BỘ
LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
----------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------------
|
Số:
88/BC-LĐTBXH
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 09 năm 2010
|
BÁO CÁO TỔNG KẾT
TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG VÌ SỰ TIẾN BỘ PHỤ NỮ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006
– 2010 VÀ MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
Phần thứ nhất.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VÌ SỰ TIẾN BỘ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM ĐẾN 2010
A. BỐI CẢNH THỰC
HIỆN CÔNG TÁC VÌ SỰ TIẾN BỘ PHỤ NỮ
1. Quy định của
pháp luật
Trong 10 năm qua, hệ thống chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện trên
cơ sở cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu của Đảng về bình đẳng giới và luật hóa
các quy định liên quan trong Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam là
thành viên. Đặc biệt trong 5 năm gần đây, Việt Nam đã cơ bản hoàn thiện khung
chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
Cuối năm 2006, Luật Bình đẳng giới
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007, đã
tạo bước ngoặt có tính đột phá trong sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây
là văn bản luật quy định tập trung nhất các nội dung về bình đẳng giới và bảo đảm
quyền của phụ nữ. Tiếp theo đó, 3 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật cũng đã được
Chính phủ ban hành.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật
mới soạn thảo hoặc sửa đổi, bổ sung đều phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng giới,
như: Luật Cán bộ, công chức, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Đồng thời, Chính phủ đã thực hiện lồng
ghép vấn đề bình đẳng giới vào chiến lược, kế hoạch, các chương trình chung của
quốc gia như Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010.
Riêng Ngành Lao động – Thương binh
và Xã hội, ngày 24 tháng 7 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội đã ban hành quyết định số: 951/QĐ-BLĐTBXH về việc phê duyệt Kế hoạch hành động
Vì sự tiến bộ phụ nữ ngành Lao động – Thương binh và Xã hội giai đoạn
2006-2010. Trong đó, đã xác định trách nhiệm triển khai các nội dung của Mục
tiêu 1 và phân công nhiệm vụ triển khai thực hiện cụ thể cho các đơn vị phụ thuộc
và trực thuộc Bộ.
Tiếp theo đó, là văn bản số: 2594/LĐTBXH-BVSTBPN,
ngày 01 tháng 8 năm 2008 về việc thực hiện KHHĐ VSTBPN của Bộ đến năm 2010, để
triển khai thực hiện Kế hoạch hành động. Vì sự tiến bộ phụ nữ ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội giai đoạn 2006-2010 đến toàn ngành. Đồng thời hàng năm,
đã xây dựng kế hoạch thực hiện, tổ chức kiểm tra đôn đốc và tổ chức sơ kết, tổng
kết tình hình thực hiện Kế hoạch hành động nêu trên.
2. Về tình hình
kinh tế - xã hội có tác động đến quá trình thực hiện Chiến lược và kế hoạch
hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ:
Trong 5 năm qua, nhất là 3 năm gần
đây, kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của
một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng
suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường
lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước
ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước
cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Nhưng nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực
và chủ động khắc phục khó khăn, sự sáng tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các
tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên chúng ta đã
ngăn chặn được suy giảm kinh tế, và từng bước nâng cao được tốc độ tăng trưởng.
Về cơ bản nước ta đã: (1) Ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế, hợp lý, bền vững; (2) Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm
phát cao trở lại; (3) Bảo đảm an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp văn hóa,
giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác. Trong đó, có sự đóng góp của Ngành
Lao động – Thương binh và Xã hội, trong việc bảo đảm an sinh xã hội, giảm thiểu
tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm; làm tốt chính sách người có công; giữ
vững được thành quả giảm nghèo và cứu trợ xã hội. Thông qua đó, đã từng bước thực
hiện nhiệm vụ lồng ghép vấn đề bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ trong các
nhiệm vụ chính trị của ngành một cách tích cực và hiệu quả.
3. Về nhận thức:
Bên cạnh những nỗ lực của các cấp
các ngành và toàn xã hội trong quá trình triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới,
qua đó đã phần nào làm thay đổi tích cực nhận thức về bình đẳng giới trong toàn
xã hội.
Tuy nhiên, định kiến giới còn tồn tại
khá phổ biến trong nhân dân và trong một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức. Tư
tưởng coi nam giới là “trụ cột” còn phụ nữ luôn gắn với vai trò nội trợ, chăm
sóc gia đình đã dẫn đến cách nhìn lệch lạc về vai trò của mỗi giới, dẫn đến thiếu
sự chia sẻ trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong công việc gia đình và tham
gia các hoạt động xã hội. Do đó khoảng cách giới còn khá lớn[1],
bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại khá sâu sắc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Tỷ lệ phụ
nữ tham gia hoạt động chính trị, lãnh đạo và quản lý còn thấp, không đồng đều ở
các lĩnh vực, chưa tương xứng với tiềm năng của phụ nữ trong xã hội. Chênh lệch
về thu nhập giữa lao động nam và nữ còn cao. Tình trạng bạo lực trên cơ sở giới
còn phổ biến ở nhiều lúc, nhiều nơi…
B. TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG VÌ SỰ TIẾN BỘ PHỤ NỮ GIAI ĐOẠN 2006-2010
I. TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN MỤC TIÊU 1 CỦA KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG VÌ SỰ TIẾN BỘ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
1. Thực hiện
các chỉ tiêu
Phát huy kết quả đã đạt được của 5
năm đầu thế kỷ 21, trong 5 năm qua Chính phủ đã có các giải pháp trong chỉ đạo điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước một
cách hiệu quả, đồng thời, các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố, cơ quan, doanh nghiệp
và nhân dân trong cả nước phấn đấu hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ, kế hoạch
về lao động, người có công và xã hội. Trong đó, có các nhiệm vụ, nội dung liên
quan hoặc tác động trực tiếp đến kết quả việc thực hiện mục tiêu 1 của Chiến lược
quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
đã phối hợp cùng các Bộ, ngành có liên quan và các địa phương thực hiện các biện
pháp lồng ghép tạo việc làm cho phụ nữ trong việc triển khai, thực hiện các dự
án, hoạt động trong Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Do đó, về cơ bản
các chỉ tiêu của mục tiêu 1 đã được triển khai thực hiện và đạt được những kết
quả khả quan. Đó là:
Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ
50% lao động nữ trong tổng số người được tạo việc làm mới.
Chỉ tiêu trên được cụ thể hóa tại Kế
hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ ngành là: Giải quyết việc làm cho khoảng
8 triệu người (trong đó có 6 triệu chỗ làm việc mới), phấn đấu đạt tỷ lệ 50%
lao động nữ trong tổng số người được tạo việc làm mới.
Năm năm qua, thông qua phát triển
kinh tế tạo việc làm, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nhà nước ta đã cơ bản hoàn
thành kế hoạch về tạo việc làm cho người lao động.
Trong đó, số lao động được tạo việc
làm mới hàng năm là:
|
Năm
2006
|
Năm
2007
|
Năm
2008
|
Năm
2009
|
Dự
kiến 2010
|
Cộng
5 năm
|
Tổng số người được giải quyết việc
làm:
|
1.630.005
|
1.680.000
|
1.617.000
|
1.510.028
|
1.605.000
|
8.024.033
|
Trong đó nữ:
|
766.000
|
794.640
|
764.690
|
723.300
|
783.240
|
3.836.970
|
Tỷ lệ nữ trên tổng số
|
47,0%
|
47,3%
|
47,6%
|
47,9%
|
48,8%
|
47,71%
|
Với dự kiến năm 2010 tạo việc làm
cho khoảng 1.605.000 lao động, nên tổng số lao động được tạo việc làm giai đoạn
2006-2010 là 8.042.033 lao động (đạt 100,25% kế hoạch đề ra). Trong đó, nữ là
3.836.000 (đạt tỷ lệ 47,71% trong tổng số người được tạo việc làm mới – chưa đạt
chỉ tiêu đề ra).
Riêng lĩnh vực Xuất khẩu lao động
và chuyên gia:
Năm
|
Tổng
số chung
|
Trong
đó nữ
|
Số
lượng (người)
|
%
so với kế hoạch năm
|
Số
lượng (người)
|
%
so với tổng số
|
2006
|
78.855
|
105,1%
|
27.023
|
34,27%
|
2007
|
85.020
|
106,3%
|
28.278
|
33,3%
|
2008
|
87.000
|
102,3%
|
30.624
|
35,2%
|
2009
|
73.028
|
81,1%
|
22.020
|
30,2%
|
Dự
tính 2010
|
80.000
|
94,1%
|
24.000
|
30,0%
|
Chỉ tiêu 2: Phấn đấu giảm tỷ lệ
thất nghiệp của lao động nữ ở khu vực thành thị xuống dưới 6%.
Với nhiều cố gắng của các cấp các
ngành và mọi tầng lớp dân cư, cho nên tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi ở khu vực thành thị trong các năm qua đã giảm rất đáng kể và đã đạt kế hoạch
đề ra:
Đơn
vị tính: %
|
Mục
tiêu đến 2010
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
Ước
2010
|
Tỷ lệ thất nghiệp LĐ khu vực
thành thị
|
<5
|
5,25
|
5,03
|
4,66
|
4,6
|
4,6
|
Trong đó: đối với LĐ nữ khu vực
thành thị
|
<6
|
5,70
|
5,27
|
5,15
|
4,9
|
4,9
|
Số việc làm đã được tạo ra cho người
lao động trong các năm qua được thực hiện chủ yếu qua phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và đưa lao động đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong đó chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
đóng vai trò quan trọng, thông qua các dự án vay vốn với lãi suất ưu đãi, và sự
tham gia thiết thực của các tổ chức hội đoàn thể như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Hội người mù Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân
Việt Nam … đã tích cực hỗ trợ tạo việc làm, tăng thêm cơ hội có việc làm cho
các đối tượng yếu thế trên thị trường lao động, đặc biệt là lao động nữ, lao động
là người tàn tật, lao động ở vùng sâu vùng xa, là người dân tộc thiểu số, …
Trên cơ sở các chính sách trên, nhiều
giải pháp cụ thể đã được thực hiện, góp phần tạo nhiều việc làm ổn định cho lao
động nữ, như:
+ Thực hiện các chương trình/ dự án
phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp nhẹ,
may mặc, da giày, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, nên đã thu
hút được một số lượng lớn lao động nữ vào làm việc;
+ Thực hiện các chính sách khuyến
khích và tạo điều kiện để lao động nữ tham gia đi làm việc ở nước ngoài.
+ Tạo môi trường để thu hút và bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của lao động nữ như ưu tiên bố trí nguồn ngân sách Nhà nước
tại các vùng khó khăn, khuyến khích và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp các
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ; hoàn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội
theo hướng sửa đổi, bổ sung chính sách thai sản, ốm đau, hưu trí nhằm bảo vệ tốt
hơn chức năng sinh sản và nuôi con của lao động nữ.
+ Thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia về giảm nghèo và Chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm, trong đó
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một trong những kênh quản lý một phần nguồn vốn
tín dụng ưu đãi nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, dạy nghề, khuyến nông, khuyến
lâm, phát triển nghề mới …góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo cho
phụ nữ.
Nhằm tăng cường số phụ nữ được vay
vốn tín dụng ưu đãi để tạo việc làm, Ngân hàng chính sách thực hiện cho vay
theo phương thức ủy thác cho các tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị - xã hội
theo hợp đồng ủy thác hoặc trực tiếp cho vay đến người vay, thông qua tổ tiết
kiệm và vay vốn, cơ chế này đã tạo điều kiện cho phụ nữ nghèo chưa có kiến thức
được vay vốn phát triển sản xuất và kinh doanh, trong đó, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phối hợp với
nhiều cơ quan, ban, ngành triển khai các hoạt động hỗ trợ lao động nâng cao kiến
thức để sử dụng có hiệu quả đồng vốn được vay, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đồng
thời phối hợp tổ chức các lớp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và có cán bộ
đến tận nơi để tập huấn trực tiếp cho lao động nữ nông dân.
Nhiều mô hình nhằm tạo việc làm,
nâng cao tay nghề cho chị em phụ nữ được triển khai như: mô hình các câu lạc bộ
chị em phụ nữ, mô hình tổ vay vốn, mô hình chị em yêu khoa học, mô hình phụ nữ
liên kết với doanh nghiệp, miễn giảm học phí cho học sinh nữ con hộ nghèo …
Tham gia sinh hoạt, chị em (lao động nữ) được vay vốn không phải thế chấp tài sản
và được phổ biến, áp dụng các thông tin về kỹ thuật, thông tin về giống cây trồng,
vật nuôi mới. Các hoạt động đưa kiến thức giới và lồng ghép giới vào trong các
lớp tập huấn, sinh hoạt của các hội, đoàn thể được triển khai hiệu quả.
Đến hết năm 2009, cơ cấu lao động
chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong tổng số lao động nữ, tỷ trọng lao động nữ
trong nông, lâm, ngư nghiệp giảm khá mạnh, còn 50%, tỷ lệ lao động nữ trong khu
vực nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp giảm trên 6% và tăng trên 3% ở khu vực công
nghiệp và xây dựng:
|
Tỷ
lệ nữ năm 2006
|
Tỷ
lệ nữ năm 2009
|
Tổng số
|
100,0
|
100
|
- Nông, Lâm, Ngư nghiệp
|
56,2
|
50,00
|
- Công nghiệp và Xây dựng
|
13,8
|
16,9
|
- Thương mại, Dịch vụ khác
|
30,0
|
33,1
|
Nguồn: Điều tra thực trạng việc
làm và thất nghiệp 1/7 năm 2006, 2009
Về vị thế công việc, tỷ lệ nữ trong
các chủ doanh nghiệp tư nhân tăng nhưng chủ yếu vẫn là chủ kinh tế hộ gia đình
(nhỏ và cực nhỏ).
Chỉ tiêu 3: Phấn đấu giảm 50% số
hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ
Trong năm năm qua, tình hình thời
tiết không thuận lợi, thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng, thiệt hại nặng nề về
người, tài sản, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, thu nhập và đời sống của nhân dân,
nhất là khu vực Miền Trung, Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên; đồng thời với những
khó khăn về kinh tế - xã hội nước ta các năm qua diễn ra trong bối cảnh tình
hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp; khủng hoảng
tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới
suy giảm; thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên
địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư…
Tuy vậy, 10 năm qua, thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, công tác bảo đảm an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống các chính
sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện trên các
lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm,
ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công
cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và
giáo dục. Cùng với nguồn lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức
thực hiện, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn,
góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong đó, công tác xóa đói, giảm
nghèo, được đặt vào trọng tâm, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội
để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ
đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và huy động nguồn lực của
toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên
thoát nghèo. Các chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng
bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch
vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước
sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất
sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông – lâm- ngư, phát triển ngành nghề; (3)
Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến
nay công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật: số hộ
nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoản 10% (năm 2010); chênh lệch mức sống
giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm 1999) xuống còn 2 lần (năm
2008). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên làm rõ rệt.
Tuy nhiên, số liệu riêng đối với
các hộ nghèo do phụ nữ là chủ hộ chưa có thống kê và báo cáo đầy đủ. Nhưng theo
báo cáo của một số Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (Ninh Bình, Hà Nam, Kon
Tum, …) thì tỷ lệ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ chiếm gần 50% trong tổng số tỷ
lệ hộ nghèo giảm trong từng năm.
Chỉ tiêu 4: Phấn đấu bảo đảm ít
nhất 80% số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ có nhu cầu và đủ điều kiện được vay vốn
từ Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo; đạt tỷ lệ 50% phụ nữ trong tổng
số người được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội.
Đây là chỉ tiêu chưa được đưa vào
triển khai theo dõi một cách hệ thống, nên đang gặp khó khăn trong báo cáo tổng
hợp.
Tuy nhiên đối với người nghèo, nếu
họ có nhu cầu và đủ điều kiện thì hầu như được đáp ứng việc cho vay. Đặc biệt đối
với các hội do phụ nữ làm chủ hộ khi hội đủ hai điều kiện trên thì được cho vay
qua kênh cho vay của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với việc thực hiện ủy thác từ
Ngân hàng Chính sách xã hội và các quỹ tín dụng vi mô khác. Vì vậy, có thể thấy
chỉ tiêu bảo đảm ít nhất 80% số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ có nhu cầu và
đủ điều kiện được vay vốn từ Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo về cơ
bản là đạt được. Điều này, được minh chứng qua báo cáo của một số Sở Lao động
– Thương binh và Xã hội như: Bình Thuận, Ninh Bình, Kon Tum. ..)
Mặt khác, trong tổng số các Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội có báo cáo thì chỉ có rất ít Sở có số liệu về tình
hình thực hiện chỉ tiêu này. Tuy nhiên, việc đánh giá các chỉ tiêu chưa thật thống
nhất và bám sát với chỉ tiêu đề ra.
Chỉ tiêu 5: Tăng tỷ lệ lao động
nữ được đào tạo lên 35%, trong đó đào tạo nghề là 21%.
Trong 5 năm qua, đã tuyển sinh mới
dạy nghề là 7.769.500 người, trong đó có khoảng 40% là nữ.
|
Tổng
số tuyển mới
|
Trong
đó nữ
|
%
nữ trong tổng số
|
Năm
2006
|
1.340.000
|
469.000
|
35%
|
Năm
2007
|
1.436.500
|
532.000
|
37%
|
Năm
2008
|
1.538.000
|
599.200
|
39%
|
Năm
2009
|
1.707.000
|
699.000
|
41%
|
Dự
tính 2010
|
1.748.000
|
751.600
|
43%
|
Tổng
5 năm
|
7.769.500
|
3.050.800
|
39,3%
|
Với những cố gắng trên, nên 5 năm
qua, trong số lao động có việc làm, số lao động đã qua đào tạo đã tăng đáng kể.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%;
Tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo đạt 35%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 22%.
So với thời điểm năm 2005, tỷ trọng
lao động đã qua đào tạo trong tổng số lao động có việc làm, đã tăng đáng kể.
Nên so chỉ tiêu đề ra thì chỉ tiêu về đào tạo nghề đã hoàn thành sớm kế hoạch.
10 năm qua, hoạt động dạy nghề nói
chung và dạy nghề cho lao động nữ nói riêng đã có những bước phát triển đáng kể:
- Hình thành hệ thống dạy nghề theo
3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) thay thế hệ thống dạy
nghề ngắn hạn và dài hạn trước đây; từng bước đáp ứng được nhu cầu đa dạng về
trình độ nhân lực kỹ thuật trực tiếp của thị trường lao động, trong đó có nguồn
nhân lực trình độ kỹ năng nghề cao;
- Mạng lưới cơ sở dạy nghề được
phát triển rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố, trên 600 huyện, quận, thị xã, các
khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề. Tính đến 30/6/2010, cả nước có 117
trường cao đẳng nghề, 294 trường trung cấp nghề, 864 trung tâm dạy nghề và trên
1.000 cơ sở dạy nghề khác tại doanh nghiệp và tại các cơ sở giáo dục khác. Phát
triển được trên 300 cơ sở dạy nghề tư thục và hàng ngàn doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ và các cơ sở giáo dục khác tham gia dạy nghề. Riêng
các cơ sở dạy nghề do Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đang quản lý là
44 cơ sở, trong đó: 1 trường Trung cấp nghề; 5 trung tâm dạy nghề khu vực và 38
Trung tâm dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc các tỉnh, thành Hội.
Đến nay, ở tất cả các địa phương đều
có cơ sở dạy nghề. Mạng lưới trung tâm dạy nghề cấp huyện từng bước đáp ứng được
nhu cầu học nghề của lao động nông thôn nhất là phụ nữ nông thôn, góp phần chuyển
dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo.
- Quy mô tuyển sinh học nghề tăng dần
từng năm. Trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ
đã dạy nghề cho 5.326.400 người trong đó khoảng 33% là nữ (dài hạn 881.700 người;
ngắn hạn 4.444.700 người) tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 6,5% (hệ dài hạn
tăng bình quân hàng năm 15%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 13,4% vào
năm 2000 lên 19,2% vào năm 2005. Theo báo cáo năm 2005, khóa học 2004-2005 tỷ lệ
học sinh nữ được tuyển sinh 19,62%; khóa học 2005-2006 là 22,38%. Trong 5 năm,
các cấp hội phụ nữ đã phối hợp dạy nghề cho trên 900.000 lượt người, trong đó
có hơn 93% là nữ. Nhờ có chương trình dạy nghề, giới thiệu việc làm, nhiều phụ
nữ đã có việc làm, thu nhập khá hơn, đời sống ổn định.
Quy mô tuyển sinh học nghề năm 2009
đạt 1,707 triệu học sinh, sinh viên, tăng gần 3,25 lần so với năm 1998 (từ
525,6 ngàn người năm 1998 lên 1.707 ngàn người năm 2009), trong đó: dạy nghề
trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề (dạy nghề dài hạn) tăng 3,79 lần (từ
75,6 ngàn lên 287 ngàn); dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng
(dạy nghề ngắn hạn) tăng 3,15 lần (từ 450 ngàn người lên 1.420 ngàn người),
nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2009 đạt trên 28% và dự kiến 2010 sẽ đạt
30%.
Theo báo cáo của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, năm 2009, Hội đã đào tạo hơn 70.000 lao động, trong đó dạy nghề
cho hơn 5,3 nghìn lao động nông thôn. Năm 2010, Hội tiếp tục kết hợp với các cấp
địa phương triển khai dạy nghề cho lao động nữ nông thôn, đặc biệt là lao động
vùng sâu vùng xa, vùng giải tỏa, đặc biệt khó khăn, dự kiến đạt chỉ tiêu dạy
nghề cho 6.300 người dân tộc thiểu số, đào tạo sơ cấp nghề cho 18.000 học viên.
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo đã từng
bước được điều chỉnh theo cơ cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;
đã mở thêm nhiều nghề đào tạo mới mà thị trường lao động có nhu cầu và các nghề
phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải quyết
việc làm cho người lao động. Đến nay đã ban hành danh mục 379 nghề đào tạo ở
trình độ cao đẳng, 440 nghề đào tạo ở trình độ trung cấp (Danh mục nghề đào tạo
năm 1992 có 226 nghề đào tạo dài hạn);
- Các điều kiện bảo đảm chất lượng
dạy nghề đã được cải thiện: Đội ngũ giáo viên dạy nghề tăng về số lượng, nâng
cao về chất lượng, trong đó số lượng giáo viên tại các trường nghề, trung tâm dạy
nghề năm 2009 khoảng 29.444 người (gấp 2,95 lần năm 1998). Nhiều chương trình dạy
nghề đã được đổi mới về nội dung cho phù hợp với kỹ thuật, công nghệ sản xuất
và đặc biệt chú trọng tới rèn luyện kỹ năng nghề cho người học. Đến hết năm
2009 đã xây dựng được 164 bộ chương trình khung trình độ trung cấp nghề, chương
trình khung trình độ cao đẳng nghề theo phương pháp tiên tiến của thế giới; hầu
hết các CSDN đã được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề.
Chất lượng và hiệu quả dạy nghề có bước chuyển biến tích cực; khoảng trên 70% học
sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số
nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 90%;
- Hoạt động kiểm định chất lượng dạy
nghề và đánh giá kỹ năng nghề bước đầu được triển khai: đến hết năm 2009 đã thí
điểm kiểm định chất lượng dạy nghề cho 35 trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề;
xây dựng được 85 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và thí điểm đánh giá kỹ
năng nghề cho lao động của 2 nghề thuộc nhóm nghề thủ công mỹ nghệ;
- Đa dạng hóa hình thức, phương thức
đào tạo nghề: dạy nghề chính quy, dạy nghề thường xuyên; dạy nghề tập trung, dạy
nghề lưu động, dạy nghề tại doanh nghiệp, làng nghề. Đã thí điểm triển khai đặt
hàng đào tạo nghề cho đối tượng chính sách, đối tượng bị thu hồi đất canh tác,
người dân tộc thiểu số;
- Đã ban hành các chính sách hỗ trợ
dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người
khuyết tật, lao động nông thôn; chính sách tín dụng cho học sinh, sinh viên,
trong đó có sự ưu tiên cho nữ trong điều kiện nam, nữ như nhau;
- Đầu tư cho dạy nghề ngày càng
tăng, trong đó, ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, năm 2009, đầu tư
cho dạy nghề chiếm khoảng 8% trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và
đào tạo. Dự án nâng cao năng lực dạy nghề thuộc chương trình mục tiêu quốc gia
về giáo dục và đào tạo đến năm 2010 và các dự án ODA về dạy nghề trong những
năm qua đã đầu tư tập trung vào nâng cấp trang thiết bị dạy nghề, phát triển
chương trình theo phương pháp tiên tiến, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên hạt nhân
và hình thành hệ thống kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá kỹ năng nghề
quốc gia và thí điểm một số mô hình trong dạy nghề tạo tiền đề phát triển dạy
nghề;
Tất cả những kết quả đạt được trong
lĩnh vực dạy nghề 10 năm qua đã tác động trực tiếp đến đối tượng phụ nữ. Mạng
lưới cơ sở dạy nghề tăng nhanh tạo cho phụ nữ có nhiều cơ hội hơn trong việc
tham gia học nghề. Xuất hiện nhiều mô hình dạy nghề như dạy nghề cho lao động
nông thôn, lao động bị mất đất do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, lao động cho
xuất khẩu, lao động trong khu chế xuất, khu công nghiệp, thanh niên dân tộc thiểu
số nội trú … Trong tất cả các mô hình nói trên tỷ lệ lao động nữ chiếm đa số nhất
là mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, lao động bị mất đất do chuyển đổi
mục đích sử dụng đất.
Tuy nhiên, điều đang quan tâm là tỷ
lệ lao động nữ qua đào tạo nói chung, nhất là các cấp và trình độ cao, vẫn còn
một khoảng cách khá xa so với chỉ tiêu đặt ra cũng như so với lao động nam.
2. Về tổ chức
thực hiện các giải pháp được phân công
a) Về hoàn thiện hệ thống luật
pháp, chính sách về lao động, việc làm nhằm bảo đảm bình đẳng giới:
Trong giai đoạn 5 năm qua, Bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội đã được Chính phủ đánh giá là một trong 5 Bộ xây dựng nhiều
và hoàn thành tốt công tác xây dựng văn bản. Đã nghiên cứu trình Quốc hội thông
qua 6 Luật; Trình Chủ tịch nước phê chuẩn 3 công ước của Tổ chức lao động quốc
tế; trình Chính phủ ban hành 50 Nghị định, 02 Nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ
ban hành 29 Quyết định, 3 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành và phối hợp
ban hành 170 Thông tư và Thông tư liên tịch, 78 Quyết định của Bộ trưởng hướng
dẫn thi hành các luật về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội.
Trong đó, đã bước đầu đảm bảo lồng
ghép nguyên tắc bình đẳng giới theo Luật Bình đẳng giới và Công ước CEDAW.
Đặc biệt, từ năm 2008, theo Nghị định
186/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ về quy định chức năng
nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý Nhà nước về
bình đẳng giới và tiếp theo đó là cơ quan thường trực cho Ủy ban quốc gia vì sự
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được giao cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
nên Bộ đã chủ trì tham mưu cho Chính phủ và tổ chức triển khai khá đồng bộ các
hoạt động về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong ngành và toàn quốc.
Việc chỉ đạo thực hiện lồng ghép giới
vào hoạt động chuyên môn của toàn ngành, đã được tổ chức thực hiện thông qua những
nội dung cụ thể như hướng dẫn lồng ghép giới trong xây dựng kế hoạch 5 năm
(2006 – 2010), trong hướng dẫn triển khai thực hiện kế hoạch hành động. Vì sự
tiến bộ phụ nữ của Ngành …
b) Về thực hiện chính sách đối với
lao động nữ:
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử
lý thích đáng các hành vi phân biệt đối xử, xúc phạm danh dự, vi phạm quyền lợi
cũng như các quy định an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ đã được lồng
ghép thực hiện trong các hoạt động thanh, kiểm tra của toàn ngành. Thông qua đó
đã kịp thời phát hiện, đề xuất, đôn đốc với các cơ quan có thẩm quyền trong việc
thực hiện các chính sách đối với lao động nữ.
Tuy nhiên, qua theo dõi cho thấy,
việc thực hiện quyền bình đẳng trong lao động việc làm đối với lao động nữ còn
tồn tại nhiều bất cập và thách thức. Đó là:
- Trong tuyển dụng, hầu như chỉ có
các doanh nghiệp ở khu vực dệt may, sản xuất giày, chế biến thủy sản là có
chính sách ưu tiên tuyển lao động nữ, nhưng lại có thu nhập khá thấp. Ở một số
lĩnh vực đặc thù như ở đoàn Tiếp viên của Tổng công ty hàng không Việt Nam có
70% trong tổng số lao động là nữ (trên 1.300), bên cạnh việc có chính sách ưu
đãi trong tuyển dụng lao động nữ còn áp dụng chính sách thai sản đối với lao động
nữ tới 16 tháng, trong đó bảo hiểm xã hội chi cho 5 tháng còn lại là từ kinh
phí của Tổng công ty.
- Việc áp dụng chế độ làm việc thêm
giờ khá phổ biến và thường là vượt hơn rất nhiều so với quy định hiện hành; chế
độ lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi có thai đến tháng thứ 7 được chuyển
sang làm công việc nhẹ nhàng hơn hoặc giảm bớt thời gian làm việc 1 giờ trong
ngày nhưng vẫn hưởng đủ lương, hầu hết các doanh nghiệp không thực hiện được;
chế độ lao động nữ nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi được nghỉ 1h/ngày mà vẫn hưởng
đủ lương vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc.
- Về phúc lợi xã hội: hầu hết các
doanh nghiệp không có nhà trẻ mẫu giáo, nhất là ở các khu công nghiệp, khu chế
xuất …
- Việc thực hiện chính sách đào tạo
nghề dự phòng hoặc chuẩn bị chuyển nghề cho lao động nữ là rất khó khăn. Nguyên
nhân chủ yếu là về kinh phí và thiếu cơ chế tổ chức, giám sát thực hiện.
Bên cạnh đó, phải thấy rằng, đạt được
kết quả trên là nhờ, có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan và
các địa phương trong việc thực hiện các biện pháp lồng ghép tạo việc làm cho phụ
nữ trong việc triển khai, thực hiện các dự án, hoạt động trong Chương trình mục
tiêu quốc gia về việc làm, cụ thể:
* Triển khai các dự án cho vay
giải quyết việc làm: Cho vay ưu đãi với lãi suất thấp đối với người thất
nghiệp, người thiếu việc làm, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, trang trại, làng nghề có khả năng tạo nhiều việc làm mới, đặc biệt đối
với thanh niên chưa có việc làm, trong đó có lao động nữ.
Đến nay Quỹ Quốc gia về việc làm đã
tích lũy được trên 3.781 tỷ đồng và được phân bổ cho 63 tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Ngoài ra, có 31 tỉnh,
thành phố đã thành lập Quỹ việc làm địa phương với số vốn trên 752 tỷ đồng, kết
hợp với nguồn vốn bổ sung hàng năm và vốn thu hồi, nâng tổng doanh số cho vay từ
năm 2006 đến 31/10/2009 đạt 5.766 tỷ đồng với 418 nghìn lượt khách hàng vay vốn,
thời gian cho vay bình quân một dự án là 35 tháng, 90% các dự án vay vốn tập
trung cho vay ở khu vực phi kết cấu, góp phần tạo việc làm cho 250 – 300 nghìn
lao động mỗi năm (chiếm khoảng 20% tổng số việc làm được tạo ra hàng năm), nguồn
vốn được sử dụng hiệu quả (tỷ lệ nợ quá hạn là 4,1%).
Bên cạnh việc ưu tiên cho các dự án
vay vốn giải quyết việc làm cho nhiều lao động nữ, Quỹ quốc gia về việc làm còn
dành riêng một kênh quản lý nguồn vốn khá lớn cho Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
để giải quyết việc làm cho các hội viên với tổng nguồn Quỹ là 57 tỷ đồng. Nhiều
mô hình nhằm tạo việc làm, nâng cao tay nghề cho chị em phụ nữ được triển khai
như: mô hình các câu lạc bộ chị em phụ nữ, mô hình tổ vay vốn, mô hình chị em
yêu khoa học, mô hình phụ nữ liên kết với doanh nghiệp, miễn giảm học phí cho học
sinh nữ con hộ nghèo …Tính chung từ năm 2006 đến 30/8/2009, Hội phụ nữ các cấp
đã triển khai 742 dự án với tổng số phát vay là 193,258 tỷ đồng tạo việc làm
cho trên 10.725 lượt lao động. Ngoài ra, các nguồn vốn vay phân bổ theo kênh địa
phương và các tổ chức, hội đoàn thể khác cũng giải quyết việc làm cho lượng lớn
chị em phụ nữ (số phụ nữ được vay vốn hàng năm chiếm khoảng 50% tổng số người
được vay vốn đối với nguồn quỹ này).
* Hỗ trợ đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài
Tính chung từ năm 2006 đến nay, cả
nước đưa được khoảng 360 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
theo hợp đồng. Riêng năm 2009, đưa 73.028 lao động đi làm việc ở nước ngoài,
trong đó lao động nữ là 22.020 chiếm 30% tổng số lao động được đưa đi làm việc ở
nước ngoài.
Thị trường nhận lao động Việt Nam
ngày càng mở rộng, từ chỗ chỉ có 15 nước tiếp nhận lao động Việt Nam vào năm
1995 với 10.050 người, đến nay lao động Việt Nam đã có mặt trên 40 nước và vùng
lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các loại, tập trung chủ yếu ở các nước,
vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia, khu vực Trung Đông;
trong đó lao động nữ chủ yếu làm nghề giúp việc gia đình ở thị thường Đài Loan,
Hàn Quốc … Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao (trên 50% lao động đi
làm việc ở nước ngoài được đào tạo nghề và trên 90% được giáo dục định hướng).
* Hỗ trợ phát triển thị trường
lao động
Giai đoạn 2006 – 2010, nguồn vốn của
Chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm đã bố trí 213 tỷ đồng để nâng cao
năng lực và hiện đại hóa 40 Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động
– Thương binh và Xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Trung tâm giới
thiệu việc làm. Hàng năm, các Trung tâm đã tư vấn, cung cấp thông tin thị trường
lao động cho hàng triệu lượt người có nhu cầu, giới thiệu việc làm, cung ứng
lao động và đào tạo nghề ngắn hạn gắn với tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động.
Giai đoạn 2006 – 2010, các Trung tâm dự kiến tư vấn, giới thiệu việc làm cho khoảng
4,8 triệu lượt người, trong đó 50% là lao động nữ.
Bên cạnh đó, Chương trình mục tiêu
Quốc gia về việc làm còn hỗ trợ các địa phương tổ chức hội chợ việc làm, sàn
giao dịch việc làm. Hiện nay, cả nước có khoảng 40 trung tâm giới thiệu việc
làm đã tổ chức sàn giao dịch việc làm, bình quân một phiên giao dịch thu hút từ
30 đến 100 doanh nghiệp, từ 1300 – 1500 người lao động tham gia. Số lao động
bình quân được tuyển thông qua sàn giao dịch từ 400 – 500, trong đó số được tuyển
trực tiếp qua sàn chiếm 70%, số được hẹn phỏng vấn tại doanh nghiệp sau phiên
giao dịch chiếm 30%. Số lao động được tư vấn việc làm, học nghề, pháp luật lao
động tại sàn từ 600 – 700; số lao động đăng ký học nghề tại sàn từ 400 – 500,
trong đó lao động nữ chiếm 49 – 50%.
* Xây dựng cơ chế, chính sách tạo
việc làm cho phụ nữ
Song song với việc triển khai các
chính sách hiện hành về tạo việc làm cho phụ nữ, Cục Việc làm còn tham mưu cho
Bộ, phối hợp với Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, xây dựng và trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho phụ nữ
giai đoạn 2010 – 2015” (Quyết định số 295/QĐ-TTg ngày 26/02/2010 của Thủ tướng
Chính phủ) với mục tiêu chung: tăng tỷ lệ lao động nữ được đào tạo nghề và nâng
cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của lao động nữ; tạo cơ hội để phụ nữ
có thể tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và nâng
cao vị thế cho phụ nữ; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các mục tiêu cụ thể:
- 70% trở lên lao động nữ được
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà
nước về dạy nghề và việc làm;
- Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số
chỉ tiêu tuyển sinh học nghề đạt 40%, trong đó tăng nhanh tỷ lệ lao động nữ được
đào tạo trung cấp nghề, cao đẳng nghề; tỷ lệ lao động nữ có việc làm sau khi học
nghề tối thiểu đạt 70%.
- Các cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc
làm thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cấp Hội phụ nữ thực hiện tư vấn
học nghề, giới thiệu việc làm và tạo việc làm cho khoảng 100.000 lao động.
Tuy nhiên trong lĩnh vực này, lao động
nữ vẫn chiếm tỷ trọng thấp và chủ yếu là chưa qua đào tạo, không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật, làm lao động phổ thông, ở những khu vực có thu nhập thấp …
Nhìn chung hai năm qua những thành
tựu đạt được trên lĩnh vực lao động, người có công và xã hội là rất to lớn,
toàn diện. Trong đó, các chỉ tiêu, chính sách đối với lao động nữ cũng như các
đối tượng là phụ nữ đã từng bước được cải thiện và thực hiện ngày càng có hiệu
quả thiết thực, thể hiện rõ nét quan điểm nhất quán của Đảng về tăng trưởng
kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, góp
phần tạo đồng thuận và ổn định xã hội, phát triển bền vững đất nước; đồng thời
thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về bình đẳng giới và công bằng xã hội
trên các lĩnh vực của ngành. Nhận thức về giới và bình đẳng giới đã có chuyển
biến rõ nét, trên nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong chính
sách của nhiều cấp nhiều ngành.
3. Xây dựng hệ
thống thông tin, thống kê về giới phục vụ cho công tác Lao động – Thương binh
và Xã hội
Công tác điều tra và cập nhật các dữ
liệu thống kê về các lĩnh vực công tác của ngành, ngày càng được ổn định. Trong
đó các chỉ số về giới đã được cập nhật thường xuyên hơn. Cụ thể:
- Điều tra lao động – việc làm hàng
năm với hệ thống các chỉ tiêu cơ bản đều có tách biệt giới tính.
- Hầu hết các báo cáo thống kê và tổng
kết đã từng bước hoàn thiện hơn về hệ thống số liệu có tách biệt giới tính.
4. Đánh giá chung
về những hạn chế tồn tại:
Cùng với những kết quả đã đạt được
nêu trên, việc thực hiện bình đẳng giới và công tác vì sự tiến bộ phụ nữ trên
lĩnh vực lao động, người có công và xã hội còn những khó khăn, hạn chế. Đó là:
(1) Việc triển khai hướng dẫn
các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, đến nay về cơ bản đã hoàn thành,
nhưng còn chậm và thiếu đồng bộ.
Một số văn bản hướng dẫn Luật ban
hành chậm so với hiệu lực thi hành của Luật và đối với các văn bản đã ban hành
thì việc hướng dẫn và tổ chức thực hiện chưa kịp thời. Nhất là việc rà soát sửa
đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo nguyên tắc lồng ghép
giới theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ vẫn chưa được nghiêm túc triển khai
thực hiện.
(2) Việc triển khai thực hiện Kế
hoạch hành động Vì sự tiến bộ phụ nữ của Ngành chưa thực sự được coi trọng.
Các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong kế hoạch
hành động vì sự tiến bộ phụ nữ hầu như chưa được triển khai, lồng ghép trong
các nhiệm vụ công tác của các đơn vị cũng như trong ngành; việc thực hiện cũng
như giám sát đánh giá các chỉ tiêu và giải pháp chưa được triển khai cụ thể và
thường xuyên.
(3) Nhận thức về bình đẳng giới
tuy đã có chuyển biến tích cực, nhưng còn chậm và quá trình xây dựng, thực thi
chính sách chưa đồng bộ.
(4) Việc chấp hành chế độ thông
tin, báo cáo về công tác vì sự tiến bộ phụ nữ chưa kịp thời, chưa nghiêm (không
đúng nội dung, tiến độ hoặc không báo cáo); chưa hình thành được hệ thống cơ sở
dữ liệu có lồng ghép giới trên các lĩnh vực của ngành.
(5) Trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn của lao động nữ vẫn giữ một khoảng cách khá thấp so với nam giới, vì
vậy cơ hội tiếp cận với những việc làm có chất lượng tốt còn nhiều hạn chế. Mặt
khác, bất bình đẳng giới trong đời sống xã hội cũng như trong hệ thống chính
sách và thực thi chính sách chưa được kịp thời cải thiện, đã tạo ra các rào cản
vô hình hướng tới bình đẳng đối với lao động nữ trên thị trường lao động hiện
nay.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu
kém trên, bên cạnh những nguyên nhân khách quan về nhận thức về giới còn nhiều
bất cập, mặt bằng văn hóa, cơ hội của phụ nữ còn thấp, v.v. thì nguyên nhân chủ
quan trước tiên phải kể đến là nhận thức và năng lực của bộ máy quản lý nhà nước
đối với công tác vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới còn bất cập, chưa kịp
thời đề xuất bổ sung chính sách, giải pháp theo nguyên tắc bình đẳng giới cho
phù hợp với thực tiễn; tuyên truyền, hướng dẫn phổ biến pháp luật, chính sách
còn yếu, chưa thường xuyên.
II. CÔNG TÁC
CÁN BỘ NỮ Ở CƠ QUAN BỘ VÀ TRONG TOÀN NGÀNH
1. Công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới
Để nâng cao nhận thức về giới và
bình đẳng giới cho cán bộ công chức trong Bộ và cũng là biện pháp có hiệu quả đối
với công tác vì sự tiến bộ phụ nữ trong toàn ngành nói chung và cơ quan Bộ nói
riêng, hàng năm, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ đã lồng ghép tổ chức tập huấn về vấn
đề này, với các nội dung khác cho các cán bộ làm công tác vì sự tiến bộ phụ nữ
của các Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp cơ sở, cán bộ làm công tác nữ công của các
đơn vị và cán bộ làm công tác hành chính – tổ chức của các Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội. Các lớp tập huấn này đã trang bị thêm cho các học viên các kiến
thức về:
- Nhận thức về giới và bình đẳng giới;
- Kỹ năng lồng ghép giới trong quá
trình hoạch định chính sách Lao động – Thương binh và Xã hội; lồng ghép giới
trong xây dựng kế hoạch năm và 5 năm;
- Tuyên truyền tập huấn về Luật
Bình đẳng giới và các văn bản hướng dẫn thi hành; Chương trình hành động của
Chính phủ giai đoạn đến 2020 về thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị …
Mặt khác, thông qua một dự án quốc
tế đã tổ chức các lớp tập huấn về giới và bình đẳng giới cũng như Công ước
CEDAW cho các cán bộ lãnh đạo và cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ thuộc của
các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương.
2. Công tác
kiểm tra, giám sát
Trong 5 năm qua, triển khai thực hiện
Kế hoạch hành động Vì sự tiến bộ phụ nữ đã có nhiều tiến bộ hơn so với trước, đặc
biệt trong công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện. Cụ thể là, đã tổ chức
kết hợp hoạt động kiểm tra việc thực hiện công tác vì sự tiến bộ phụ nữ với kiểm
tra thực hiện công tác tổ chức cán bộ, thực hiện quy chế dân chủ ở một số đơn vị
trực thuộc Bộ và lồng ghép kiểm tra công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ với các
công tác chuyên môn của ngành, như: việc thực hiện các quy định của Pháp luật
lao động, chính sách bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội, dạy nghề, xuất khẩu lao động,
phòng chống tệ nạn xã hội … Qua công tác kiểm tra, các đoàn đã thu nhận được
nhiều thông tin, giúp Ban có những chỉ đạo kịp thời trong công tác của Ban.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác Vì
sự tiến bộ phụ nữ, Ban đã có văn bản hướng dẫn thực hiện công tác này đối với
các Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp cơ sở, địa phương và cán bộ được phân công
theo dõi. Nội dung chính của công văn này, hướng dẫn cách thức lập kế hoạch và thực
hiện Kế hoạch hành động Vì sự tiến bộ phụ nữ lồng ghép với việc thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn của đơn vị; đồng thời thực hiện chế độ báo cáo thường kỳ về Ban
Vì sự tiến bộ phụ nữ của Bộ.
3. Các hoạt động
khác của công tác VSTBPN
- Tổ chức tổng kết công tác Vì sự
tiến bộ phụ nữ Bộ hàng năm.
- Tham gia các Hội nghị, hội thảo,
tập huấn của Chương trình chung giữa Chính phủ Việt Nam với các Tổ chức Liên hiệp
quốc; các hội thảo tập huấn về Chị em Nora…
- Hướng dẫn thực hiện kiểm tra và tổng
kết công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ trong toàn ngành.
- Triển khai hướng dẫn việc thực hiện
rà soát các văn bản pháp luật theo chỉ thị số 10/2007/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và Nghị quyết 57/NQ-CP …
- Góp ý và tham gia Ban soạn thảo
các dự thảo Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Bình Đẳng giới.
- Tổ chức tốt các lớp tập huấn công
tác Vì sự tiến bộ phụ nữ và triển khai Luật Bình đẳng giới cho các cán bộ và
lãnh đạo các đơn vị và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hàng năm.
- Tham gia Ban soạn thảo báo cáo
7-8 về tình hình thực hiện Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (CEDAW).
- Tham gia tích cực các hội nghị, hội
thảo của Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam và các hoạt động mạng lưới
cán bộ tham mưu về giới do UBQG VSTBPN tổ chức …
4. Kết quả thực
hiện công tác vì sự tiến bộ phụ nữ của Bộ
a) Một số đặc điểm của Bộ
Các lĩnh vực Bộ phụ trách mang tính
kinh tế, xã hội tổng hợp, gắn với sự đổi thay của đất nước trong từng thời kỳ,
với các lĩnh vực đa dạng: quản lý nhà nước, nghiên cứu khoa học, sự nghiệp,
giáo dục, y tế … ở nhiều địa phương. Do vậy, đội ngũ cán bộ nói chung và nữ nói
riêng cũng đa dạng, tương ứng với nhiều loại trình độ, chuyên môn, ngành nghề.
Mặt khác, trong giai đoạn 2 năm qua, công tác tổ chức của Bộ đã có nhiều thay đổi
về cơ cấu tổ chức và nhân sự; đặc biệt từ đầu năm 2008 đến nay, chức năng quản
lý nhà nước về bình đẳng giới đã được giao về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Cùng với sự lớn mạnh của đội ngũ
cán bộ nói chung của Bộ, đội ngũ cán bộ nữ của Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội trong hai năm qua đã được tăng cường thêm cả về số lượng và chất lượng,
ngày càng đáp ứng tốt hơn những nhiệm vụ to lớn mà Đảng và nhà nước giao phó.
b) Công tác quy hoạch, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ nữ
Hiện tại tỷ lệ cán bộ nữ của Bộ chiếm
khoảng 46,5% trên tổng số cán bộ, công chức và tham gia công tác ở tất cả các
đơn vị thuộc Bộ. Trong đó, khối các đơn vị quản lý nhà nước có 41,76% là nữ.
Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ nữ của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ngày càng được quan tâm và
là bộ phận quan trọng trong công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ của Bộ cũng như
của các đơn vị, cơ sở.
Trên cơ sở quy hoạch hàng năm, Bộ
đã triển khai các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học, … với thời gian và
hình thức đào tạo có tính đến yếu tố giới hạn một cách phù hợp. Nhìn chung,
trong công tác đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ công chức của ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội đã có truyền thống và nền nếp từ nhiều năm nay, trong đó ở
cơ quan Bộ, tỷ lệ nữ cán bộ công chức tham gia thường là đạt tỷ lệ phù hợp với
tỷ lệ chung trong tổng số, thậm chí về đào tạo trên đại học cao hơn nhiều so với
tổng số chung. Nhưng ở các địa phương cơ sở, tỷ lệ này nói chung còn thấp, thậm
chí ở một vài nơi tỷ lệ này còn là rất thấp.
Các đơn vị thường xuyên xây dựng bổ
sung danh sách quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý với phương châm xây dựng các
chỉ tiêu cụ thể, phấn đấu đạt tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý đến năm 2015 đạt
từ 20 – 25%, cụ thể:
Năm năm qua, Bộ đã triển khai nhiều
khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính
trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học, … ở trong và ngoài nước, với thời
gian và hình thức đào tạo có tính đến yếu tố giới một cách phù hợp, trong đó nữ
chiếm 34,16%.
c) Về công tác cán bộ và bổ nhiệm
cán bộ
Hàng năm Bộ đã tổ chức các kỳ thi
tuyển công chức theo các khối, qua đó đã tuyển dụng được một đội ngũ cán bộ trẻ
có trình độ vào làm việc và bổ sung cho lực lượng cán bộ trong Bộ. Trong đó, tỷ
trọng tỷ lệ nữ chiếm khá cao, thường xuyên trên 60% trong tổng số.
Riêng năm 2009, Bộ đã bổ nhiệm 105
cán bộ lãnh đạo quản lý, trong đó có 29 nữ - chiếm 27,62% trong tổng số. Trong
đó:
- Cấp vụ và tương đương: 41 có 10 nữ
(chiếm 24,39%)
- Trưởng, phó phòng và tương đương:
60 có 19 nữ (chiếm 31,67%)
Trong đó, ở khối quản lý nhà
nước, bổ nhiệm 53 người, có 17 nữ, chiếm trên 32%.
Do đó, đến hết năm 2009, đối với khối
các đơn thuộc Bộ, trong tổng số 642 công chức có 41,3% nữ. Với:
- Lãnh đạo Bộ có 1 nữ trong tổng số
6 người, chiếm gần 17%.
- Cấp vụ, có 19 nữ trong tổng số
131 người, chiếm trên 14,5%.
- Cấp phòng, có 84 nữ trong tổng số
265 người, chiếm 31,7%
d) Về chất lượng cán bộ
Tính đến nay, ở khối quản lý nhà nước
số cán bộ có trình độ tiến sỹ là 23, trong đó nữ chiếm 24,5% trong tổng số; số
cán bộ có trình độ thạc sỹ là 100, nữ chiếm 33%. Cán bộ có có trình độ từ đại học
trở lên chiếm 83,6% trong tổng số chung. Trong đó cán bộ nữ có trình độ này so
với tổng số nữ là trên 60%.
Về cơ cấu ngạch bậc công chức: tính
đến hết năm 2009:
- Chuyên viên chính và tương đương
có 169 trong đó nữ chiếm 18,11%
- Chuyên viên và tương đương là
1664 người, có 420 nữ bằng 34,23% trong tổng số
- Số còn lại là cán sự, công nhân
khác, chiếm gần 40% so với tổng số nữ.
e) Về tham gia lãnh đạo quản lý
Hiện tại tổng số cán bộ lãnh đạo quản
lý của Bộ là 537 người, trong đó nữ chiếm 23,9%.
Cơ cấu và tỷ lệ cán bộ nữ tham gia
lãnh đạo, quản lý đã tăng dần qua các năm, nhất là đội ngũ cán bộ trưởng, phó
phòng (so tổng số cán bộ lãnh đạo).
* Cán bộ nữ thuộc khối địa
phương:
Với 63 tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương, trong tổng số 252 chánh phó giám đốc sở có 37 nữ, chiếm 14,68%. Đặc
biệt, trong 63 giám đốc sở có 15 giám đốc sở là nữ, bằng 23,8% trong tổng số.
* Tham gia vào các cương vị lãnh
đạo Đảng, Đoàn thể: Cán bộ nữ ngày càng khẳng định vai trò của mình trong
các hoạt động đoàn thể:
- Tham gia cấp ủy Đảng các cấp
chiếm 30% tổng số.
- Tham gia chấp hành Công đoàn các
cấp chiếm 40% tổng số.
- Tham gia chấp hành Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh chiếm gần 50% tổng số.
f) Các hoạt động phối hợp
Thực hiện các hoạt động nhằm thúc đẩy
phong trào phụ nữ, dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự, Lãnh đạo Bộ, Đảng ủy cơ
quan Bộ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ của Bộ đã phối hợp chặt chẽ với Ban nữ công
Công đoàn Bộ tổ chức các hoạt động nhân dịp kỷ niệm ngày phụ nữ quốc tế 8/3 và
ngày truyền thống của phụ nữ Việt Nam hàng năm cho toàn thể nữ cán bộ, công chức
trong cơ quan Bộ. Đó là các cuộc thi tìm hiểu về công tác nữ công, về công tác
Vì sự tiến bộ phụ nữ, giao lưu trao đổi kinh nghiệm phấn đấu vươn lên, là hội
nghị biểu dương ghi nhận những đóng góp xứng đáng nữ cán bộ, công chức trong kết
quả chung của Bộ và Ngành. Đồng thời đã công nhận danh hiệu và khen thưởng cho
nữ cán bộ công chức đạt danh hiệu “Phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà” …
5. Tình hình
tổ chức bộ máy và hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ của Bộ
Năm năm qua, Ban Vì sự tiến bộ phụ
nữ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phát huy tốt kết quả của những năm
trước.
Ban đã thường xuyên kiện toàn và có
quy chế, phân công nhiệm vụ cụ thể, hoạt động nền nếp, hàng quý đều tổ chức họp
(hoặc hội ý) để đôn đốc triển khai các công tác đã được phân công.
Kinh phí hoạt động thường xuyên
dành cho hoạt động của Ban trung bình mỗi năm khoảng 50 triệu, chưa kể kinh phí
lồng ghép dành cho công tác tập huấn, đào tạo cũng các hoạt động phối kết hợp
khác.
C. ĐÁNH GIÁ
CHUNG
1. Mặt được
- Công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ của
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, được sự quan tâm, chỉ đạo, lãnh đạo sát
sao của Ban Cán sự Đảng, Đảng ủy và lãnh đạo Bộ. Đặc biệt đã sớm ban hành Kế hoạch
hành động Vì sự tiến bộ phụ nữ của ngành và hướng dẫn triển khai thực hiện
trong toàn ngành; ký kết và tổ chức cụ thể việc thực hiện chương trình phối hợp
giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và giữa Tổng cục Dạy nghề với Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam.
- Hầu hết các chỉ tiêu, nhiệm vụ đặt
ra trong Kế hoạch Vì sự tiến bộ phụ nữ gắn liền với nhiệm vụ chính trị của Bộ
đã được các đơn vị triển khai thực hiện.
- Nhiều đơn vị trong Bộ và các Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương đã thành lập Ban Vì sự tiến bộ phụ
nữ và hoạt động khá tích cực, hiệu quả.
- Có sự chuyển biến khá rõ nét về
nhận thức giới trong quá trình nghiên cứu, hoạch định và thực thi chính sách
trên các lĩnh vực của ngành.
- Công tác tuyên truyền, tập huấn
nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới đã được quan tâm và lồng ghép
trong nhiều hoạt động trong ngành.
2. Mặt chưa được
- Do tình hình kinh tế - xã hội các
năm qua có nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa phát triển và nguồn lực cho giải
quyết các vấn đề Lao động – Thương binh và Xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc
như việc làm, đào tạo nghề, xóa đói giảm nghèo, cai nghiện phục hồi v.v. còn hạn
hẹp, nên cũng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng công tác vì sự tiến bộ phụ nữ của
ngành.
- Nhận thức về bình đẳng giới với
phát triển kinh tế thị trường chưa đầy đủ, thể chế chính sách chưa hoàn thiện;
hoạch định chính sách chưa đồng bộ, chưa theo kịp với yêu cầu trong tình hình mới.
- Quản lý Nhà nước và cơ chế hoạt động
vì sự tiến bộ của phụ nữ còn nhiều bất cập; năng lực, trình độ cán bộ chưa đáp ứng
yêu cầu; chỉ đạo, tổ chức thực hiện có nơi, có lúc chưa đồng bộ, chưa sát sao.
- Mặc dù đã có nhiều cố gắng để
ngày càng hoàn thiện hệ thống số liệu về giới, những số liệu thống kê vẫn chưa
thật đầy đủ và hệ thống, nên rất khó khăn cho việc làm báo cáo, đánh giá; việc
đánh giá tình hình và vì vậy kết quả thực hiện vẫn chủ yếu là định tính.
3. Nguyên nhân
Một số nhiệm vụ đặt ra trong KHHĐ
Vì sự tiến bộ phụ nữ chưa thực hiện được, do:
- Thiếu sự quan tâm đầu tư chỉ đạo
và về thời gian để nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp đối với lao động
và đối tượng là nữ.
- Công tác thanh tra việc thực hiện
các chính sách lao động, thương binh và xã hội liên quan đến bình đẳng giới
cũng chưa thật nền nếp và việc xử lý các vi phạm cũng chưa được quan tâm đúng mức.
- Một số chỉ tiêu đã đạt được hoặc
về trước kế hoạch nhưng tính bền vững chưa cao và chưa đảm bảo chất lượng của
việc làm cũng như thu nhập của phụ nữ. Mặt khác có số chỉ tiêu chưa sát với thực
tế và yêu cầu của cuộc sống, như chỉ tiêu về giảm nghèo …
- Ở một vài nơi, nhận thức về công
tác này cũng còn chưa được đầy đủ, hoặc trong tổ chức thực hiện còn có nhận thức
chưa đầy đủ và cho đó là công việc của Ban nữ công công đoàn.
Phần thứ hai.
MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
CHO GIAI ĐOẠN TỚI
1. Bối cảnh thực
hiện nhiệm vụ
- Hành lang pháp lý về bình đẳng giới
và tiến bộ phụ nữ ngày càng được thừa nhận và triển khai thực hiện;
- Nhận thức của cả hệ thống chính
trị về bình đẳng giới ngày càng được tăng cường. Bình đẳng giới được nhận thức
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của công cuộc đổi mới.
- Hệ thống chính sách, tổ chức bộ
máy thực hiện bình đẳng giới ngày càng được hoàn thiện.
- Kinh nghiệm và kết quả thực hiện
chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ trong giai đoạn qua, đã đưa ra được
những bài học tốt. Đồng thời, các sáng kiến về thực hiện bình đẳng giới ngày
càng phong phú, được tổng kết, đúc rút và vận dụng trong thực tế.
2. Thách thức
và khó khăn
- Biến động về tăng trưởng kinh tế
cùng với những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế thế giới ít nhiều ảnh hưởng
đến công tác bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ ở các nước, trong đó có Việt
Nam.
- Khủng hoảng kinh tế và tài chính
toàn cầu, khủng hoảng lương thực và dầu lửa đã và đang làm trầm trọng thêm những
thách thức đối với phụ nữ.
- Biến đổi khí hậu, đại dịch HIV và
các dịch bệnh khác đã có những tác động tiêu cực tới cuộc sống của người dân
nói chung và tới phụ nữ, trẻ em gái nói riêng. Nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em, bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ngày càng diễn biến phức tạp….
Cũng sẽ tạo ra những thách thức
không nhỏ cho công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong giai đoạn
tới.
3. Nhiệm vụ và
giải pháp
3.1. Đối với
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội
Trong thời gian tới cần tập trung
vào thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
a) Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và trình ban hành các văn bản
pháp luật về Lao động – Thương binh và Xã hội; trong đó trọng tâm là lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Lao động và các
văn bản pháp luật khác.
b) Tổ chức, hướng dẫn triển khai việc
lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong thực hiện các Chiến lược và Chương trình mục
tiêu, Chương trình quốc gia thuộc ngành giai đoạn tới. Thông qua đó, đảm bảo thực
hiện có hiệu quả mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động và các lĩnh vực
có liên quan.
c) Tổ chức nghiên cứu, hình thành hệ
thống các tiêu chí giới và chỉ đạo thực hiện các hoạt động lồng ghép giới trong
kế hoạch công tác Lao động – Thương binh và Xã hội trong toàn ngành, đồng thời
chuẩn bị hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động này cho giai đoạn kế hoạch 5 năm tới.
d) Tham mưu cho Bộ để thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ được phân công tại Nghị quyết 57/NQ-CP ngày 1 tháng 12
năm 2009 của Chính phủ.
đ) Phối hợp và lồng ghép công tác
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ của phụ nữ trong lĩnh vực Lao động – Thương binh và Xã hội.
e) Xây dựng và chấn chỉnh chế độ
thông tin, báo cáo đối với các địa phương, cơ sở về công tác Vì sự tiến bộ phụ
nữ của ngành.
f) Tăng cường hợp tác và hội nhập
quốc tế trong công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ về lĩnh vực lao động thương binh và
xã hội.
g) Thường xuyên sơ kết rút kinh
nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện, tăng cường nghiên cứu khoa học phục vụ
công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ của ngành.
h) Tổ chức thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới, trong đó có công tác vì sự tiến bộ
phụ nữ.
3.2. Đối với
công tác cán bộ nữ Bộ
a) Nghiên cứu đề xuất với Bộ về quy
hoạch đào tạo cán bộ nữ theo yêu cầu chuẩn hóa cán bộ, có đủ năng lực, phẩm chất
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tiến tới quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý trong đó có các chỉ tiêu cụ thể về giới.
b) Nghiên cứu đề xuất và phối hợp với
Đảng ủy, Công đoàn Bộ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cơ quan Bộ các biện
pháp đảm bảo cơ cấu nữ tham gia cấp ủy các cấp, Ban chấp hành công đoàn và Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
c) Tổ chức tập huấn nội dung thực
hiện bình đẳng giới, các kỹ năng hoạt động và lồng ghép bình đẳng giới trong hoạch
định và thực thi chính sách cho toàn thể đội ngũ công chức, viên chức ngành, đặc
biệt là đội ngũ công chức trong các đơn vị quản lý hành chính nhà nước./.
Nơi nhận:
- UB QG VSTBPNVN;
- Lãnh đạo Bộ;
- Thành viên Ban VSTBPN Bộ;
- Lưu VP, Ban VSTBPN Bộ.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
TRƯỞNG BAN VÌ SỰ TIẾN BỘ PHỤ NỮ BỘ
Nguyễn Thanh Hòa
|
[1]
Khoảng cách giới ở nước ta hiện nay là 0,680 (theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế
thế giới tại Báo cáo khoảng cách giới năm 2009).