản lý chuyên ngành nêu trên của Bộ Khoa học và Công nghệ
được xác định trên cơ sở các quan điểm tiếp cận quản lý và xác định đối tượng
QCVN như đã nêu ở trên như sau:
- Trong lĩnh vực đo lường
chất lượng
Trong điều kiện của Việt
Nam theo tinh thần của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, trong 5 loại quy
chuẩn kỹ thuật thì vấn đề chất lượng không xếp được vào trong loại nào do vấn đề
chất lượng thường được gắn liền với đối tượng sản phẩm cụ thể. Việc quản lý chất
lượng nói chung và quản lý chất lượng các sản phẩm thuộc các lĩnh vực quản lý
chuyên ngành cũng được các Bộ, ngành thực hiện trên cơ sở sự phân công của
Chính phủ trong các Nghị định về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức.
Như vậy việc xác định đối tượng QCVN trong lĩnh vực đo lường chất lượng thực chất
là chỉ thực hiện đối với hoạt động đo lường pháp định (hợp pháp).
Hiện nay, hoạt động quản
lý nhà nước trong lĩnh vực đo lường được thực hiện trên cơ sở Pháp lệnh Đo lường
năm 1999, hoạt động quản lý này đang được điều chỉnh cho phù hợp trong dự thảo Luật
đo lường dự kiến sẽ trình quốc hội thông qua vào Quí II năm 2011. Theo tinh thần
của các văn bản pháp luật hiện hành về đo lường, các đối tượng quản lý chính hiện
nay bao gồm: đơn vị đo; chuẩn đo lường; phương tiện đo, phép đo (trong giao nhận
thương mại, bảo đảm an toàn sức khoẻ, hoạt động công vụ nhà nước, và hoạt động
giám định, tư pháp) và hàng đóng gói sẵn. Để quản lý các đối tượng trên, theo
tinh thần của Pháp lệnh Đo lường, Chính phủ và Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây
dựng và ban hành đầy đủ các văn bản quản lý (bao gồm Nghị định, Thông tư hướng
dẫn, Quyết định...) có liên quan. Việc ban hành các văn bản dưới luật để quản
lý các đối tượng nêu trên tiếp tục được định hướng trong dự thảo Luật Đo lường.
Tuy nhiên, lĩnh vực đo lường
cũng là một trong lĩnh vực quản lý cần xây dựng QCVN theo quy định hiện hành của
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và Nghị định 127/2007/NĐ-CP. Trong số các
đối tưọng nêu trên, các phương tiện đo phục vụ cho giao nhận thương mại, đảm bảo
an toàn-sức khoẻ và phục vụ cho công vụ, giám định và tư pháp thuộc đối tượng
quan tâm của QCVN. Trên cơ sở quan điểm tiếp cận và các phân tích nêu trên,
kinh nghiệm xây dựng các QCKT của Cộng đồng Châu Âu và một số nước, các đối tượng
chính của QCVN trong lĩnh vực đo lường được xác định có thể bao gồm:
1) Đo lường đối với hàng
đóng gói sẵn;
2) Phương tiện đo dung
tích -lưu lượng, đo khí, đo điện, đo nhiệt, đo hoá lý sử dụng trong giao nhận
thương mại (ví dụ: Đồng hồ nước, đồng hồ đo khí đốt, thiết bị đo điện, thiết
bị đo nhiệt, cột đo xăng dầu, taximeter, cân không tự động....);
3) Phương tiện đo, phép đo
phục vụ cho đảm bảo an toàn và sức khoẻ;
4) Phương tiện đo, phép đo
phục vụ phục vụ cho hoạt động công vụ, giám định, tư pháp.
Tuy nhiên, việc xác định
loại văn bản quản lý đối với các đối tượng trên còn bị chi phối và phụ thuộc
vào quy định của Luật Đo lường hiện đang được dự thảo và dự kiến trình Quốc hội
ban hành.
- Trong lĩnh vực an toàn bức
xạ và hạt nhân
Trong thực tế, hoạt động
quản lý chuyên ngành an toàn bức xạ và hạt nhân, được điều chỉnh bởi Luật Năng
lượng nguyên tử (2007) và các văn bản dưới Luật đang được triển khai thực hiện.
Việc xác định đối tượng
QCVN cần hướng tới việc quản lý đồng bộ các vấn đề về an toàn bức xạ và hạt
nhân, trong đó đặc biệt lưu ý phục vụ cho triển khai chương trình xây dựng nhà
máy điện hạt nhân tại Việt Nam và việc tăng cường sử dụng các trang thiết bị
trong nhiều lĩnh vực có sử dụng năng lượng hạt nhân và các chất phóng xạ. Việc
xác định đối tượng QCVN cũng tính đến xu hướng cải thiện tình hình quản lý phù
hợp với bối cảnh kinh tế mới, quy định của pháp luật và cam kết hội nhập trên
cơ sở xem xét tổng thể vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn bức xạ và
hạt nhân, sao cho việc xác định đối tượng này góp phần quản lý mang tính hệ thống,
logic và khả thi tránh chồng chéo, bỏ sót đối tượng quản lý, nhưng không đi vào
quản lý quá chi tiết.
Theo quan điểm này, số lượng
QCVN nên cố gắng giới hạn ở mức ít nhất có thể, nhóm lại thành nhóm các đối tượng
có các đặc tính hoạt động kỹ thuật và quản lý gần nhau, đồng thời cần có lộ
trình cho việc xây dựng và ban hành các QCVN theo thứ tự ưu tiên tuỳ theo mức độ
cấp thiết, quan trọng của đối tượng, vấn đề quản lý. Nhìn chung, các yêu cầu
khi xác định đối tượng QCVN được thiết lập dựa trên các chuẩn cứ có cơ sở khoa
học về an toàn sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và khả năng tác động xấu đến môi trường
xung quanh. Các yêu cầu về giảm nguy cơ gây mất an toàn (rủi ro) đến mức độ chấp
nhận được đối với các đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật
cần được cụ thể hoá trong các QCVN.
Trên cơ sở quan điểm tiếp
cận và các phân tích nêu trên, các đối tượng chính của QCVN trong lĩnh vực an
toàn bức xạ và hạt nhân được xác định bao gồm:
- An toàn bức xạ;
- An toàn hạt nhân:
+ Khảo sát, đánh giá địa
điểm nhà máy điện hạt nhân;
+ Thiết kế nhà máy điện hạt
nhân;
+ Xây dựng, lắp đặt nhà
máy điện hạt nhân;
+ Vận hành nhà máy điện hạt
nhân.
- Trong lĩnh vực sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình và lĩnh vực khác
Trong thực tế, trước đây
hoạt động quản lý chất lượng trong lĩnh vực sản phẩm, hàng hoá cụ thể của Bộ
Khoa học và Công nghệ đã được Chính phủ phân công trong một số văn bản quản lý
như Quyết định số 50/2006/QĐ-TTg ngày 7/3/2006 của Thủ Tướng Chính phủ về việc
ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hoá phải kiểm tra về chất lượng... Tuy nhiên,
trong bối cảnh nhiều cơ chế quản lý đã thay đổi theo các quy định của pháp luật
hiện hành, nhất là sau khi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật
chất lượng sản phẩm, hàng hoá (2007) được ban hành, hoạt động quản lý chuyên
ngành trong hai lĩnh vực trên đã có những tiếp cận thay đổi theo sự phân công
phân cấp rõ ràng đối với các đối tượng sản phẩm cụ thể, trong đó vai rò của Bộ
Khoa học và Công nghệ mang tính điều phối chung và chỉ chịu trách nhiệm đối với
một số lĩnh vực sản phẩm cụ thể. Căn cứ thực tế quản lý trong thời gian qua,
theo quy định của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP
ngày 31/12/2008, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Danh mục các sản phẩm,
hàng hoá có khả năng gây mất an toàn (Danh mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2) kèm
theo Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/03/2009. Các sản phẩm, hàng hoá này,
theo quy định của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá là đối tượng phải xây dựng
và ban hành QCVN.
Trên cơ sở quan điểm tiếp
cận và các phân tích nêu trên, các đối tượng QCVN trong lĩnh vực các sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình và lĩnh vực khác được xác định bao gồm:
- Tương thích điện từ
(EMC) đối với các thiết bị điện, điện tử gia dụng và mục đích sử dụng tương tự;
- Các đối tượng sản
phẩm, hàng hoá khác theo sự phân công của Chính phủ, có thể gồm:
+ Các đối tượng sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình thuộc lĩnh vực quản lý mang tính liên ngành;
+ Các đối tượng sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình thuộc lĩnh vực mang tính đặc thù;
+ Các đối tượng sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình thuộc lĩnh vực mới nảy sinh, chưa phân công cho
các Bộ, ngành quản lý nhưng cần phải triển khai xây dựng QCVN kịp thời để thực
hiện việc quản lý nhà nước đối với các đối tượng này.
4. Xác định loại QCVN
Các loại QCVN được xác định
cho các đối tượng QCVN tương ứng thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ
Khoa học và Công nghệ được xác định nêu trên bao gồm như sau:
1)
Lĩnh vực đo lường
TT
|
Đối tượng QCKT
|
Loại QCKT
|
1.
|
Đo
lường đối với hàng đóng gói sẵn
|
QCVN
chung
|
2.
|
Phương
tiện đo dung tích-lưu lượng, đo khí, đo điện, đo nhiệt, đo hoá lý sử dụng
trong giao nhận thương mại (ví dụ Đồng hồ nước, đồng hồ đo khí đốt, thiết
bị đo điện, thiết bị đo nhiệt, cột đo xăng dầu, taximeter, cân không tự động....)
|
QCVN
chung
|
3.
|
Phương
tiện đo, phép đo phục vụ cho đảm bảo an toàn và sức khoẻ
|
QCVN
an toàn
|
4.
|
Phương
tiện đo, phép đo phục vụ phục vụ cho hoạt động công vụ, giám định, tư pháp..
|
QCVN
chung
|
2)
Lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân
TT
|
Đối tượng QCKT
|
Loại QCKT
|
1.
|
An
toàn bức xạ
|
QCVN
an toàn
|
2.
|
An
toàn hạt nhân
|
QCVN
an toàn
|
2.1
|
Khảo
sát, đánh giá địa điểm nhà máy điện hạt nhân
|
QCVN
an toàn
|
2.2
|
Thiết
kế nhà máy điện hạt nhân
|
QCVN
an toàn
|
2.3
|
Xây
dựng, lắp đặt nhà máy điện hạt nhân
|
QCVN
an toàn
|
2.4
|
Vận
hành nhà máy điện hạt nhân
|
QCVN
an toàn
|
3)
Trong lĩnh vực sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình và lĩnh vực khác
Đối tượng QCVN
|
Loại QCVN
|
1. Sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình
|
Tương
thích điện từ (EMC) đối với các thiết bị điện, điện tử gia dụng và mục đích sử
dụng tương tự
|
QCVN
an toàn
|
2. Sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình khác theo sự phân công của Chính phủ
|
Các đối
tượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình thuộc lĩnh vực quản lý mang tính
liên ngành
|
Quy
chuẩn kỹ thuật chung, QCVN an toàn
|
Các đối
tượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình thuộc lĩnh vực mang tính đặc thù
(Thép xây dựng, thép cán nguội, LPG....)
|
Quy
chuẩn kỹ thuật chung, QCVN an toàn
|
Các
đối tượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình thuộc lĩnh vực mới nảy sinh,
chưa phân công cho các Bộ ngành quản lý nhưng cần phải triển khai xây dựng
QCVN kịp thời để thực hiện việc quản lý nhà nước đối với các đối tượng này
|
Quy
chuẩn kỹ thuật chung, QCVN an toàn
|