BỘ NGOẠI GIAO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
18/2013/TB-LPQT
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 3 năm 2013
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế năm 2005, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Tuy-ni-di về tránh
đánh thuế hai lần và ngăn ngữa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh
vào thu nhập, ký tại Tunis ngày 13 tháng 4 năm 2010, có hiệu lực kề từ ngày 06
tháng 3 năm 2013.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản
sao Hiệp định theo quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên./.
|
TL. Bộ TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Nguyễn Thị Thanh Hà
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA TUY-NI-DI VỀ TRÁNH ĐÁNH THUÉ HAI LẦN
VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Tuy-ni-di
Mong muốn ký kết một Hiệp định về
tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngữa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế
đánh vào thu nhập đã thoà thuận dưới đây:
ĐIỀU 1. PHẠM
VI ÁP DỤNG
Hiệp định này áp dụng đối với các
đối tượng là đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI
THUẾ BAO GỒM TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với
các loại thuế đánh vào thu nhập do một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc
chính quyền địa phương của Nước ký kết đó đánh vào thu nhập, bất kể hình thức
áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng
thu nhập, hoặc những phần của thu nhập, bao gồm các loại thuế đối với thu nhập
từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng
số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp trả, cũng như các loại thuế đánh
trên phần giá trị tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp
dụng tại Hiệp định này là:
a) tại Tuy-ni-di:
(i) thuế thu nhập;
(ii) thuế công ty.
(sau đây gọi là “thuế Tuy-ni-di”);
b) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp.
(sau đây gọi là “thuế Việt Nam”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng
đối với bất kỳ các loại thuế đánh vào thu nhập nào có tính chất tương tự hoặc về
cơ bản giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để
bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau những thay đổi quan trọng trong các luật
thuế của hai nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH
NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định
này, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a) thuật ngữ “Tuy-ni-di” có nghĩa
là lãnh thổ và vùng biển mà tại đó Tuy-ni-di thực hiện chủ quyền của mình (lãnh
thổ lục địa, các đảo, nội thuỷ, lãnh hải và vùng trời) cũng như các vùng biển
khác mà Tuy-ni-di thực hiện quyền tài phán của mình phù hợp với pháp luật quốc
tế;
b) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa
là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật
ngữ này có nghĩa là lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải và vùng
trời phía trên đó, vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán phù hợp vói pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước
ký kết kia” có nghĩa là Tuy-ni- di hoặc Việt Nam, tuỳ ngữ cảnh đòi hỏi;
d) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm
cá nhân, công ty và bất kỳ tổ chức của nhiều đối tượng nào khác;
e) thuật ngữ “công ty” để chỉ bất
kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào đuợc coi là tổ chức công ty dưới
giác độ thuế;
f) thuật ngữ “doanh nghiệp của Nước
ký kết” và “doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một doanh
nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một doanh
nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của Nưóc ký kết kia:
g) thuật ngữ “đối tượng mang quốc
tịch” có nghĩa là:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch
của một Nước ký kết;
(ii) bất kỳ pháp nhân, công ty hợp
danh hoặc hiệp hội nào có tư cách theo các luật có hiệu lực tại một Nước ký kết;
h) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có
nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thuỷ hoặc máy bay được thực hiện bởi
một doanh nghiệp có trụ sở điều hành thực tế (ví dụ: trụ sở chính) tại một Nước
ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thuỷ hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những
địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm
quyền” có nghĩa là:
(i) trong trường hợp của
Tuy-ni-di: Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được uỷ quyền của Bộ trưởng;
and
(ii) trong trường hợp của Việt
Nam: Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được uỷ quyền của Bộ trưởng.
2. Khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp
định này, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại Hiệp định này sẽ có
nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó liên quan đến các loại thuế mà
Hiệp định này áp dụng, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG
CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định
này, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng
nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi
cư trú, trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký, hoặc bất cứ các tiêu chuẩn khác có
tính chất tương tự. Đương nhiên, thuật ngữ này bao gồm các công ty hợp danh và
các nhóm đối tượng khác có trụ sở chính tại Nước đó và mỗi thành viên tự chịu
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế đối với phần lợi nhuận của mình khi thi
hành nội luật của Nước đó.
Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao
gồm bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập
từ các nguồn tại Nước đó hoặc tài sản nằm tại đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân
phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a) cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân
đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú chỉ của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn
(trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
b) nếu không thể xác định được Nước
mà ở đó cá nhân đó có trung tâm của các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó
không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó thường sống;
c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống
ở cả hai Nước hoặc không thường xuyên sống ở Nước nào, thì cá nhân đó sẽ được
coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d) nếu cá nhân đó là đối tượng
mang quốc tịch hoặc không mang quốc tịch của cả hai Nước thì các nhà chức trách
có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề bằng thoả thuận song
phương.
3. Trường hợp do những quy định tại
khoản 1, khi một đối tượng không phải là cá nhân là một đối tượng cư trú của cả
hai Nước ký kết, khi đó đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của
Nước nơi có trụ sở điều hành thực tế (ví dụ: trụ sở chính) của đối tượng đó.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ
THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định
này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định
mà qua đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của
mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ
yếu bao gồm:
a) trụ sở điều hành;
b) chi nhánh;
c) văn phòng;
d) nhà máy;
e) xưởng:
f) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá
hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác;
g) kho hàng; và
h) cấu trúc lắp đặt, hoặc thiết bị
được sử dụng cho việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú”
cũng bao gồm:
a) một địa điểm xây dựng, công
trình xây dựng, hoặc dự án lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát
liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm, dự án hoặc các hoạt động này kéo dài trong một
giai đoạn hơn sáu tháng;
b) việc cung cấp các dịch vụ, bao
gồm cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp thực hiện thông qua những người làm
công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt động
trên, nhưng chỉ khi các hoạt động mang tính chất nêu trên kéo dài (trong cùng một
dự án hoặc một dự án có liên quan) tại một nước trong một giai đoạn hoặc nhiều
giai đoạn gộp lại hơn 6 tháng trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng.
4. Mặc dù có các quy định trên của
Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a) việc sử dụng các phương tiện chỉ
với mục đích lưu kho hoặc trưng bày hàng hoá của doanh nghiệp;
b) việc duy trì kho hàng hoá của
doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho, hoặc trưng bày;
c) việc duy trì kho hàng hoá của
doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
d) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích mua hàng hoá hoặc để thu thập thông tin cho
doanh nghiệp;
e) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất
chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp;
f) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ để phục vụ cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động đã được
nêu từ điểm a) đến điểm e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của địa điểm kinh
doanh cố định bắt nguồn từ sự kết hợp này có tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại
các khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được
điều chỉnh bởi khoản 7 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh
nghiệp của Nước ký kết kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú
tại Nước ký kết thứ nhất nếu đối tượng đó:
a) có và thường xuyên thực hiện tại
Nước ký kết thứ nhất thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ
khi các hoạt động của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu
tại khoản 4 mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm
kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở
thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại khoản đó; hoặc
b) không có thẩm quyền trên, nhưng
thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hoá, qua đó đối tượng này
thường xuyên thực hiện giao hàng hoá thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Mặc dù có các quy định trên của
Điều này, một doanh nghiệp bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp tái bảo
hiểm, sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức đó thu
phí bảo hiểm trên lãnh thổ của Nước kia hoặc bảo hiểm các rủi ro tại Nước ký kết
kia thông qua một đối tượng không phải là một đại lý có tư cách độc lập được điều
chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp sẽ không được
coi là có một cơ sở thường trú tại một Nước ký kết chỉ vì doanh nghiệp đó chỉ
thực hiện hoạt động kinh doanh tại Nước đó thông qua một đại lý môi giới, một đại
lý hoa hồng, hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện
các đối tượng này hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy
nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ thay mặt
cho doanh nghiệp đó, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập
theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
ký kết kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác), sẽ
không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6. THU NHẬP
TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp) có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có
nghĩa theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong
mọi trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn
gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi được
áp dụng theo như các quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động
sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả
cho việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài
nguyên thiên nhiên khác; các tàu thuỷ, thuyền và máy bay sẽ không được coi là bất
động sản.
3. Các quy định tại khoản 1 sẽ áp
dụng đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê, hoặc sử dụng
dưới bất kỳ hình thức nào khác của bất động sản.
4. Các quy định tại các khoản 1 và
3 cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối
với thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các dịch vụ cá nhân độc
lập.
ĐIỀU 7. LỢI
NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp
của một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp
có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú tại Nước ký kết kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách
trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nuớc kia
nhưng chỉ trên phần lợi nhuận phân bổ cho:
a) cơ sở thường trú đó;
b) việc bán tại Nước kia những
hàng hoá cùng loại hoặc tương tự như những hàng hoá bán qua cơ sờ thường trú
đó: hoặc
c) các hoạt động kinh doanh khác
được thực hiện tại Nước kia cùng loại hoặc tương tự với những hoạt động được thực
hiện thông qua cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản
3, khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia, thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia, thì tại mỗi
Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú nói
trên mà cơ sở thường trú đó có thể thu được nếu nó là một doanh nghiệp riêng và
tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng các
điều kiện như nhau hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp
mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của
một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát
sinh phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi
phí điều hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi
cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiện, sẽ không cho
phép tính vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở
thường trú trả cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở
chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới
hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự
nào khác để đuợc phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức
tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công
việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay,
trừ trường hợp tiền lãi của tổ chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi
nhuận của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền
thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của
doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp, dưới hình thức tiền
bản quyền, các khoản phí hoặc các khoản thanh toán tương tự để cho phép sử dụng
sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực
hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức
lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào
của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ chức ngân hàng.
4. Không có quy định nào tại Điều
này sẽ ảnh hường đến việc áp dụng bất kỳ luật nào của một Nước ký kết liên quan
đến việc xác định nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng trong các trường hợp nhà
chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết đó không có đầy đủ thông tin để xác định
các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú, với điều kiện trong
chừng mực những thông tin mà nhà chức trách có thẩm quyền có được cho phép, luật
đó sẽ được áp dụng phù hợp với các nguyên tắc của Điều này.
5. Trường hợp tại một Nước ký kết
vẫn thường xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú
trên cơ sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần
khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi
nhuận chịu thuế theo cách phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp
phân chia được áp dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc
nêu tại Điều này.
6. Theo nội dung các khoản trên,
các khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo
cùng một phương pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định
theo phương pháp khác.
7. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản
thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này thì các quy định
của các Điều đó không bị ảnh hưởng bởi các quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI
BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận thu được từ hoạt động
của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký
kết nơi có trụ sở điều hành thực tế (ví dụ: trụ sở chính) của doanh nghiệp.
2. Các quy định tại khoản 1 cũng sẽ
áp dụng cho các khoản lợi nhuận từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh
hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
ĐIỀU 9. CÁC
DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
Khi
a) một doanh nghiệp của một Nước
ký kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp
vốn vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b) các đối tượng cùng tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh
nghiệp của một Nước ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, và
trong cả hai trường hợp, trong mối quan hệ thương mại hoặc tài chính giữa hai
doanh nghiệp trên có những điều kiện được xác lập hoặc áp đặt khác với điều kiện
được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một
doanh nghiệp có thể thu được nếu không có các điều kiện trên, nhưng nay vì những
điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản
lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
ĐIỀU 10. TIỀN
LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, các khoản tiền lãi cổ
phần đó cũng có thể bi đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần
là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối
tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá
10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới
việc đánh thuế công ty đối với lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được
sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần hoặc các quyền khác,
không phải các khoản nợ, được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi
công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ
phần theo các luật của Nước nơi công ty thực hiện phân chia là đối tượng cư
trú.
4. Những quy định tại các khoản 1
và 2 sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi
cổ phần là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh
tại Nước ký kết kia nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú thông
qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước ký kết đó, hoặc tiến hành tại Nước kia
các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước
kia, và việc nắm giữ mà theo đó các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên
hệ thực tế đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp
như vậy, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp
dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết nhận được lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký
kết kia, thì Nước kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần
do công ty này trả, trừ trường hợp các khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho
một đối tượng cư trú của Nước kia hoặc việc nắm giữ mà theo đó các khoản tiền
lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hoặc một cơ
sở cố định tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi nhuận
không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi nhuận không
chia của công ty, cho dù các khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi
nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập
phát sinh tại Nước kia.
ĐIỀU 11. LÃI
TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại
một Nưức ký kết và được trả cho một đối tuợng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này
cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật pháp của
Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi
này thì mức thuế khi đó được tính sẽ không quá 10 phần trăm tổng số khoản lãi từ
tiền cho vay.
3. Mặc dù đã có các quy định tại
khoản 2, lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết do Chính phủ của Nước
ký kết kia hoặc ngân hàng trung ương của Nước ký kết kia nhận được, sẽ được miễn
thuế tại Nước ký kết thứ nhất.
4. Theo nội dung của khoản 3, thuật
ngữ “ngân hàng trung ương” có nghĩa là:
a) trong trường hợp của Việt Nam:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
b) trong trường hợp của Tuy-ni-di:
Ngân hàng Trung ương Tuy-ni-di.
5. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay”
được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất
kỳ hình thức nào, có hoặc không được dám bảo bằng thế chấp và có hoặc không có
quyền dược hưởng lợi nhuận của người đi vay và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng
khoán của Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu công ty, bao gồm
cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái
phiếu công ty đó. Các khoản phạt trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho
vay theo quy định của Điều này.
6. Các quy định tại khoản 1 và 2 sẽ
không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng
cư trú tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại
Nước ký kết kia, hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia và khoản nợ có các khoản tiền
lãi được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định
đó hoặc với (b) các hoạt động kinh doanh nêu tại điểm (c) khoản 1 Điều 7. Trong
trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
7. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi
là phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả là Nước đó, chính quyền cơ sở,
chính quyền địa phương, hoặc là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối
tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định
liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền lãi đó
do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là
phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
8. Trường hợp đó mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả lãi và đối tượng thực hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng
trên và các đối tượng khác, khoản lãi từ tiền cho vay được trả cho khoản nợ có
liên quan, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả lãi và đối tượng
thực hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định tại Điều này
sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc
biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật
của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 12. TIỀN
BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản tiền bản
quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh tiền bản quyền,
và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng
tiền bản quyền là một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được
tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được
sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào
được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả nào của
một tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể cả phim điện ảnh, hoặc các
loại phim hoặc băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, bất kỳ sáng chế, nhãn
hiệu hàng hoá, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hoặc
trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại, cảng,
nông nghiệp hoặc khoa học hoặc trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm
công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại các khoản 1
và 2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại
Nước ký kết kia, hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập thông qua một cơ sở cố định có tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản có các
khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc
với cơ sở cố định đó, hoặc (b) các hoạt động kinh doanh được nêu tại điểm (c)
khoản 1 Điểu 7. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy
từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền là Nước đó,
chính quyền cơ sở, hoặc chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của Nước
ký kết đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hoặc không là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc
một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền
bản quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản
quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở
cố định đó.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên
với các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền được trả cho việc sử dụng, quyền
hoặc thông tin, vì bất kỳ lý do gì, vuợt quá khoản tiền được thoả thuận giữa đối
tượng trả và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì
các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi
không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị
đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của
Hiệp định này.
ĐIỀU 13. THU
NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động
sản được định nghĩa tại Điều 6 có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi có bất động
sản đó.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động
sản là một phần của tài sản của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp của một
Nước ký kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú
đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp)
hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập từ việc chuyển nhượng
tàu thuỷ hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế hoặc động sản gắn liền với
việc hoạt động của các tàu thuỷ hoặc máy bay này sẽ chi bị đánh thuế tại Nước
ký kết nơi doanh nghiệp có trụ sở điều hành thực tế (ví dụ: trụ sở chính).
4. Thu nhập do một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết nhận được từ việc chuyển nhượng các cổ phần hoặc các
quyền lợi có thể so sánh được trong một công ty, có tài sản bao gồm toàn bộ hoặc
chủ yếu hoặc bất động sản nằm tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
5. Thu nhập thu được từ việc chuyển
nhượng các cổ phần không phải là các cô phần được đề cập tới tại khoản 4 trong
một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước
đó.
6. Thu nhập từ chuyển nhượng bất kỳ
tài sản nào khác với tài sản nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 sẽ chi bị đánh
thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 14. DỊCH
VỤ CÁ NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ các dịch vụ ngành nghề hoặc các hoạt động
khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ các trường hợp dưới
đây, khi đó các khoản thu nhập đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a) nếu đối tượng đó thường xuyên
có tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động này; trong
trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
b) nếu đối tượng đó có mặt tại Nước
ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại đến
hoặc vượt quá 183 ngày trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp đó,
chỉ phần thu nhập phát sinh từ các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại
Nước kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia; hoặc
c) nếu tiền thù lao trả cho các hoạt
động của đối tượng đó thực hiện tại Nước ký kết kia do một đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia trả hoặc do một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định tại Nước ký
kết kia chịu.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề”
bao gồm chủ yếu các hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng
dạy mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật
sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 15. DỊCH
VỤ CÁ NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo quy định tại các Điều
16, 18, 19, 20 và 21, các khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao
tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động
làm công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ khi lao động làm công của đối tượng
đó được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu lao động làm công được thực hiện như
vậy, số tiền công trả cho lao động làm công đó có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Mặc dù có các quy định tại khoản
1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động
làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a) người nhận tiền công hiện có mặt
tại Nước kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại
không quá 183 ngày trong năm tài chính có liên quan, và
b) chủ lao động hoặc đối tượng đại
diện chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước
kia, và
c) tiền công không phải phát sinh
tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, tiền công thu được từ lao động làm trên tàu thuỷ hoặc máy bay trong vận
tải quốc tế, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi doanh nghiệp có trụ sở điều
hành thực tế (ví dụ: trụ sở chính).
ĐIỀU 16. THÙ
LAO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và
các khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
nhận được với tư cách là thành viên của ban giám đốc của một công ty là đối tượng
cu trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 17. NGHỆ
SĨ VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại
các Điều 14 và 15, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được
với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ
phát thanh, truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên từ
những hoạt động cá nhân của người đó thực hiện tại Nước ký kết kia, có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến
các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng
không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một
đối tượng khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra
những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có
những quy định tại các Điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù đã có những quy định tại
các khoản 1 và 2, thu nhập do các nghệ sĩ hoặc vận động viên là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động trình diễn tại Nước ký kết
kia theo một chương trình trao đổi văn hoá giữa Chính phủ của hai Nước ký kết sẽ
được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 18. TIỀN
LƯƠNG HƯU
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều
19, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước đó.
ĐIỀU 19. PHỤC
VỤ CHÍNH PHỦ
1. a) Tiền thù lao, trừ tiền lương
hưu, do một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước ký kết đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước đó hoặc
chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
đó.
b) Tuy nhiên, khoản tiền thù lao
nêu trên sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực
hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của
Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư
trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện các công việc trên.
2. a) Bất kỳ khoản tiền lương hưu
nào do một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó hoặc do các quỹ của các tổ chức đó lập ra trả cho một cá nhân đối với
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa
phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, các khoản tiền lương
hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư
trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia.
3. Những quy định của các Điều 15,
16 và 18 sẽ áp dụng đối với khoản tiền thù lao và tiền lương hưu đối với các
công việc liên quan đến một hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký
kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
ĐIỀU 20. SINH
VIÊN VÀ THỰC TẬP SINH
1. Những khoản tiền mà một sinh
viên hoặc thực tập sinh nhận được để trang trải các khoản chi phí sinh hoạt, học
tập hoặc đào tạo mà người sinh viên, học viên hoặc thực tập sinh này ngay trước
khi đến một Nước ký kết đang và đã là một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia
và hiện diện tại Nước thứ nhất chỉ với mục đích học tập hoặc đào tạo, sẽ không
bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên
ngoài Nước đó.
2. Mặc dù đã có các quy định tại Điều
14 và 15, khoản tiền thù lao trả cho các hoạt động dịch vụ do một sinh viên hoặc
thực tập sinh thực hiện tại một Nước ký kết sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó,
với điều kiện là các hoạt động dịch vụ như vậy có liên quan tới việc học tập hoặc
đào tạo của đối tuợng đó.
ĐIỀU 21. GIÁO
VIÊN, GIÁO SƯ VÀ NHÀ NGHIÊN CỨU
1. Một cá nhân hiện tại là hoặc
ngay trước khi đến một Nước ký kết, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết và
hiện đang có mặt tại Nước ký kết thứ nhất với mục đích chủ yếu là giảng dạy,
thuyết trình hoặc tiến hành nghiên cứu tại một trường đại học, trường cao đẳng,
trường học hoặc cơ sở giáo dục hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học được Chính phủ của
Nước ký kết thứ nhất chấp nhận, sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất đối
với khoản tiền công từ việc giảng dạy, thuyết trình hoặc nghiên cứu đó trong một
giai đoạn hai năm kể từ ngày đầu tiên cá nhân đó đến Nước ký kết thứ nhất.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
thu nhập từ hoạt động nghiên cứu nếu việc nghiên cứu đó do một cá nhân thực hiện
vì lợi ích công cộng và trước tiên không vì lợi ích riêng của một hoặc nhiều đối
tượng tư nhân nào khác.
ĐIỀU 22. THU
NHẬP KHÁC
1. Các khoản thu nhập của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến
tại những Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ
không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại
khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng thực hưởng thu nhập là đối tượng cư trú của một
Nuớc ký kết, có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một
cơ sở thường trú nằm tại Nước kia hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hoặc tài
sản liên quan đến số thu nhập được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường
trú hoặc cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp đó những quy định tại Điều 7
hoặc Điều 14, tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại
các khoản 1 và 2, các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
chưa được đề cập đến tại các Điều trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước
ký kết kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 23. CÁC
BIỆN PHÁP XOÁ BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Khi một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết nhận được thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản
mà theo các quy định của Hiệp định này, có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết kia,
Nước ký kết thứ nhất sẽ cho phép khấu trừ vào số thuế tính trên thu nhập, lợi
nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản của đối tượng cư trú đó một khoản
tiền bằng số thuế đã nộp tại Nước kia. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ
không vượt quá số thuế phải nộp tại Nước thứ nhất đối với thu nhập, lợi nhuận
hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản đó được tính theo các luật và quy định về
thuế của Nước thứ nhất trước khi cho phép khấu trừ.
2. Trường hợp thu nhập, lợi nhuận
hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được được miễn thuế tại Nước đó theo bất kỳ quy định nào của Hiệp định
này, Nước này có thể xét đến phần thu nhập được miễn thuế khi tính số thuế đối
với thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản còn lại của đối
tượng cư trú đó.
3. Theo nội dung của khoản 1,
trong trường hợp tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và đối tượng đó kiểm
soát trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 10% quyền bỏ phiếu tại công ty trả tiền
lãi cổ phần, việc khấu trừ sẽ tính đến số thuế do công ty đó đã nộp đối với số
lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
4. Theo nội dung của khoản 1, trường
hợp số thuế được miễn hoặc giảm theo các biện pháp ưu đãi đặc biệt nhất định
quy định tại nội luật của một Nước ký kết được coi là đã nộp tại Nước ký kết
đó, thì số thuế đó sẽ được trừ vào thuế của Nước ký kết kia.
ĐIỀU 24.
KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của
một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ chế độ thuế nào
hoặc bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến chế độ thuế đó hoặc yêu cầu đó khác với
hoặc nặng hơn chế độ thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng
đối với các đối tượng mang quốc tịch của Nước kia trong cùng những hoàn cảnh
như nhau.
2. Chế độ thuế áp dụng đối với một
cơ sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết
kia sẽ không kém thuận lợi hơn tại Nước kia so với chế độ thuế áp dụng cho các
doanh nghiệp của Nước kia cùng tiến hành các hoạt động tương tự. Quy định này sẽ
không được giải thích là buộc một Nước ký kết phải dành cho đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ suất miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm thuế
nào vì lợi ích của thân phận dân sự hoặc trách nhiệm gia đình mà Nước ký kết đó
cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
3. Các doanh nghiệp của một Nước
ký kết có toàn bộ hoặc một phần tài sản do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải
chịu tại Nước thứ nhất bất kỳ chế độ thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế
đó khác với hoặc nặng hơn chế độ thuế và những yêu cầu liên quan hiện đang hoặc
có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
4. Không có quy định nào tại Điều
này sẽ được giải thích là buộc từng Nước ký kết cho phép các cá nhân không phải
là đối tượng cư trú của Nước đó hưởng bất kỳ khoản giảm trừ cá nhân, miễn và giảm
dưới giác độ thuế mà Nước đó cho các cá nhân cư trú tại Nước mình được hưởng.
5. Các quy định tại Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các loại thuế là đối tượng áp dụng Hiệp định này.
ĐIỀU 25. THỦ
TỤC THOẢ THUẬN SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của một hoặc cả
hai nhà chức trách có thẩm quyền của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ
làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng với những quy định của Hiệp định
này, mặc dù trong nội luật của các Nước đó đã quy định về chế độ xử lý khiếu nại,
đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết mà đối tượng đó là đối tượng cư trú. Trường hợp đó phải
được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn
đến chế độ thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ
cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó
không thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận
chung, nhằm mục đích tránh việc đánh thuế không phù hợp với quy định của Hiệp định
này. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn
thời gian trong nội luật của các Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cùng nhau cố gắng giải quyết mọi khó khăn hoặc vướng mắc nảy
sinh trong quá trình áp dụng Hiệp định này. Họ cũng có thể tham vấn với nhau để
xoá bỏ việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp không được quy định tại Hiệp
định này.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm mục đích đạt được một thỏa
thuận theo nội dung những khoản trên đây. Các nhà chức trách có thẩm quyền,
thông qua tham vấn, sẽ xây dựng các quy trình thủ tục, điều kiện, phương thức
và kỹ thuật song phương thích hợp để triển khai thủ tục thỏa thuận song phương
được nêu tại Điều này.
ĐIỀU 26. TRAO
ĐỔI THÔNG TIN
1. Các nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc thực
hiện những quy định của Hiệp định này hoặc nội luật của các Nước ký kết liên
quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng để sao cho việc đánh thuế theo
nội luật không trái với Hiệp định này cũng như để ngăn ngừa việc trốn thuế liên
quan đến các loại thuế đó. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được
giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo nội luật của Nước này và thông tin
đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng (bao gồm cả
tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán hoặc thu, cưỡng
chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này
áp dụng. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông
tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp
các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án, hoặc trongg các
quyết định của tòa án. Các nhà chức trách có thẩm quyền, thông qua việc trao đổi,
sẽ xây dựng những điều kiện, các phương thức và kỹ thuật phù hợp liên quan đến
các vấn đề mà việc trao đổi thông tin được thực hiện kể cả khi cần thiết, trao
đổi thông tin liên quan đến việc tránh thuế.
2. Không có trường hợp nào mà những
quy định tại khoản 1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a) thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó
hoặc của Nước ký kết kia;
b) cung cấp các thông tin không thể
tiết lộ được theo các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường
của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
c) cung cấp các thông tin có thể
làm tiết lộ bí mật về mua bán, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật
nghề nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc
tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
ĐIỀU 27. CÁC
THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO VÀ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN LÃNH SỰ
Không nội dung nào tại Hiệp định
này ảnh hường đến các ưu đãi về thuế của các thành viên cơ quan đại diện ngoại
giao hoặc cơ quan đại diện lãnh sự theo các nguyên tắc chung của luật pháp quốc
tế hoặc các quy định tại các hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 28. HIỆU
LỰC
1. Từng Nước ký kết ký sẽ thông
báo cho Nước kia bằng văn bản thông qua đường ngoại giao về việc hoàn thành các
thủ tục cần thiết theo luật pháp của nước mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định
này sẽ có hiệu lực vào ngày thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực
thi hành:
i) đối với các khoản thuế khấu trừ
tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc
sau ngày 01 tháng 01 sau năm dương lịch Hiệp định này có hiệu lực, và trong các
năm dương lịch tiếp theo;
ii) đối với các khoản thuế khác,
liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản phát
sinh trong năm dương lịch sau năm dương lịch Hiệp định này có Hiệu lực, và
trong các năm dương lịch tiếp theo.
ĐIỀU 29. CHẤM DỨT HIỆU LỰC
Hiệp định này sẽ còn hiệu lực cho
đến khi một Nước ký kết chấm dứt hiệu lực. Mỗi Nước ký kết thông qua đường ngoại
giao có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia văn bản
thông báo chấm dứt hiệu lực Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ
năm dương lịch nào bắt đầu từ sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu
lực. Trong trường hợp này, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
i) đối với các khoản thuế khấu trừ
tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc
sau ngày 01 tháng 01 sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc hiệu lực, và
trong các năm dương lịch tiếp theo.
ii) đối với các khoản thuế khác,
liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản phát
sinh trong năm dương lịch sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc hiệu lực,
và trong các năm dương lịch tiếp theo.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp thức của Chính phủ
nước mình, đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định làm tại Tunis ngày 13 tháng 4 năm 2010, thành hai bản bằng tiếng Việt, tiếng
A-rập và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có sự
giải thích khác nhau giữa các văn bản, văn bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Phạm Sỹ Danh
THỨ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
|
THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ TUY-NI-DI
Moncef Bounden
QUỐC VỤ KHANH BỘ TÀI CHÍNH ĐẶC TRÁCH VỀ THUẾ
|