BỘ Y TẾ
CỤC QUẢN LÝ
KHÁM, CHỮA BỆNH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 847/KCB-QLCL
V/v
tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn phẫu thuật
|
Hà Nội,
ngày 28 tháng 07 năm 2016
|
Kính gửi:
|
- Giám đốc các Bệnh viện trực thuộc
Bộ Y tế;
- Giám
đốc Sở Y tế các Tỉnh/Thành phố trực thuộc Trung ương;
- Thủ
trưởng Y tế ngành.
|
Nhằm tăng cường, nâng cao chất lượng dịch
vụ khám chữa bệnh; bảo đảm an toàn người bệnh đặc biệt an toàn trong phẫu thuật,
thủ thuật; thực hiện ý kiến chỉ đạo
của Lãnh
đạo
Bộ Y tế, Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y tế đề nghị Giám đốc
các Bệnh viện khẩn trương thực hiện các công việc sau:
1. Nghiêm túc thực hiện các biện pháp
bảo đảm an toàn phẫu thuật theo quy định tại Điều 7, Thông tư số
19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện quản lý chất
lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện; và tham khảo hướng dẫn bảo đảm
an toàn phẫu thuật theo tài liệu đào tạo liên tục ban hành kèm theo Quyết định
số 56/BYT-K2ĐT ngày 16/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
2. Khẩn trương rà soát và triển khai
thực hiện các tiêu chí quy định về an toàn phẫu thuật được quy định trong Bộ
tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện, ban hành kèm theo Quyết định số
4858/QĐ-BYT ngày 3/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
- Tiêu chí C5.1 (năm 2015 chuyển thành
D2.2): Bảo đảm xác định chính xác người bệnh khi cung cấp dịch vụ;
- Tiêu chí D2.1: Xây dựng hệ thống báo
cáo, tổng hợp, phân tích sai sót và khắc phục;
- Tiêu chí D2.2: Thực hiện các biện
pháp phòng ngừa để giảm thiểu các sai sót, sự cố.
3. Đối với những bệnh viện chưa áp dụng
Bảng kiểm an toàn phẫu thuật theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới ban hành
năm 2009, đề nghị Giám đốc Bệnh viện khẩn trương chỉ đạo, nghiên cứu áp dụng Bảng
kiểm an toàn phẫu thuật (nội dung hướng dẫn được đăng tải trên Trang Thông tin
Điện tử của Cục Quản lý Khám chữa bệnh: kcb.vn, mục “chỉ đạo”).
Đề nghị Giám đốc các Bệnh viện nghiêm
túc và khẩn trương thực hiện các nội dung hướng dẫn trên. Trong quá trình thực
hiện, nếu có khó khăn vướng mắc, đề nghị báo cáo về Bộ y tế (Cục Quản lý Khám
chữa bệnh) để hướng dẫn triển khai thực hiện./.
Nơi nhận:
-
Như trên;
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến (để báo cáo);
- Cục QL YDHCT; Vụ BVSKBMTE; Thanh tra Bộ; Vụ TTTĐKT;
- Trang thông tin điện tử Bộ Y tế; Cục QLKCB;
- Lưu: VT, QLCL.
|
CỤC TRƯỞNG
Lương Ngọc Khuê
|
CẨM
NANG THỰC HÀNH - BẢNG KIỂM AN TOÀN PHẪU THUẬT
PHẪU
THUẬT AN TOÀN CỨU SỐNG NGƯỜI BỆNH
Dữ liệu ấn phẩm theo mục lục thư viện
của WHO
Cẩm nang thực hành Bảng kiểm an toàn
phẫu thuật WHO năm 2009 Phẫu thuật an toàn cứu sống người bệnh.
1. Quy trình phẫu thuật, tiêu chuẩn phẫu
thuật.
2. Nhiễm khuẩn vết thương do phẫu thuật
- ngăn ngừa và kiểm soát.
3. Chăm sóc người bệnh - tiêu chuẩn.
4. Quản lý an toàn.
5. Sai sót y khoa - ngăn ngừa và kiểm
soát.
6. Nhiễm khuẩn chéo - ngăn ngừa và kiểm
soát
7. Đảm bảo chất lượng, Chăm sóc sức khỏe
- tiêu chuẩn.
8. Khoa phẫu thuật - tổ chức và hành
chính.
9. Hướng dẫn.
I. An toàn người bệnh của WHO.
II. WHO.
ISBN 978 92 4 159859 0 (Phân loại NLM:
WO 178)
© Tổ chức Y tế thế giới năm 2009
Tác giả giữ bản quyền
Để có các ấn phẩm của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), các tổ chức có thể tiếp cận bộ phận Báo chí của WHO, tại địa chỉ: số
20 Avenue Appia, 1211 Geneva 27, Thụy Sĩ (tel: +41 22 791 2476; fax: +41 22 791
4857; email: [email protected]). Việc xin phép để tái bản, hoặc dịch thuật hoặc
bán lại một phần hoặc phân phối phi lợi nhuận tất cả nội dung trong các ấn phẩm
của WHO phải được thông báo tới bộ phận quản lý ấn phẩm theo cùng địa chỉ như
trên (fax: +41 22 791 4806; email: [email protected]).
Thứ tự và nội dung trình bày của các
tài liệu trong ấn phẩm này không đồng nghĩa với bất cứ một quan điểm nào về
phía (WHO) có liên quan tới tình trạng pháp lý của bất cứ quốc gia, vùng lãnh
thổ, thành phố hoặc địa giới nào hoặc có liên quan tới sự phân chia các đường
ranh giới giữa các quốc gia. Các đường ranh giới thể hiện trên bản đồ mang tính
chất tương đối, có thể còn có những điểm bất đồng về tính chính xác của các đường
biên giới này.
Việc nêu tên cụ thể một số công ty hoặc
doanh nghiệp sản xuất không đồng nghĩa với việc WHO hậu thuẫn hoặc khuyến khích
sử dụng sản phẩm của các doanh nghiệp này so với các sản phẩm tương tự khác
không được đề cập. Những sai sót và thiếu sót được loại trừ, tên của các sản phẩm
có bản quyền được phân biệt bằng việc viết hoa chữ cái đầu tiên trong tên của sản
phẩm đó.
Tổ chức Y tế Thế giới đã thực hiện tất
cả những biện pháp cần thiết để xác minh những thông tin có trong ấn phẩm này. Tuy
nhiên tài liệu đã ấn hành được phổ biến mà không có sự đảm bảo về bất cứ loại
thông tin nào, biểu hiện hoặc ngụ ý. Trách nhiệm diễn giải và sử dụng tài liệu
thuộc về người đọc. Tổ chức Y tế thế giới sẽ không chịu trách nhiệm trong bất cứ
trường hợp nào có nảy sinh những tổn hại do việc sử dụng tài liệu này gây ra
In tại Pháp
Tổ
chức biên dịch và
hiệu đính
|
TS. Lương Ngọc Khuê
|
Cục trưởng Cục Quản
lý Khám, chữa bệnh-Bộ Y tế
|
GS.TS Đỗ Kim Sơn
|
Chủ tịch Hội Ngoại
khoa Việt Nam
|
GS. Nguyễn Thụ
|
Chủ tịch Hội Gây mê
- Hồi sức Việt Nam
|
ThS. Phạm
Đức Mục
|
Phó Cục trưởng Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh-Bộ Y tế
|
TS. Nguyễn Đức
Chính
|
Bệnh viện Hữu nghị
Việt Đức
|
Trình
bày:
|
TS. Trần
Quang Huy
|
Cục Quản lý Khám,
chữa bệnh-Bộ Y tế
|
ThS. Ngô Đức Thọ
|
Hội Điều dưỡng Việt
Nam
|
MỤC
LỤC
Cẩm nang thực hành
Bảng kiểm an toàn phẫu thuật của WHO
năm 2009
Giới thiệu
Cách sử dụng cẩm nang này
Cách áp dụng Bảng kiểm (tóm tắt)
Cách áp dụng Bảng kiểm (chi tiết)
Tiền mê
Trước khi rạch da
Trước khi người bệnh rời phòng mổ
Lưu ý bổ sung - cải thiện
văn hóa an toàn
Điều chỉnh bảng kiểm
Đưa Bảng kiểm vào trong phòng mổ
Đánh giá chăm sóc phẫu thuật
GIỚI
THIỆU
Chương trình phẫu thuật an toàn cứu sống
người bệnh được WHO thiết lập là một phần nỗ lực của tổ chức này nhằm giảm số
ca tử vong do phẫu thuật trên toàn thế giới. Mục đích của chương trình là nhằm
kết nối giữa cam kết chính trị và y tế về thực hành an toàn trong gây mê, phòng
tránh nhiễm trùng phẫu thuật và thông tin liên lạc chưa tốt giữa các thành viên
nhóm phẫu thuật. Những điều này là phổ biến, nguy hại đến tính mạng người bệnh
và có thể ngăn ngừa được tại tất cả các nước và cơ sở y tế. Nhằm hỗ trợ các
nhóm phẫu thuật giảm số lượng những biến chứng này, Chương trình an toàn người
bệnh của WHO, được sự tham vấn của các nhà phẫu thuật, gây mê, điều dưỡng và chuyên
gia về an toàn người bệnh trên toàn thế giới đã đề ra những mục tiêu cơ bản của
an toàn phẫu thuật. Những kiến thức này được đưa vào trong Bảng kiểm an toàn phẫu
thuật của WHO. Mục đích của bảng kiểm này (có tại địa chỉ
www.who.int/safesurgery) nhằm tăng cường thực hành an toàn và thúc đẩy quá
trình trao đổi thông tin giữa các thành viên trong một nhóm phẫu thuật và trong
phạm vi các nguyên tắc về thực hành lâm sàng. Bảng kiểm dự kiến là một công cụ
để các nhà lâm sàng sử dụng với mục đích để cải thiện an toàn trong quá trình
phẫu thuật và giảm những ca tử vong không đáng có do phẫu thuật và các biến chứng
liên quan. Ứng dụng của bảng kiểm đã được chứng minh qua con số thống kê về sự
giảm các ca tử vong và biến chứng tại bệnh viện và các cơ sở y tế với sự cải
thiện mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe cơ bản.
Sử dụng cẩm nang này như thế nào?
Trong cẩm nang này cụm từ “nhóm phẫu thuật”
được hiểu là bao gồm bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê, điều dưỡng và kỹ thuật viên
và nhân viên khác của nhóm có liên quan tới phẫu thuật. Gần giống như một phi
công phải phụ thuộc vào nhân viên mặt đất, nhân viên điều hành bay và kiểm soát
không lưu vì an toàn của một chuyến bay, trong phẫu thuật, một bác sĩ phẫu thuật
là điều không thể thiếu song để chăm sóc cho người bệnh đòi hỏi phải có sự phối
hợp toàn nhóm. Tất cả mọi thành viên của nhóm phẫu thuật có vai trò riêng trong
việc đảm bảo sự an toàn và thành công của ca phẫu thuật.
Cuốn cẩm nang này hướng dẫn sử dụng bảng
kiểm và đưa ra những gợi ý đối với việc thực hiện và biện pháp đề xuất để đánh
giá dịch vụ phẫu thuật và kết quả. Những cơ sở thực hành khác nhau và có thể
cân nhắc áp dụng tùy theo hoàn cảnh của từng đơn vị. Mỗi khâu kiểm tra an toàn
đưa vào trong hàng kiểm đều dựa trên bằng chứng lâm sàng hoặc ý kiến chuyên gia
về khả năng bổ sung một nội dung nào đó sẽ làm giảm nguy cơ gây hại nghiêm trọng,
có thể tránh được khi phẫu thuật và việc tuân thủ sẽ không làm tăng nguy cơ bị
thương tích hoặc phát sinh những chi phí khó kiểm soát.
Bảng kiểm được thiết kế đơn giản và ngắn
gọn. Nhiều khâu thực hiện đã được chấp nhận như là quy trình thường quy trong
nhiều cơ sở phẫu thuật trên thế giới cho dù nội dung của chúng có thể không còn
nguyên gốc. Mỗi cơ sở phẫu thuật phải thực hành sử dụng Bảng kiểm và tìm hiểu
xem với những khâu hiện có thì cần phải lồng ghép một cách phù hợp như thế nào
vào trong quy trình thực hiện phẫu thuật thông thường tại cơ sở của mình.
Mục đích cuối cùng của Bảng kiểm an
toàn phẫu thuật của WHO - và của cuốn cẩm nang này - là nhằm đảm bảo rằng các
nhóm phẫu tuân thủ một cách nhất quán những khâu quan trọng và nhờ đó giảm thiểu
được những rủi ro thông thường và có thể tránh được vì sự an toàn và sức khỏe
cho người bệnh. Bảng kiểm hướng dẫn tương tác giữa các thành viên trong quá
trình trao đổi bằng lời như là một công cụ để chứng minh rằng những tiêu chuẩn
phù hợp về chăm sóc được áp dụng cho mỗi người bệnh.
Cách sử dụng Bảng kiểm (tóm tắt)
Để tiến hành Bảng kiểm trong quá trình
phẫu thuật, một người phải có trách nhiệm thực hiện những biện pháp kiểm tra an
toàn theo danh mục. Người phụ trách Bảng kiểm theo phân công này thường là một điều
dưỡng chạy ngoài nhưng cũng có thể là bất cứ một nhân viên lâm sàng nào trong
cuộc phẫu thuật.
Bảng kiểm chia cuộc phẫu thuật ra làm
ba giai đoạn, mỗi giai đoạn tương ứng với một thời điểm cụ thể trong quy trình
thao tác thông thường - giai đoạn tiền mê, giai đoạn sau gây mê và trước khi rạch
ra phẫu thuật và giai đoạn trong suốt quá trình hoặc ngay sau khi đóng vết
thương và trước chi chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ. Trong mỗi giai đoạn,
Người phụ trách Bảng kiểm phải xác nhận rằng nhóm của mình đã hoàn thành những
phần việc trước khi chuyển sang một giai đoạn khác. Khi mà các nhóm phẫu thuật
đã quen với những khâu của Bảng kiểm, họ có thể đưa các biện pháp kiểm tra vào
trong quy trình công việc quen thuộc của mình và thông báo việc hoàn thành công
việc của mình bằng lời mà không cần phải có sự can thiệp của người phụ trách Bảng
kiểm. Mỗi nhóm cần tìm cách đưa Bảng kiểm vào trong công việc của mình để tối
ưu hóa hiệu suất làm việc và giảm thiểu những sự ngắt quãng trong khi mục tiêu
là hoàn thành những khâu một cách hiệu quả.
Tất cả những bước cần phải được kiểm
tra bằng lời với từng thành viên có liên quan trong nhóm phẫu thuật để đảm bảo
rằng những hành động chủ chốt được thực hiện. Do vậy, trước khi tiến hành gây
mê, người phụ trách Bảng kiểm sẽ kiểm tra lại bằng lời với bác sĩ gây mê và người
bệnh (trong trường hợp người bệnh có thể nói được) để xác định nhân dạng,
phương pháp và vùng mổ là đúng và người bệnh đồng ý cho tiến hành phẫu thuật.
Người phụ trách diễn đạt bằng hình ảnh
và lời nói xác nhận rằng vùng mổ đã được đánh dấu (nếu phù hợp) và sẽ trao đổi
lại với bác sĩ gây mê nguy cơ mất máu, khó thở và dị ứng của người bệnh và liệu
việc kiểm tra máy gây mê và thuốc đã hoàn tất. Lý tưởng nhất là bác sĩ phẫu thuật
sẽ có mặt trong suốt giai đoạn này bởi vì những thông tin trao đổi sẽ giúp bác
sĩ phẫu thuật có những thông tin rõ ràng về ca phẫu thuật sắp diễn ra ví dụ như
tiên lượng mất máu, dị ứng và các yếu tố biến chứng khác của người bệnh. Bảng
kiểm điểm này tuy nhiên có thể được thực hiện khi không có mặt phẫu thuật viên.
Trước khi rạch da, mỗi thành viên trong
nhóm sẽ giới thiệu tên tuổi và vai trò. Nếu như là nhóm tham gia phẫu thuật
hàng ngày, thì chỉ cần xác nhận là mọi người trong nhóm đã có mặt và xác nhận mọi
người trong phòng đều biết nhau. Toàn nhóm sẽ xác nhận là họ đang thực hiện một
cuộc phẫu thuật cho đúng người bệnh và xác nhận lại bằng lời giữa các thành viên
và sau đó là những điểm chủ yếu trong các kế hoạch phẫu thuật sử dụng Bảng kiểm
làm cơ sở hướng dẫn. Họ cũng sẽ xác nhận việc đã sử dụng kháng sinh dự phòng
trong vòng 60 phút gần đây và tình trạng hiển thị hình ảnh phù hợp.
Trước khi rời phòng mổ, cả nhóm đánh
giá lại cuộc phẫu thuật, hoàn thành việc kiểm tra thiết bị sử dụng, gạc phẫu
thuật và dán nhãn bệnh phẩm thu được. Nhóm cũng đánh giá thiệt hại về trang thiết
bị hoặc những vấn đề cần giải quyết. Cuối cùng, cả nhóm sẽ trao đổi những kế hoạch
chính và những vấn đề có liên quan tới xử trí hậu phẫu và hồi phục trước khi
chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ.
Việc cử ai đó phụ trách Bảng kiểm là cần
thiết để thực hiện thành công Bảng kiểm. Trong bối cảnh phức tạp của phòng mổ,
bất cứ khâu nào cũng có thể bị bỏ qua trong quá trình tiền phẫu, hậu phẫu và
trong khi phẫu thuật. Việc cắt cử một người để chịu trách nhiệm hoàn thành các
khâu của Bảng kiểm là các bước an toàn không thể bỏ qua để thực hiện bước tiếp
theo trong giai đoạn tiếp theo, chừng nào mà các thành viên trong nhóm còn phải
làm quen với những khâu có liên quan, người phụ trách Bảng kiểm sẽ tiếp tục phải
hướng dẫn cho cả nhóm thông qua quy trình Bảng kiểm này.
Một bất lợi của việc có ai đó phụ
trách Bảng kiểm là có thể dẫn tới một mối quan hệ mang tính mâu thuẫn giữa các
thành viên khác trong nhóm phẫu thuật. Người phụ trách Bảng kiểm có quyền ngăn
không để thực hiện bước tiếp theo nếu chưa hoàn thành bước trước đó nhưng làm
như vậy có thể khiến cho một số thành viên khác không hài lòng hoặc khó chịu. Do
vậy, các bệnh viện phải cân nhắc kỹ lưỡng xem nhân viên nào phù hợp nhất với
vai trò này. Như đã nói ở trên, đối với nhiều cơ sở, vị trí này thuộc về một điều
dưỡng nhưng nhiều nhân viên y tế khác cũng có thể đảm nhận vị trí này.
Cách sử dụng Bảng kiểm (chi tiết)
Tiền mê
Những biện pháp kiểm tra an toàn phải
được hoàn tất trước khi bắt đầu tiến hành gây mê nhằm xác nhận tình trạng diễn
biến an toàn. Việc này đòi hỏi ít nhất phải có sự có mặt của bác sĩ gây mê và
nhân viên điều dưỡng. Người phụ trách bảng kiểm có thể hoàn tất phần này ngay một
lúc hoặc theo trình tự, tùy theo quá trình chuẩn bị gây mê. Chi tiết cho các
khâu an toàn như sau:
Người bệnh đã xác nhận nhân dạng/vùng
mổ, phương pháp và đồng ý phẫu thuật chưa?
Người phụ trách Bảng kiểm xác nhận
nhân dạng người bệnh, loại thủ thuật/phẫu thuật dự kiến và vùng mổ và ý kiến đồng
ý phẫu thuật của người bệnh. Trong khi điều này có thể trùng lặp thì bước này
là cần thiết để đảm bảo rằng nhóm phẫu thuật không phẫu thuật nhầm người bệnh
hoặc thực hiện sai thủ thuật. Khi người bệnh không thể xác nhận ví dụ như trẻ
em hoặc người bệnh không tỉnh táo, một người giám hộ hoặc thành viên gia đình
có thể đảm nhiệm vai trò này. Nếu không có người trong gia đình hoặc nếu bước
này bị bỏ qua ví dụ như trong một trường hợp cấp cứu, nhóm phẫu thuật nên hiểu
lý do tại sao và tất cả thống nhất ý kiến trước khi tiến hành.
Vùng mổ có được đánh dấu không?
Người phụ trách Bảng kiểm cần phải xác
nhận rằng bác sĩ phẫu thuật người tiến hành ca phẫu thuật đã đánh dấu chỗ mổ
(thường bằng bút) trong những trường hợp có liên quan tới những vị trí có ở cả
hai bên (bên trái và bên phải) hoặc phối hợp hoặc nhiều lớp, tầng (ví dụ một
ngón tay, ngón chân cụ thể, tổn thương da, đốt sống). Việc đánh dấu các cấu
trúc đường trung bình (ví dụ như tuyến giáp) hoặc cấu trúc đơn lẻ (ví dụ như lá
lách) cần theo thực hành tại chỗ. Tuy nhiên việc đánh dấu nhất quán trong tất cả
các trường hợp, có thể là cơ sở để xác nhận đúng thủ thuật và đúng chỗ cần phẫu
thuật.
Việc kiểm tra máy gây mê và thuốc đã
hoàn tất chưa?
Người phụ trách Bảng kiểm hoàn thành
bước này bằng cách hỏi bác sĩ gây mê để xác nhận hoàn thành việc kiểm tra an
toàn gây mê, được hiểu là một sự kiểm tra chính thức thiết bị gây mê, mạch nhịp
thở, thuốc và nguy cơ của người bệnh khi gây mê trước mỗi ca phẫu thuật. Để
giúp nhớ được thông tin, bên cạnh việc xác nhận rằng người bệnh đủ tiêu chuẩn để
phẫu thuật thì nhóm gây mê cần phải hoàn tất quy trình ABCDEs - nghĩa là kiểm
tra thiết bị hỗ trợ đường thở, hệ thống máy hô hấp (bao gồm cả ôxi hóa chất thở),
thiết bị hút, thuốc và dụng cụ và thuốc cấp cứu trang thiết bị và các dụng cụ hỗ
trợ khác đã có sẵn và hoạt động bình thường.
Có máy đo độ bão hòa oxy trong máu gắn
trên người bệnh và hoạt động bình thường không?
Người phụ trách cũng cần phải xác nhận
rằng thiết bị đo độ bão hòa ôxi trong máu được gắn trên người bệnh và hoạt động
bình thường trước khi tiến hành gây mê. Tốt nhất là đặt thiết bị này ở chỗ dễ
quan sát cho cả nhóm. Một hệ thống âm thanh cũng cần phải sử dụng để cảnh báo
cho cả nhóm về mạch và nồng độ ôxi. Việc sử dụng thiết bị đo độ bão hòa của ôxi
trong máu được WHO đặc biệt khuyến cáo như là một biện pháp đảm bảo an toàn gây
mê. Nếu như không có sẵn thiết bị này, bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ gây mê phải
lượng giá tình trạng nguy kịch của người bệnh và cân nhắc hoãn phẫu thuật cho tới
khi các bước cần thiết được thực hiện nhằm đảm bảo an toàn. Trong những trường
hợp cấp cứu để giữ tính mạng hoặc các bộ phận cơ thể, thì có thể bỏ qua yêu cầu
này nhưng trong những tình huống như vậy, cả nhóm phải thống nhất về sự cần thiết
khi thực hiện phẫu thuật.
Người bệnh có tiền sử dị ứng không?
Người phụ trách Bảng kiểm cần phải làm
trực tiếp việc này và đặt hai câu hỏi cho bác sĩ gây mê. Đầu tiên người phụ
trách cần hỏi liệu người bệnh có tiền sử dị ứng không và nếu có thì là loại dị ứng
gì. Nếu người phụ trách biết về tiền sử dị ứng của người bệnh mà bác sĩ gây mê
chưa nắm được thì cần phải trao đổi thông tin về vấn đề này với nhau.
Người bệnh có biểu hiện khó thở/nguy
cơ khi hít thở không?
Người phụ trách Bảng kiểm cần xác nhận
bằng lời rằng cả nhóm phẫu thuật đã đánh giá khách quan đường thở của người bệnh.
Có một số cách để đánh giá đường thở (ví dụ như thang điểm Mallampati, khoảng
cách cằm giáp hoặc thang điểm Bellhouse- Doré score). Một đánh giá khách quan về
đường thở sử dụng một phương pháp có giá trị quan trọng hơn bản thân chính
phương pháp đánh giá đó. Tử vong do suy hô hấp trong quá trình gây mê vẫn còn
là một hiểm họa trên toàn cầu nhưng có thể ngăn ngừa được nếu được trù bị từ
trước. Nếu kết quả đánh giá đường thở cho thấy nguy cơ khó thở cao (ví dụ điểm
Mallampati là 3 hoặc 4), nhóm gây mê phải sẵn sàng đối phó với nguy cơ về hô hấp.
Điều này có nghĩa là phải điều chỉnh phương pháp gây mê (ví dụ, gây tê vùng nếu
có thể) và chuẩn bị sẵn thiết bị cấp cứu. Một người trợ lý có năng lực - có thể
là một bác sĩ gây mê thứ hai, bác sĩ phẫu thuật hoặc một điều dưỡng - cần có mặt
để giúp tiến hành gây mê.
Nguy cơ về khả năng hít thở phải được
đánh giá như là một phần của đánh giá đường thở. Nếu người bệnh bị chướng bụng
do thực quản trào ngược hoặc dạ dày giãn, nhóm gây mê phải chuẩn bị phương án đối
phó với khả năng về hít thở. Nguy cơ này giảm đi khi điều chỉnh kế hoạch gây mê
ví dụ sử dụng kỹ thuật gây mê nhanh và bố trí người hỗ trợ giúp sử dụng thiết bị
gây áp suất hình cong trong suốt quá trình gây mê. Đối với người bệnh phát hiện
có biểu hiện khó thở hoặc nguy cơ liên quan tới việc hít thở, việc bắt đầu gây
mê chỉ được thực hiện khi bác sĩ gây mê xác nhận rằng đã có đủ các thiết bị và
sự hỗ trợ cần thiết bên cạnh giường bệnh.
Người bệnh có nguy cơ mất máu trên 500
ml không (7 ml/kg ở trẻ em)?
Trong khâu kiểm tra an toàn này, người
phụ trách Bảng kiểm hỏi nhóm gây mê liệu người bệnh có nguy cơ mất hơn một nửa
lít máu trong suốt quá trình phẫu thuật không nhằm đảm bảo rằng nguy cơ này được
ghi nhận và có sự chuẩn bị để đối phó. Mất máu nhiều là nguy hiểm và khá phổ biến
đối với những người bệnh phẫu thuật với nguy cơ sốc do mất quá nhiều máu (500
ml (7 ml/kg ở trẻ em). Việc chuẩn bị và hồi sức đầy đủ có thể làm giảm hậu quả
một cách đáng kể.
Bác sĩ phẫu thuật có thể không thường
xuyên trao đổi với bác sĩ gây mê và nhóm điều dưỡng về nguy cơ mất máu. Do vậy,
nếu bác sĩ gây mê không biết về nguy cơ mất máu trong ca phẫu thuật thì người
này cần phải trao đổi về nguy cơ này với bác sĩ phẫu thuật trước khi ca mổ được
tiến hành. Nếu nguy cơ máu nhiều hơn 500 ml là hiện hữu, thì cần phải chuẩn bị
ít nhất hai đường truyền tĩnh mạch có thể lớn hoặc đặt đường truyền tĩnh mạch
trung ương trước khi rạch da. Bên cạnh đó, cả nhóm cần phải xác nhận có đủ dịch
hoặc máu để hồi sức cấp cứu. (Lưu ý cần bác sĩ phẫu thuật phải tiên lượng lại
lượng máu sẽ mất trước khi rạch da. Đây là một bước kiểm tra an toàn thứ hai khẳng
định kết quả đánh giá trước đó do bác sĩ gây mê và điều dưỡng thực hiện.)
Giai đoạn này kết thúc tại đây và cả
nhóm có thể chuyển sang giai đoạn bắt đầu gây mê.
Trước khi rạch da
Trước khi rạch vết da đầu tiên, cả
nhóm cần phải tạm ngừng một chút để xác nhận rằng các biện pháp kiểm tra an
toàn cơ bản đã được thực hiện. Những biện pháp kiểm tra này được cả nhóm tham
gia thực hiện.
Xác nhận tên và vai trò trong ca phẫu
thuật của tất cả các thành viên nhóm phẫu thuật
Các thành viên trong nhóm phẫu thuật
có thể thay đổi thường xuyên. Việc xử trí hiệu quả những tình huống rủi ro đòi
hỏi rằng tất cả các thành viên trong nhóm người này phải biết người kia, cũng
như vai trò khả năng của từng người. Một màn giới thiệu đơn giản có thể làm được
việc này. Người phụ trách cần phải yêu cầu mỗi người trong phòng giới thiệu tên
và vai trò của mình. Các nhóm đã quen nhau có thể xác nhận rằng mọi người đã được
giới thiệu nhưng những thành viên mới thay đổi luân phiên trong phòng mổ kể từ
cuộc phẫu thuật gần đây nhất phải giới thiệu bản thân mình, bao gồm cả sinh viên
thực tập và những người khác.
Xác nhận tên, loại thủ thuật/phẫu thuật
và vùng mổ
Người phụ trách bảng kiểm hoặc một
thành viên khác trong nhóm sẽ hỏi mọi người trong phòng mổ dừng lại và xác nhận
bằng lời tên của người bệnh, loại phẫu thuật sẽ tiến hành và vùng mổ và việc định
vị người bệnh làm nhằm tránh phẫu thuật nhầm người, nhầm chỗ. Ví dụ điều dưỡng
có thể thông báo như sau: “Trước khi chúng ta tiến hành rạch da”, và tiếp
tục, “Mọi người có thống nhất rằng đây là người bệnh X, được chỉ định phẫu
thuật thoát vị bẹn phải không?” Bác sĩ gây mê, bác sĩ phẫu thuật và điều dưỡng
từng người một và rõ ràng xác nhận đúng như vậy. Nếu người bệnh còn tỉnh táo,
tiếp tục xác nhận với người bệnh về những thông tin tương tự.
Kháng sinh dự phòng có được triển khai
trong vòng 60 phút trước khi phẫu thuật?
Mặc dù đã có bằng chứng thuyết phục và
sự đồng thuận rộng rãi cho rằng việc sử dụng kháng sinh dự phòng phòng nhiễm
trùng vết thương mổ là hiệu quả nhất nếu như đảm bảo được nồng độ phù hợp của
kháng sinh trong huyết tương hoặc trong tế bào, nhiều nhóm phẫu thuật không thống
nhất về việc cho người bệnh dùng kháng sinh trong vòng 1 giờ trước khi mổ. Nhằm
giảm nguy cơ nhiễm trùng do phẫu thuật, người phụ trách sẽ hỏi liệu người bệnh
đã dùng kháng sinh dự phòng trong vòng 1 giờ chưa. Thành viên chịu trách nhiệm
cho người bệnh dùng kháng sinh - thường là bác sĩ gây mê - phải xác nhận bằng lời
về việc này. Nếu chưa có kháng sinh dự phòng thì phải cho dùng ngay lúc này,
trước khi rạch da. Nếu kháng sinh dự phòng đã được cho dùng trước 60 phút, nhóm
phẫu thuật có thể cân nhắc bổ sung liều kháng sinh cho người bệnh. Nếu như
kháng sinh dự phòng được cho là không phù hợp (ví dụ trường hợp không rạch ra,
trường hợp bị nhiễm trùng và người bệnh đã dùng kháng sinh để điều trị), đánh dấu
vào ô “không áp dụng" khi cả nhóm xác nhận việc này.
Tiên lượng các biến cố
Việc trao đổi thông tin hiệu quả trong
nội bộ nhóm phẫu thuật là một yếu tố quan trọng của phẫu thuật an toàn, hiệu suất
nhóm làm việc và ngăn ngừa những biến chứng nguy hiểm. Nhằm đảm bảo việc trao đổi
thông tin về những vấn đề chính của người bệnh, người phụ trách bảng kiểm sẽ tổ
chức một buổi thảo luận nhanh giữa bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê và điều dưỡng
về những nguy cơ chính và kế hoạch phẫu thuật. Điều này có thể tiến hành một
cách đơn giản bằng những câu hỏi cụ thể đặt ra cho mỗi thành viên trong nhóm phẫu
thuật. Trật tự các vấn đề thảo luận không quan trọng như mỗi người phải cung cấp
những thông tin, lo ngại nhất định. Trong toàn bộ quy trình thường quy hoặc những
người đã quen thuộc với cả nhóm, bác sĩ phẫu thuật chỉ cần nói, “Đây là một ca
X thông thường” và sau đó hỏi xem bác sĩ gây mê và điều dưỡng có lo ngại gì đặc
biệt không.
Đối với bác sĩ phẫu thuật: những bước
chính và đột xuất là gì? Thời
gian diễn ra bao lâu? Tiên lượng mất máu là bao nhiêu?
Một cuộc trao đổi về “những bước
chính và đột xuất” nằm
trong dự kiến tối thiểu là nhằm thông báo cho tất cả thành viên về bất kỳ những bước
nào có thể đặt
người
bệnh trước nguy cơ mất máu nhanh, thương
tích hoặc những trạng thái bệnh nguy hiểm khác. Đây cũng chính là cơ hội để rà soát lại
các bước có thể đòi hỏi phải có những trang thiết bị hoặc sự chuẩn bị đặc biệt.
Đối với bác sĩ gây mê: có những lo ngại
cụ thể nào về người bệnh không?
Ở những người bệnh có nguy cơ mất máu
lớn, bất ổn định về chức năng máu hoặc các trạng thái bệnh khác do thủ thuật
gây ra thì một thành viên trong nhóm gây mê phải điểm lại những kế hoạch và lo
ngại cụ thể dành cho hồi sức cấp cứu - cụ thể, là dự định sử dụng các chế phẩm
máu và đối phó với những biến chứng trên người bệnh cụ thể hoặc trạng thái bệnh
(ví dụ như bệnh tim mạch phổi, loạn nhịp, rối loạn đông máu v.v). Thực tế cho
thấy không phải trong tất các cuộc phẫu thuật đều có những rủi ro và các mối
quan tâm phải thực chia sẻ giữa các thành viên nhóm phẫu thuật. Trong trường hợp
này, bác sĩ gây mê chỉ cần đơn giản nói rằng, “Tôi không có lo ngại gì đặc biệt
về trường hợp này.”
Đối với nhóm điều dưỡng: đã xác nhận
tình trạng vô khuẩn chưa (có các kết quả chỉ số? Có lo ngại hoặc vấn đề gì về
trang thiết bị không?
Điều dưỡng chịu trách nhiệm vệ sinh hoặc
kỹ thuật viên chuẩn bị dụng cụ dành cho phẫu thuật xác nhận bằng lời rằng việc
tiệt trùng đã được thực hiện và đối với những dụng cụ được tiệt trùng bằng nhiệt,
việc hoàn tất tiệt trùng được thể hiện bởi một chỉ số tiệt trùng. Bất cứ sự
khác biệt nào giữa kết quả chỉ số dự kiến và thực tế phải được thông báo cho tất
cả những thành viên trong nhóm và xử lý trước khi rạch da. Đây cũng là một cơ hội
để thảo luận những vấn đề về trang thiết bị và những chuẩn bị khác dành cho phẫu
thuật hoặc bất cứ lo ngại nào về an toàn, mà điều dưỡng phụ trách vệ sinh hoặc
lưu động có thể có đặc biệt là những vấn đề mà nhóm gây mê và bác sĩ phẫu thuật
chưa đề cập. Nếu không có quan ngại cụ thể, điều dưỡng chịu trách nhiệm vệ sinh
hoặc kỹ thuật viên chỉ cần nói “Xác nhận tình trạng vô khuẩn. Tôi không có bất
cứ lo ngại nào khác.”
Chẩn đoán hình ảnh thiết yếu có được
chuẩn bị không?
Chẩn đoán hình ảnh là yếu lố quan trọng
nhằm đảm bảo cho việc lên kế hoạch chuẩn và tiến hành nhiều loại phẫu thuật bao
gồm phẫu thuật chỉnh răng, cột sống và ngực và nhiều phẫu thuật cắt khối u khác.
Trước khi mổ, người phụ trách cần phải hỏi bác sĩ phẫu thuật xem trong ca phẫu
thuật sắp tiến hành có cần thực hiện chẩn đoán hình ảnh không. Nếu có người phụ
trách cần phải xác nhận bằng lời rằng chẩn đoán hình ảnh có trong phòng và được
hiển thị liên tục trong suốt quá trình phẫu thuật. Nếu chẩn đoán hình ảnh là cần
nhưng không sẵn có trong phòng thì cần phải thu xếp để có được chẩn đoán hình ảnh.
Bác sĩ phẫu thuật sẽ quyết định liệu có tiến hành mà không có chẩn đoán hình ảnh
nếu như cần nhưng không có sẵn tại chỗ.
Giai đoạn này kết thúc tại đây và cả
nhóm có thể tiến hành ca phẫu thuật.
Trước khi người bệnh
rời phòng mổ
Những biện pháp kiểm tra an toàn này cần
phải được hoàn tất trước khi chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ. Mục đích là nhằm
chuyển tải những thông tin quan trọng cho nhóm chăm sóc hậu phẫu. Việc kiểm tra
có thể do điều dưỡng, bác sĩ phẫu thuật hoặc bác sĩ gây mê thực hiện và phải
hoàn thành trước khi bác sĩ phẫu thuật rời phòng mổ. Nó có thể diễn ra đồng thời
với quá trình đóng vết thương.
Điều dưỡng xác nhận bằng
lời
Tên của thủ thuật/phẫu thuật
Bởi vì thủ thuật/phẫu thuật có thể
thay đổi hoặc mở rộng trong suốt quá trình phẫu thuật cho nên người phụ trách Bảng
kiểm cần phải xác nhận với bác sĩ phẫu thuật và cả nhóm xem chính xác đã thực
hiện thủ thuật gì. Câu hỏi xác nhận có thể là, “Chúng ta vừa tiến hành thủ thuật/phẫu
thuật gì??” hoặc xác nhận, “Chúng ta vừa tiến hành thủ thuật X có đúng không?”
Hoàn thành việc kiểm tra kim tiêm, gạc
và dụng cụ
Những dụng cụ, băng gạc, kim tiêm sót
sau khi phẫu thuật là không phổ biến nhưng vẫn xảy ra và là những sai sót tiềm ẩn
nguy hiểm. Điều dưỡng phụ trách vệ sinh, thu dọn cần phải xác nhận bằng lời việc
hoàn tất kiểm kê băng gạc, kim tiêm lần cuối. Trong những trường hợp phẫu thuật
hốc mở, việc kiểm tra dụng cụ vẫn cần phải được xác nhận đã hoàn thành. Nếu việc
kiểm tra không được đối chiếu hợp lý, cả nhóm phải được cảnh báo và phải có nhiều
biện pháp khắc phục (ví dụ như tìm kiếm dưới nệm, sọt rác và vết thương và nếu
cần phải chụp X quang để xác định).
Dán nhãn bệnh phẩm (đọc to nhãn bệnh
phẩm bao gồm cả tên người bệnh)
Việc dán nhãn không đúng bệnh phẩm là
nguy cơ tiềm ẩn đối với một người bệnh và thực tế cho thấy đây là một nguyên
nhân chính gây ra những sai sót trong xét nghiệm. Người phụ trách cần xác nhận
việc dán nhãn bệnh phẩm thu được trong quá trình phẫu thuật là đúng bằng cách đọc
to tên người bệnh, mô tả bệnh phẩm và bất cứ dấu hiệu định hướng nào.
Liệu có vấn đề gì về trang thiết bị cần
giải quyết
Những vấn đề trang thiết bị là khá phổ
biến tại các phòng mổ. Việc xác định chính xác nguồn gây lỗi và dụng cụ hoặc
thiết bị bị lỗi là quan trọng trong việc ngăn không cho sử dụng những thiết bị
bị lỗi cho đến khi vấn đề được giải quyết. Người phụ trách Bảng kiểm cần phải đảm
bảo rằng những vấn đề về trang thiết bị nảy sinh trong quá trình phẫu thuật được
cả nhóm phát hiện.
Bác sĩ phẫu thuật, gây mê và điều dưỡng
đánh giá những lo ngại đối với quá trình hồi phục và xử trí người bệnh
Bác sĩ phẫu thuật, gây mê và điều dưỡng
cần đánh giá quá trình hồi phục hậu phẫu và kế hoạch xử trí tập trung cụ thể
vào những vấn đề về gây mê hoặc trong khi phẫu thuật có thể ảnh hưởng tới người
bệnh. Những sự cố trực tiếp gây rủi ro cụ thể cho người bệnh trong quá trình hồi
phục và những sự cố gián tiếp có liên quan chặt chẽ. Mục đích của bước thực hiện
này là nhằm chuyển tải một cách hiệu quả và phù hợp những thông tin quan trọng
cho cả nhóm.
Bảng kiểm của WHO hoàn tất ở đây. Nếu
muốn, có thể đặt bảng kiểm trong bệnh án của người bệnh hoặc lưu trữ cho mục
đích đánh giá đảm bảo chất lượng.
Những điểm cần lưu ý
thêm
Cải thiện văn hóa an
toàn
Điều chỉnh Bảng kiểm
Bảng kiểm cần phải được điều chỉnh để
phù hợp với đặc thù khác nhau của từng cơ sở xét theo khía cạnh quy trình, văn
hóa phòng mổ và mức độ hiểu biết lẫn nhau của các thành viên trong nhóm phẫu
thuật. Tuy nhiên, việc bỏ qua những bước an toàn mà lý do là không thể thực hiện
trong môi trường hoặc hoàn cảnh hiện tại không phải là điều được khuyến khích.
Những bước an toàn cần phải thúc đẩy tạo
ra sự thay đổi cần thiết để cho cả nhóm phẫu thuật có thể tuân thủ theo mỗi cấu
phần của Bảng kiểm này.
Việc điều chỉnh Bảng kiểm phải được tiến
hành một cách khách quan. Bác sĩ phẫu thuật, gây mê, điều dưỡng phải tham gia
vào trong quá trình điều chỉnh và Bảng kiểm sau khi hiệu chỉnh cần được thử
nghiệm trong những tình huống mô phỏng và thực tế nhằm đảm bảo nó phát huy đúng
chức năng của nó. Thêm nữa nhiều nguyên tắc áp dụng khi xây dựng Bảng kiểm cũng
có thể áp dụng khi điều chỉnh.
Có trọng tâm
Bảng kiểm cần phải ngắn gọn, giải quyết
những vấn đề quan trọng mà các biện pháp kiểm tra an toàn khác chưa xử lý được.
Mỗi phần của bảng kiểm nên có từ 5 đến 9 đầu mục là hợp lý nhất.
Ngắn gọn
Việc thực hiện mỗi phần của Bảng kiểm
không nên kéo dài quá một phút. Trong khi việc cố tạo ra một bảng kiểm toàn diện
là một điều thôi thúc, yêu cầu gắn bảng kiểm vào trong hoạt động chăm sóc phải
đảm bảo cân bằng với mong muốn này.
Dễ thực hiện
Mỗi mục trong Bảng kiểm phải gắn với một
hành động thực tế, cụ thể Những mục không có liên quan tới một hành động cụ thể
sẽ gây nhiễu giữa các thành viên nhóm phẫu thuật liên quan tới những gì họ cần
phải thực hiện.
Bằng lời
Chức năng của Bảng kiểm là nhằm thúc đẩy
và hướng dẫn tương tác bằng lời giữa các thành viên trong nhóm phẫu thuật. Việc
thực hiện bảng kiểm nhóm này là quan trọng dẫn tới thành công - hiệu quả của Bảng
kiểm sẽ giảm nếu chỉ được sử dụng như một văn bản hướng dẫn đơn thuần.
Phối hợp
Mọi cố gắng nhằm thay đổi Bảng kiểm đều
phải được thực hiện trên cơ sở phối hợp với đại điện từ những nhóm có liên quan
tới việc sử dụng Bảng kiểm. Việc tích cực tìm kiếm những góp ý của điều dưỡng,
bác sĩ gây mê, bác sĩ phẫu thuật và những nhân viên khác là quan trọng không chỉ
giúp có được những điều chỉnh hợp lý mà còn tạo ra tâm lý “tự chủ” là cốt lõi của
việc tiếp nhận và thay đổi thói quen thực hành.
Thử nghiệm
Trước khi đưa vào sử dụng rộng rãi một
Bảng kiểm đã hiệu chỉnh, nó cần phải được thử nghiệm tai một cơ sở nào đó. Phản
hồi thực tế từ những nhà lâm sàng là cần thiết đối với sự phát triển thành công
một Bảng kiểm và việc lồng ghép nó vào trong quy trình chăm sóc. Thử nghiệm
thông qua một “mô phỏng” đơn giản ví dụ như sử dụng Bảng kiểm với những thành
viên nhóm phẫu thuật ngồi quanh một chiếc bàn là quan trọng. Chúng tôi gợi ý sử
dụng Bảng kiểm trong một ngày cho một nhóm phẫu thuật và thu nhận ý kiến phản hồi.
Việc điều chỉnh Bảng kiểm hoặc cách mà nó được lồng vào trong quy trình chăm
sóc sẽ phụ thuộc vào góp ý của người sử dụng và sau đó lại thử Bảng kiểm một lần
nữa tại một phòng mổ. Tiếp tục quy trình này cho tới khi bạn hoàn toàn yên tâm
về Bảng kiểm mà bạn đã tạo ra, phát huy tác dụng trong môi trường cụ thể. Sau
đó cân nhắc một chương trình triển khai với quy mô rộng hơn.
Lồng ghép
Nhiều cơ sở đã có những biện pháp nhằm
bảo đảm việc thực hiện đáng tin cậy nhiều quy trình của Bảng kiểm của WHO. Việc
đưa vào những biện pháp kiểm tra an toàn mới là thách thức nhưng có thể làm được
ở hầu hết các cơ sở phẫu thuật. Những bổ sung chính cho các biện pháp thường
quy bao gồm hoạt động trao đổi thông tin giữa các thành viên trong nhóm, trao đổi
ban đầu, trao đổi tổng kết. Những mục này là đặc biệt quan trọng và luôn phải
duy trì trong Bảng kiểm.
Để đảm bảo tính xúc tích, Bảng kiểm an
toàn phẫu thuật của WHO không có ý định nêu toàn bộ vấn đề ngay một lúc. Các
nhóm phẫu thuật có thể cân nhắc bổ sung những biện pháp kiểm tra an toàn cho từng
thủ thuật cụ thể đặc biệt nếu như chúng là một phần của quy trình thường xuyên
đã được áp dụng tại cơ sở phẫu thuật. Mỗi giai đoạn cần phải coi như là một dịp
để đảm bảo rằng các biện pháp kiểm tra an toàn đã được thực hiện. Những bước bổ
sung có thể bao gồm việc xác nhận dự phòng nghẽn mạch huyết khối động mạch bằng
những dụng cụ cơ khí và/hoặc các phương tiện thuốc men (ví dụ như heparin hoặc
warfarin) khi được chỉ định, những dụng cụ cấp ghép cần thiết như khớp hoặc một
bộ phận giả nào đó hoặc nhu cầu các thiết bị khác hoặc các kết quả sinh thiết
tiền phẫn thuật, kết quả xét nghiệm hoặc nhóm máu. Mỗi cơ sở có thể chủ động xây
dựng lại hình thức, trật tự và nội dung Bảng kiểm sao cho phù hợp với điều kiện
và thực hành tại cơ sở trong khi vẫn đảm bảo thực hiện những bước kiểm tra an
toàn cơ bản một cách hiệu quả. Như đã lưu ý ở trên, các cơ sở và cá nhân không nên
làm cho Bảng kiểm này trở nên quá phức tạp, vượt ra khỏi tầm kiểm soát.
Đưa Bảng kiểm vào
trong phòng mổ
Các nhóm sẽ phải thực hành để học các
sử dụng Bảng kiểm một cách hiệu quả. Một số người cho rằng đây là một sự áp đặt
thậm chí là một việc gây lãng phí thời gian. Với mục tiêu không phải là để xen
ngang hoặc gây trở ngại cho quy trình làm việc, Bảng kiểm được thiết kế nhằm
cung cấp cho nhóm phẫu thuật những biện pháp kiểm tra an toàn đơn giản, hiệu quả
nhằm cải thiện hiệu suất của cả nhóm và thúc đẩy trao đổi thông tin trong toàn
nhóm để đảm bảo an toàn cho người bệnh mỗi khi có phẫu thuật được tiến hành. Nhiều
bước trong Bảng kiểm này đã được tuân thủ bởi những phòng phẫu thuật trên toàn
thế giới; tuy nhiên chỉ một số ít tuân thủ tất cả một cách đáng tin cậy. Bảng
kiểm có hai mục đích: đảm bảo sự nhất quán trong an toàn người bệnh và giới thiệu
(hoặc duy trì) một văn hóa nhận thức được giá trị của nó.
Để thực hiện thành công đòi hỏi phải
có sự điều chỉnh Bảng kiểm cho phù hợp với thói quen và sự kỳ vọng của người sử
dụng. Điều này sẽ không xảy ra nếu như không có sự cam kết mạnh mẽ của lãnh đạo
bệnh viện. Để cho Bảng kiểm được thành công, trưởng khoa phẫu thuật, khoa gây
mê và điều dưỡng phải thể hiện rõ sự tin tưởng rằng an toàn là một ưu tiên và
việc sử dụng Bảng kiểm của WHO có thể giúp biến điều này thành sự thực. Để minh
họa cho điều này, họ nên sử dụng Bảng kiểm trong chính những ca mà họ đảm nhiệm
và thường xuyên hỏi những người khác xem tình hình sử dụng thế nào. Nếu không
có sự chỉ đạo, dẫn dắt rõ ràng, việc đưa vào áp dụng chính thức một Bảng kiểm
như thế này có thể gây ra sự phản đối và thái độ không hài lòng.
Những công việc cải thiện chất lượng
trước kia đã cung cấp một số mô hình về cách thực hiện một Bảng kiểm kiểu này
trong bối cảnh phòng phẫu thuật. Kinh nghiệm với nghiên cứu thí điểm xác nhận
tính hữu dụng của những chiến lược này. Một số bước gợi ý được nêu ở bên dưới để
xem xét một khi cơ sở tiến hành thực hiện Bảng kiểm an toàn phẫu thuật của WHO.
Tạo nhóm
Cam kết bởi tất cả những thành viên lâm
sàng tham gia thực hiện các thủ thuật/phẫu thuật là điều cốt yếu. Bắt đầu tạo sự
ủng hộ bằng cách huy động sự tham gia của các nhà lâm sàng những người có xu hướng
hỗ trợ nhất bao gồm càng nhiều các đồng nghiệp từ các khoa lâm sàng (phẫu thuật,
gây mê, điều dưỡng) càng tốt. Xác định một nhóm nòng cốt những người quan tâm tới
Bảng kiểm trong khi tìm cách huy động sự tham gia của ít nhất một thành viên của
mỗi khoa lâm sàng khác. Ở giai đoạn ban đầu này, cộng tác với những người quan
tâm thay vì cố thuyết phục người có quan điểm chống lại. Cũng huy động sự tham
gia của lãnh đạo bệnh viện và đội ngũ hành chính nếu có thể. Nhấn mạnh lợi ích
qua bằng chứng về việc giảm tỷ lệ biến chứng và những lợi ích về mặt kinh tế.
Bắt dẫn nhỏ, sau mở rộng
Bắt đầu nhỏ, thử nghiệm Bảng kiểm
trong phạm vi một phòng mổ với một nhóm phẫu thuật và mở rộng khi mọi vấn đề đã
được giải quyết và sự quan tâm đã được gây dựng. Trong suốt quá trình đánh giá
ban đầu của WHO các điểm cố gắng thực hiện Bảng kiểm ngay một lúc trên phạm vi
rộng vấp phải sự phản đối nhiều nhất và gặp nhiều khó khăn trong việc thuyết phục
nhân viên sử dụng Bảng kiểm một các hiệu quả. Một khi một nhóm đã yên tâm sử dụng
Bảng kiểm thì đó mới là lúc nhân rộng sang phòng khác. Trao đổi những nỗ lực
này với các khoa phẫu thuật và bác sĩ phẫu thuật khác nhau. Đảm bảo rằng các
thành viên trong nhóm tham gia từ đầu vào quy trình đang sử dụng Bảng kiểm tại
nơi mà họ đang làm việc. Điều chỉnh Bảng kiểm cho phù hợp với từng đơn vị nếu cần
nhưng không được bỏ đi những bước kiểm tra an toàn chỉ bởi vì chúng không thể
thực hiện được. Giải quyết phản kháng một khi nảy sinh. Các nhà lâm sàng đã từng
sử dụng Bảng kiểm và có kinh nghiệm tốt sẽ tiên phong trong việc thúc đẩy sử dụng
và bảo vệ phương án sử dụng và nhân rộng trong toàn bệnh viện.
Theo dõi và cải thiện
Hướng dẫn của WHO về an toàn phẫu thuật
khuyến khích việc theo dõi các kết quả và biến chứng do phẫu thuật. Lý tưởng nhất
là các bệnh viện và cơ sở y tế theo dõi các quy trình và các kết quả ví dụ như
tỷ lệ phần trăm ca phẫu thuật có dùng kháng sinh đúng thời điểm và tỷ lệ nhiễm
trùng vết mổ.
Đánh giá chăm sóc phẫu
thuật
Theo dõi và đánh giá kết quả là một phần
quan trọng trong chăm sóc phẫu thuật. Nhiều cơ sở và khoa phòng đã tham gia vào
quy trình này; việc thu thập dữ liệu bổ sung không được khuyến cáo hoặc khuyến
khích nếu như có sẵn một hệ thống như vậy và chứng minh là hữu ích đối với nhà
lâm sàng và nhân viên như là một công cụ nhằm cải thiện chất lượng chăm sóc. Tuy
nhiên ở những bệnh viện nơi mà các kết quả chăm sóc phẫu thuật không được theo
dõi thường xuyên và các biến chứng sau phẫu thuật không được ghi chép hoặc những
cơ chế khảo sát không đủ để phát hiện ra những thực hành chưa tốt, WHO khuyến
nghị rằng cần phải thiết lập một hệ thống theo dõi. Cụ thể, như là một công cụ
khảo sát phẫu thuật ở cấp bệnh viện và khoa phòng, việc thống kê số ca tử vong
trong ngày phẫu thuật và tử vong tại viện sau khi phẫu thuật được thực hiện một
cách hệ thống tại cơ sở và các nhà lâm sàng. Khi kết hợp với tổng số ca phẫu
thuật, thông tin kể trên cung cấp cho các khoa phẫu thuật tỷ lệ tử vong trong
phẫu thuật và sau khi phẫu thuật, Tỷ lệ tử vong có thể giúp bác sĩ phẫu thuật
xác định những thiết sót về an toàn và là cơ sở hướng dẫn cho các nhà lâm sàng
cải thiện công tác chăm sóc. Bên cạnh đó, đối với những cơ sở có năng lực và khả
năng thực hiện việc này, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ và thang điểm Phẫu thuật
Apgar cũng là những chỉ số kết quả quan trọng.
Bệnh cạnh tử vong và biến chứng, các
chỉ số quy trình cũng có thể được đưa vào hệ thống đánh giá và có thể giúp xác
định những lỗ hổng trong công tác đảm bảo an toàn và những lĩnh vực cần có sự cải
thiện. Cải thiện tuân thủ có liên quan tới những kết quả tốt hơn và có thể xác định
những điểm yếu trong hệ thống chăm sóc. Một vài gợi ý đánh giá thậm chí là trên
cơ sở không liên tục là tần suất tuân thủ đối với:
• Việc đánh dấu vùng mổ do bác sĩ phẫu
thuật thực hiện
• Thực hiện kiểm tra an toàn thiết bị
và thuốc gây mê
• Sử dụng máy đo độ bão hòa của ôxi
trong máu trong quá trình gây mê trong tất cả các ca
• Đánh giá về hô hấp
• Sử dụng các chỉ số vô khuẩn nhằm đảm
bảo thực hành vô khuẩn đầy đủ
• Sử dụng kháng sinh dự phòng trong
vòng 1 giờ trước khi mổ
• Xác nhận bằng lời tên người bệnh,
vùng mổ và loại thủ thuật/phẫu thuật ngay trước khi rạch da với tất cả thành viên
trong nhóm phẫu thuật có mặt
• Trao đổi trước khi phẫu thuật về những
lo ngại lâm sàng, kế hoạch phẫu thuật và các vấn đề cốt yếu khác
• Trao đổi sau khi phẫu thuật về những
vấn đề nảy sinh trong ca mổ và những quan ngại đối với quá trình hồi phục và xử
trí người bệnh hậu phẫu.
Việc sử dụng Bảng kiểm an toàn phẫu
thuật của WHO đã chứng Minh là giúp cải thiện việc chấp hành với những tiêu chuẩn
chăm sóc phẫu thuật cơ bản trong một số bệnh viện trên toàn thế giới. Trong khi
mối quan hệ giữa tuân thủ tiêu chuẩn và giảm tỷ lệ biến chứng có xu hướng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, việc cải thiện mức độ an toàn và tính đáng tin cậy của
công tác chăm sóc phẫu thuật có thể cứu mạng người bệnh và nâng cao sự tin tưởng
vào hệ thống y tế.