BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
BAN CHỈ ĐẠO CẢI CÁCH TƯ PHÁP
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 35-BC/CCTP
|
Hà Nội, ngày
12 tháng 3 năm 2014
|
BÁO CÁO TỔNG KẾT
8 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 49-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ
CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐẾN NĂM 2020
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ
Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” (sau đây gọi tắt là Chiến
lược cải cách tư pháp) là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới toàn
diện đất nước của Đảng. Qua 8 năm thực hiện đã đạt được một số thành tựu quan
trọng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp chưa
thực hiện được, trong đó có một số nhiệm vụ chưa được sự đồng thuận cao. Hoạt động
của các cơ quan tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trước
tình hình đó, Bộ Chính trị đã “giao Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương phối
hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành tổng kết toàn diện việc thực hiện
Chiến lược cải cách tư pháp…".[1] Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, Ban Chỉ đạo Cải cách tư
pháp Trung ương đã ban hành Kế hoạch tổng kết, thành lập Tổ công tác liên ngành
triển khai thực hiện Kế hoạch; hướng dẫn các tỉnh uỷ, thành ủy, các cơ quan, tổ
chức có liên quan ở Trung ương tiến hành tổng kết, báo cáo kết quả về Ban Chỉ đạo
(có 63/63 tỉnh uỷ, thành ủy và 12/13 cơ quan ở Trung ương gửi báo cáo); chỉ đạo
việc nghiên cứu xây dựng 09 báo cáo chuyên đề; tổ chức 10 đoàn công tác
đi khảo sát, kiểm tra đánh giá tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải
cách tư pháp tại 14 tỉnh, thành phố và một số cơ quan, tổ chức có liên quan ở
Trung ương; tổ chức hội thảo khoa học về phương pháp, tiêu chí đánh giá tổng kết
Chiến lược...
Ban Chỉ đạo đã xây dựng Dự thảo báo cáo tổng kết,
tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện
lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan, tổ chức có liên quan. Nhìn chung,
việc tổng kết Chiến lược cải cách tư pháp đã được thực hiện đúng yêu cầu, khách
quan, toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Tại phiên họp ngày
18-12-2013, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến
hoàn thiện Dự thảo Báo cáo trình Bộ Chính trị. Báo cáo tổng kết gồm 3 phần: Thứ
nhất là, kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp;
Thứ hai là, đánh giá tổng quát về ưu điểm, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân, bài
học kinh nghiệm, những yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện Chiến lược cải cách tư
pháp; Thứ ba là, kiến nghị bổ sung, điều chỉnh Chiến lược và
trách nhiệm tổ chức thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới.
PHẦN THỨ NHẤT
KIỂM ĐIỂM, ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP
I. Tình hình quán triệt, triển
khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
Sau khi Chiến lược cải cách tư pháp được ban
hành, Bộ Chính trị (khóa IX) đã chỉ đạo tổ chức hội nghị toàn quốc (gồm lãnh đạo
các tỉnh ủy, thành ủy và đại diện cấp ủy, tổ chức đảng, thủ trưởng các cơ quan,
tổ chức có liên quan ở Trung ương) để quán triệt, triển khai thực hiện. Phần lớn
đại biểu tham dự hội nghị đều đánh giá cao nội dung của Chiến lược cải cách tư
pháp. Cho rằng: Chiến lược cải cách tư pháp
đã kế thừa, phát huy những thành tựu của Nghị quyết số 08-NQ/TW; tiếp tục cụ thể
hóa các chủ trương, đường lối về cải cách tư pháp nêu trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; cập nhật được yếu tố tiến bộ của nền tư
pháp các nước phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhiều đại biểu bày tỏ
sự phấn khởi, tin tưởng Chiến lược cải cách tư pháp sẽ đem lại những chuyển biến
tích cực trong hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Căn cứ vào mục
tiêu, quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp, Ban
Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành các chương trình trọng tâm công
tác cải cách tư pháp của từng nhiệm kỳ và hàng năm; chỉ đạo xây dựng nhiều đề
án để triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể; định kỳ báo cáo tình hình, kết
quả với Bộ Chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp ở Trung
ương (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an) và các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đều thành lập Ban Chỉ đạo
Cải cách tư pháp[2] để chỉ
đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp tại cơ quan, tổ chức, địa phương
mình. Phần lớn Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp các Bộ, ngành, địa phương đều xây dựng
chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; thường
xuyên chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện và báo cáo kết quả với cấp ủy, tổ chức đảng
cùng cấp và Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương.
Bộ Chính trị
đã tổ chức nhiều phiên họp nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo việc triển khai thực
hiện và sơ kết việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong từng giai đoạn
(tiến hành sơ kết 3 năm và sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư
pháp). Trong nhiệm kỳ 2006-2011, Bộ
Chính trị khóa X đã thông qua Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án, viện
kiểm sát, cơ quan điều tra theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp[3]; chỉ đạo việc sửa đổi, bổ
sung, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật thể chế hoá các chủ trương,
chính sách về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và hoạt động bổ trợ tư pháp. Từ
đầu nhiệm kỳ khóa XI (năm 2011) đến nay, Bộ Chính trị đã có 05 phiên họp chuyên
đề về cải cách tư pháp, cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn còn một số nhiệm vụ quan trọng ý kiến khác nhau chưa được xem xét, kết
luận cụ thể, chậm thực hiện.
II. Về hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự
và thủ tục tố tụng tư pháp
Từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2013, Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành mới và sửa đổi, bổ sung 63 luật, pháp lệnh, nghị
quyết về các lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và tổ chức, hoạt động của
cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp. Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương đã
ban hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các văn bản chỉ đạo triển
khai thực hiện.
1. Trong lĩnh vực hình sự
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh, thay đổi biện pháp thi
hành án tử hình, quy định rõ việc không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử
hình đối với người chưa thành niên phạm tội; mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với một số tội, áp dụng mức án nhẹ hơn đối
với người chưa thành niên phạm tội (so với người đã thành niên); không áp dụng
hình phạt tiền đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; không áp
dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội; bỏ một số tội
danh ra khỏi Bộ luật hình sự.[4]
Đồng thời, đã điều chỉnh mức định lượng tối thiểu
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm về kinh tế và chức vụ.
Bổ sung quy định về một số tội phạm mới như: khủng bố, tài trợ khủng bố, mua bán
người, rửa tiền, chứng khoán, môi trường,
công nghệ thông tin (13 tội).[5] Việc sửa đổi các quy định nêu trên đã thể chế đúng đắn chủ
trương của Đảng nhằm tăng tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Luật
đặc xá (năm 2007) được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đặc xá, khoan hồng
những người cải tạo tốt, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước
ta đối với người bị kết án phạt tù.
2. Trong lĩnh vực dân sự
Đã sửa đổi Bộ
luật dân sự và ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực dân
sự, kinh tế, thương mại nhằm điều chỉnh các quan hệ theo hướng: tôn trọng
quyền tự do kinh doanh, xác lập các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại; hạn chế
sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào các quan hệ này; hình thành cơ
chế pháp lý bảo đảm thực thi tốt hơn quyền của các chủ thể trong giao dịch dân
sự, kinh tế, thương mại thúc đẩy các quan hệ phát triển lành mạnh; hoàn thiện
các quy định pháp luật, bảo vệ tốt hơn các quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tính mạng, sức khỏe, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
3. Trong lĩnh vực tố tụng
tư pháp
Đã ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nhiều
văn bản pháp luật về tố tụng[6].
Theo đó, đã phân định một bước thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng, tạo điều kiện cho thẩm phán, kiểm
sát viên, điều tra viên chủ động thực thi nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm về
hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật [7]; quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị và trách
nhiệm của người ra kháng nghị theo hướng hạn chế người có thẩm quyền kháng nghị,
xác định rõ chỉ có chánh án tòa án, viện trưởng viện kiểm sát mới có quyền ra
quyết định kháng nghị; quy định thời hạn kháng nghị dài hơn theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm; quy định chặt chẽ việc nộp đơn, thụ lý và xem xét đơn
đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng đảm bảo quyền nộp đơn của người dân
và đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm; bổ sung thẩm quyền xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Thể chế hóa bước đầu chủ trương "xét xử
theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định":
Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định 01 chương về việc xét xử rút gọn một số trường
hợp cụ thể với thời gian điều tra, truy tố, xét xử ngắn hơn thủ tục bình thường;
Bộ luật tố tụng dân sự quy định thủ tục xét xử rút gọn đối với một số loại việc
dân sự bởi 01 thẩm phán, không có Hội thẩm nhân dân tham gia. Chủ trương khuyến
khích giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài
đã được thể chế trong Luật Trọng tài thương mại với các quy định cụ thể, chặt
chẽ về phạm vi giải quyết, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thụ lý,
thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; hiệu lực pháp luật của
quyết định trọng tài; cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài. Luật
Hòa giải ở cơ sở được ban hành đã quy định chặt chẽ về nguyên tắc, thủ tục,
trình tự, tạo điều kiện cho người dân giải quyết các tranh chấp thông qua hòa
giải cơ sở, góp phần giảm số vụ, việc tại tòa án nhân dân.
Thể chế hóa chủ trương mở rộng thẩm quyền xét xử
của toà án nhân dân đối với các khiếu kiện hành chính: Luật tố tụng hành chính
(năm 2010) đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính của tòa
án; quy định điều kiện khởi kiện, thủ tục giải quyết vụ án rõ ràng, cụ thể hơn
so với trước đây; tạo điều kiện để công dân được lựa chọn khởi kiện hoặc
khiếu nại các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, công chức hành
chính; bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án.
Luật xử lý vi phạm hành chính (năm 2012) đã chuyển giao thẩm quyền xem xét, quyết
định áp dụng các biện pháp: đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục và cơ sở
cai nghiện bắt buộc từ uỷ ban nhân dân sang toà án nhân dân. Đây là một tiến bộ
mới, bảo đảm khách quan, minh bạch, đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người. Chủ
trương tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện cũng đã được Quốc hội
thể chế hóa và thực hiện thành công vào năm 2009 (từ 2004 - 2009). Một số tòa
án nhân dân địa phương đã chú trọng việc đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt
động của mình góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có việc đến
tòa án.
Nhìn chung, việc xây dựng, hoàn thiện chính
sách, pháp luật hình sự, dân sự và tố tụng tư pháp đã được các cấp, các ngành
quan tâm triển khai thực hiện đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tuy
nhiên, vẫn còn nhiều chủ trương chưa được thể chế hóa đầy đủ, kịp thời như:
tăng cường tranh tụng tại phiên tòa; phân định thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng; giảm hình phạt tù, mở rộng
áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ; quy định trách nhiệm
hình sự nghiêm khắc hơn đối với người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật,
những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; xác định rõ căn cứ tạm
giam, hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp
đối tượng người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam; hoàn thiện
cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn; phát triển một số loại hình dịch vụ tạo điều
kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ; xây dựng cơ chế phát huy sức
mạnh của nhân dân, các tổ chức đoàn thể trong giám sát hoạt động tư pháp… Việc
chậm trễ này có nguyên nhân chủ quan của các bộ, ngành chưa kịp thời nghiên cứu
đề xuất, nhưng cũng có nguyên nhân khác là do phải chờ sửa đổi Hiến pháp năm
1992.
III. Về việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp
1. Đối với Tòa án nhân
dân
Bỏ thẩm quyền xét xử sơ chung thẩm để đảm bảo thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét
xử; tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện; tăng cường và
nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa; mở rộng thẩm quyền xét xử của
tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, đổi mới thủ tục giải quyết các khiếu
kiện hành chính tại tòa án. Tòa án nhân dân được xác định có vị trí trung tâm của
hoạt động tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; quy định bổ nhiệm thẩm phán
theo ngạch sơ cấp, trung cấp thay cho việc bổ nhiệm theo cấp hành chính; áp dụng
chính sách tiền lương và phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên cho các chức danh tư
pháp ở tòa án; thực hiện lộ trình đổi mới về tổ chức hệ thống tòa án quân sự
theo hướng giảm bớt đầu mối các tòa quân sự khu vực và quân, binh chủng; tổ chức,
hoạt động của tòa án nhân dân từng bước được hoàn thiện, chất lượng xét xử được
nâng lên, hạn chế việc xét xử oan, sai. Tòa án nhân dân tối cao đã tập trung
nhiều hơn cho công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật; công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm có tiến bộ. Giao Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của ngành Tòa án; công tác đào tạo, bồi
dưỡng được quan tâm, tăng cường; xây dựng được cơ sở vật chất cho Trường đào tạo
cán bộ Tòa án (chuẩn bị nâng cấp thành Học viện Tòa án) khang trang. Việc tăng
thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện đã giúp giải quyết được
tình trạng tồn đọng án ở tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao. Đã chỉ đạo xây dựng phương án tổ chức hệ thống tòa án nhân
dân theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính (Nghị quyết số
49-NQ/TW) và tổ chức tòa án gồm 4 cấp (Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010). Việc
tổ chức tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực do còn nhiều ý kiến khác nhau nên Bộ
Chính trị giao Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tiếp tục nghiên cứu làm
rõ thêm một số vấn đề (Thông báo số 122-TB/TW ngày 25-2-2013). Ban Chỉ đạo đã tổ
chức nghiên cứu và có báo cáo riêng về những vấn đề do Bộ Chính trị yêu cầu
(Báo cáo số 32-BC/CCTP, ngày 30-12-2013).
Một số nhiệm vụ như: phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách
nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp...; đổi mới tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng, đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh; đổi mới mô hình tố tụng,
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa đang được Tòa án nhân dân tối
cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp nghiên cứu xây dựng đề án.
Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nhiều đề án đổi mới tổ chức,
hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội theo định hướng đã được xác định
trong Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Thực hiện nhiệm vụ nêu trên còn một số hạn chế
sau: Việc xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm
chưa được nghiên cứu và xác định đầy đủ, chưa có cơ chế đảm bảo vai trò trung
tâm của tòa án; tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của cải cách
tư pháp nhưng chưa được nghiên cứu xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể; nhận thức
của cán bộ tư pháp về tranh tụng chưa đầy đủ, toàn diện; việc tranh tụng còn
hình thức, hiệu quả chưa cao. Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân và mối
quan hệ giữa Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán trong quá trình xét xử các vụ án
chưa được quy định cụ thể; hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn mang tính hình
thức, có xu hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân.
2. Đối với Viện kiểm
sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn thành việc
nghiên cứu, xây dựng Đề án “nghiên cứu việc chuyển viện kiểm sát thành viện
công tố” báo cáo Ban Chỉ đạo trình Bộ Chính trị kết luận: Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
(được Hiến pháp năm 2013 quy định); Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ
thống tổ chức tòa án nhân dân. Đề án về mô hình tố tụng hình sự đã được Ban Chỉ
đạo cho ý kiến và thống nhất đề nghị Bộ Chính trị cho áp dụng mô hình tố tụng kết
hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng.
Thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công
tố trong giai đoạn điều tra, viện kiểm sát các cấp đã phân công kiểm sát viên
bám sát quá trình điều tra vụ án; kiểm sát chặt chẽ hơn việc thu thập chứng cứ,
lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết
37/2012/NQ-QH13 của Quốc hội, năm 2013 hoạt động của viện kiểm sát nhân dân có
những chuyển biến đáng kể, đã giải quyết được nhiều vướng mắc, hạn chế trong hoạt
động công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhiều năm qua; bám sát quá trình điều
tra để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, đẩy nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn
chế tình trạng điều tra kéo dài. Công tác xét, phê chuẩn việc khởi tố bị can, bắt
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, tạm giam bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Số người bị bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự đạt tỷ lệ cao[8]. Đã khắc phục phần lớn việc lạm dụng bắt khẩn cấp
và hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự; hạn chế đến mức thấp nhất việc bắt
oan, sai và tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đẩy nhanh tiến độ giải
quyết án; giảm nhiều trường hợp khởi tố, điều tra sau đó phải đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội. Số vụ án do viện kiểm sát truy tố
đạt tỷ lệ cao so với tổng số vụ án đã kết thúc điều tra.[9]
Viện kiểm sát nhân dân đã phối hợp với tòa án
nhân dân tổ chức nhiều phiên tòa mẫu; Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố tại
tòa đã tích cực, chủ động tham gia tranh luận với luật sư và các chủ thể khác
nhằm làm rõ chứng cứ luận tội, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của tòa án.
Thông qua hoạt động kiểm sát xét xử, viện kiểm sát nhân dân đã phát hiện kịp thời
các bản án, quyết định của toà án có vi phạm để kháng nghị, kiến nghị. Các
kháng nghị, kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân được tòa án nhân dân chấp
nhận đạt tỷ lệ cao.[10]
Thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp,
viện kiểm sát nhân dân đã tập trung kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng căn cứ tạm
giữ, tạm giam; phân loại giam, giữ, quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt
tù; phối hợp với các ngành có liên quan thực hiện tốt công tác tư vấn đặc xá. Đồng
thời, chú trọng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quản lý, giáo
dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ...; áp dụng nhiều biện pháp
nhằm tăng cường công tác kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, kịp thời phát
hiện những sai sót và yêu cầu khắc phục, hạn chế những thiệt hại của đương sự.
Viện kiểm sát quân sự đã được kiện toàn tổ chức, đảm bảo tập trung nguồn nhân lực,
tiết kiệm ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện
tổ chức, bộ máy của viện kiểm sát nhân dân vẫn còn một số hạn chế, đó là: Chưa
phân công rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được giao thực hành quyền
công tố và Kiểm sát viên được giao kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc phân định
rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt
động tố tụng của viện kiểm sát nhân dân, theo hướng tăng quyền và trách nhiệm
cho Kiểm sát viên để họ chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc
lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định tố tụng của
mình chậm được nghiên cứu và cụ thể hóa. Chưa có cơ chế kiểm tra từ bên ngoài đối với các hoạt động công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, hoạt
động điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3.3. Đối với các cơ quan điều tra
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan
điều tra được tổ chức ở 3 bộ, ngành với 5 hệ thống[11]. Ngoài ra còn có các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra[12].
Cơ quan điều tra trong Công
an nhân dân, với mô hình tổ chức hiện
nay có ưu điểm là: Được tổ chức chuyên sâu theo nhóm tội phạm, kết hợp hoạt động
trinh sát với hoạt động điều tra, khắc phục được tình trạng
án tồn đọng kéo dài; tập trung nhiệm vụ điều tra cho cơ sở để cơ quan điều tra
cấp trên có điều kiện tập trung lực lượng, phương tiện điều tra các vụ án đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp, liên tỉnh, xuyên quốc gia; huy động được đầy đủ và
nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu cầu điều tra vụ án, đáp ứng tốt nhất
yêu cầu khẩn trương, cấp bách của hoạt động điều tra. Cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã kịp thời áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, phát hiện tội phạm.
Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã từng bước được củng cố, kiện toàn và
tăng cường. Hoạt động điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều
tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được
chú trọng; việc xử lý tin báo, tố giác về tội phạm do Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có tiến bộ. Tiến độ điều tra các vụ án cơ bản được đảm bảo, chất lượng điều tra được
nâng lên.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân được tổ
chức theo mô hình: Hệ thống cơ quan điều tra hình sự (theo 3 cấp); hệ thống cơ
quan an ninh điều tra (theo 2 cấp). Việc thực hiện theo mô hình trên trong thời
gian qua đã thể hiện được tính ưu việt, hợp lý, phù hợp với tổ chức quân đội,
do vậy số lượng công việc phải giải quyết được phân bố tương đối đồng đều ở các
tòa án quân sự khu vực, viện kiểm sát quân sự khu vực;
công tác quản lý, lãnh đạo đối với cơ quan điều tra có nhiều
thuận lợi hơn.
Kết quả rõ nét nhất trong hoạt động điều tra là
tỷ lệ án kết thúc điều tra tăng lên rõ rệt, đạt trên 80% (trước đây chỉ đạt hơn 50%)[13]. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố vụ án, khởi tố bị can cơ bản được thực hiện đúng quy
định của pháp luật; khắc phục hiện tượng lạm dụng bắt khẩn cấp, “hình sự hoá”
các quan hệ dân sự, kinh tế và bắt oan, sai; các trường hợp đình chỉ điều tra
ngày càng giảm.
Tuy nhiên, mô hình cơ quan điều tra hiện nay
cũng bộc lộ một số hạn chế như: (1) còn nhiều đơn vị ở các bộ, ngành khác nhau cùng thực hiện nhiệm vụ điều
tra tố tụng; chưa xác định rõ cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về hoạt động điều tra; (2) việc tổ chức cơ quan điều tra ở một số nơi chưa hợp
lý, nhiều cơ quan điều tra số lượng án ít, nhưng vẫn phải tổ chức đầy đủ bộ máy
dẫn đến lãng phí về nhân lực và ngân sách; (3) chưa tách bạch rõ nhiệm vụ phòng
ngừa tội phạm và điều tra tố tụng; việc
kết hợp giữa hoạt động trinh sát và điều tra tố tụng chưa đúng yêu cầu của Chiến lược cải cách
tư pháp; (4) Viện Kiểm sát nhân dân tối cao vừa làm nhiệm vụ kiểm sát hoạt
động tư pháp vừa có cơ quan điều tra chuyên trách nhưng không có cơ chế kiểm tra từ bên ngoài nên khó đảm bảo tính khách quan trong hoạt động
điều tra; chất lượng điều tra của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; (5) việc giao cho nhiều cơ quan khác thực
hiện một số hoạt động điều tra với quyền hạn lớn (được khởi
tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra chuyển viện kiểm sát truy tố) dẫn đến có nhiều
cơ quan có thẩm quyền tố tụng.
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp và Kết luận
số 79-KL/TW, Ban Chỉ đạo giao Đảng ủy Công an Trung ương chủ trì xây dựng Đề án
tổ chức lại hệ thống cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu
mối, trong đó đưa ra 3 phương án. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của từng phương án, Đề án đã lựa chọn
phương án 1 cho mô hình tổ chức điều tra trong Công an nhân dân. Ban Chỉ đạo đã tổ chức 2 phiên họp cho ý kiến về Đề án. Tại phiên họp ngày 05-12-2013, Trưởng ban Ban
Chỉ đạo đã kết luận, giao Đảng ủy Công an
Trung ương tiếp tục hoàn thiện Đề án theo ý kiến của
các thành viên Ban Chỉ đạo để trình Bộ Chính trị xem xét, kết
luận (Tờ trình và Đề án kèm theo).
3.4. Đối với các cơ
quan thi hành án
Hệ thống các cơ quan thi hành án và quản lý thi
hành án hình sự, thi hành án dân sự, hành chính tiếp tục được kiện toàn theo hướng
xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước, mô hình tổ chức, bộ máy, thẩm quyền,
trách nhiệm của từng cơ quan trong lĩnh vực thi hành án. Luật thi hành án hình
sự năm 2010 đã thể chế hóa được nhiệm vụ của uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc
thi hành các hình phạt ngoài tù và trách nhiệm của các cơ quan công an, quân đội
giúp ủy ban nhân dân các cấp thi hành các hình phạt này. Luật thi hành án dân sự
năm 2008, Luật tố tụng hành chính năm 2010 đã quy định rõ hệ thống thi hành án
dân sự, xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của cơ quan thi hành án, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động thi hành án dân sự, thi hành
án hành chính. Triển khai thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa một số công
việc về thi hành án, đã thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố
Hồ Chí Minh. Thực tiễn hoạt động của các văn phòng thừa phát lại bước đầu đã đạt
được kết quả, phù hợp với yêu cầu của xã hội. Ngoài việc củng cố kiện toàn tổ
chức các cơ quan thi hành án, lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp được thành lập
cũng đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ hoạt động xét xử, thi hành án.
Công tác thi hành án và quản lý thi hành án phạt
tù có nhiều chuyển biến tích cực, công tác dạy nghề được quan tâm; các trại
giam, trại tạm giam được bảo vệ an toàn. Việc thi hành án tử hình đã đổi mới
theo hướng nhân đạo hơn, thông qua việc thay thế hình thức xử bắn bằng hình thức
tiêm thuốc. Việc thi hành án treo, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư
trú, quản chế, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định được giao cho cơ quan thi hành án hình sự công an
cấp huyện tiếp nhận để chuyển giao cho ủy ban nhân dân cấp xã thi hành. Thi
hành hình phạt trục xuất giao cho cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh
thực hiện nên việc quản lý tập trung hơn. Các quyết định áp dụng biện pháp tư
pháp trước đây không giao cho cơ quan nào theo dõi, nay giao cơ quan thi hành
án hình sự công an cấp huyện quản lý, theo dõi. Việc tái hòa nhập cộng đồng được
quan tâm thực hiện, thu được những kết quả tích cực.[14] Việc thực hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng
đối với người phạm tội được tiến hành công khai, khách quan, đúng quy trình, thủ
tục.
Kết quả thi hành án dân sự (kể cả trong Quân đội)
có chuyển biến tích cực, năm sau cao hơn năm trước cả về số việc, số tiền thu
được và tỷ lệ thi hành xong trên số có điều kiện thi hành[15]. Từ khi Luật tố tụng hành chính năm 2010 có hiệu
lực, việc thi hành án hành chính đã đạt được một số kết quả nhất định[16].
Trong quá trình thực hiện chủ trương chuẩn bị điều
kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất
quản lý công tác thi hành án, do còn nhiều ý kiến khác nhau nên thực hiện chưa
có kết quả. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo đã tổ chức
nghiên cứu xây dựng Đề án “Về thực hiện việc quản lý công tác thi hành án”, hướng
dẫn các bộ, ngành, cấp ủy, tổ chức đảng ở trung ương và các tỉnh uỷ, thành ủy
trong phạm vi trách nhiệm của mình tiến hành tổng kết và báo cáo kết quả 20 năm
công tác thi hành án (1993-2013). Đề án được Ban Chỉ đạo cho ý kiến tại phiên họp
ngày 09-11-2013 để hoàn thiện trình Bộ Chính trị cùng với Báo cáo kết quả tổng
kết Nghị quyết 49-NQ/TW… (Báo cáo số 33-BC/CCTP, ngày 30-12-2013). Công
tác thi hành án và quản lý thi hành án vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, cụ thể
là: (1) Chưa có cơ chế đảm bảo vai trò của tòa án nhân dân trong lĩnh vực thi
hành án, giữa hoạt động xét xử với thi hành án có sự cắt khúc, tách rời. Vì vậy,
tòa án nhân dân không nắm được tình hình và kết quả thi hành án, không phát hiện
kịp thời và chưa gắn trách nhiệm đối với những hạn chế, sai sót của bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật. (2) Chưa phân công đầy đủ thẩm quyền và
trách nhiệm cho ủy ban nhân dân địa phương thực hiện việc quản lý công tác thi
hành án đã dẫn đến những vướng mắc trong thực tiễn quản lý, tổ chức thi hành
án. Công tác quản lý, phối hợp của Bộ Tư pháp với địa phương chưa thật sự nhịp
nhàng; thông tin hai chiều chưa đầy đủ, kịp thời, công tác đánh giá, bố trí cán
bộ chủ chốt của cơ quan thi hành án dân sự (nhất là của người đứng đầu) trong một
số trường hợp chưa thống nhất do việc phân công chưa hợp lý nên nhiều nơi cấp ủy,
chính quyền địa phương, coi nhiệm vụ thi hành án dân sự, hành chính là nhiệm vụ
riêng của ngành Tư pháp; mức độ quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ công tác
thi hành án dân sự chưa nhiều. (3) Tổ chức bộ máy cơ quan thi
hành án hình sự, dân sự thuộc Bộ Quốc phòng còn phân tán thiếu tập trung, thống
nhất. Việc tổ chức các trại giam trong quân đội nhân dân còn dàn trải, chưa tiết
kiệm. (4) Chưa xác định rõ vị trí, tính chất của hoạt động thi hành án nên chưa
phân định rõ phạm vi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong công tác kiểm
sát, thanh tra, kiểm tra, dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót hoạt động
kiểm tra, thanh tra, kiểm sát đối với công tác thi hành án.
IV. Về việc hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp
4.1. Đối với luật sư
Thực hiện
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức, hoạt động
của luật sư[17] và các tổ
chức hành nghề, tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư đã được thành lập ở hầu
hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ở Trung ương, Liên đoàn Luật sư
Việt Nam được thành lập, đi vào hoạt động có hiệu quả bước đầu[18]. Đội ngũ luật sư được
đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nhanh về số lượng; trình độ năng lực được nâng
lên.[19] Cơ chế trách
nhiệm của luật sư và việc phát huy vai trò tự quản của các đoàn luật sư, Liên
đoàn luật sư từng bước được hoàn thiện. Các vụ việc được luật sư tư vấn,
tham gia bào chữa và trợ giúp pháp lý ngày càng tăng[20]. Nhiều luật
sư đã tích cực tranh tụng, tạo không khí dân chủ tại phiên tòa. Công tác
quản lý nhà nước về luật sư được quan tâm thực hiện và có một số tiến bộ, thẩm
quyền của luật sư được mở rộng, các cơ quan tư pháp cũng đã cộng tác tốt để luật
sư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật, góp phần
đảm bảo quyền được bào chữa của bị can, bị cáo. Vai trò của luật sư từng bước
được khẳng định trong đời sống chính trị, pháp lý của đất nước.
4.2. Đối với giám định tư pháp
Đã ban hành Luật giám định tư pháp và các văn bản
hướng dẫn thi hành, thể chế hóa bước đầu chủ trương xã hội
hóa hoạt động giám định tư pháp[21] tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc kiện toàn, phát triển
các tổ chức giám định tư pháp trong và ngoài nhà nước. Hệ thống tổ chức giám định
tư pháp từng bước được kiện toàn. Ở Trung ương, hiện có 4 tổ chức giám định tư
pháp là: Viện Pháp y quốc gia, Viện Pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế,
Viện Pháp y Quân đội thuộc Bộ Quốc phòng và Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công
an; Bộ Y tế đang xây dựng đề án thành lập các trung tâm
pháp y tâm thần khu vực. Ở các địa phương đang thành lập các trung tâm giám định
pháp y thuộc Sở Y tế, Phòng giám định pháp y thuộc bệnh viện
đa khoa cấp tỉnh. Các tổ chức giám định kỹ thuật hình sự của công an tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương được kiện toàn, tiếp tục hoạt động nền nếp.
Nhìn chung, hiệu quả hoạt động của các tổ chức giám định từng bước được nâng
lên, cơ bản đáp ứng yêu cầu hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và nhu cầu khác của xã hội. Cơ sở vật chất, trang - thiết bị kỹ thuật
cho các tổ chức giám định tư pháp Nhà nước đã được quan tâm đầu tư từng bước.
4.3. Đối với công chứng
Luật công chứng năm 2006 có hiệu lực thi hành cơ
bản khắc phục những vướng mắc trong hoạt động công chứng, chứng thực; phân biệt
rõ giữa công chứng và chứng thực; quy định rõ giá trị pháp lý của văn bản công
chứng. Thực hiện xã hội hóa hoạt động công
chứng được xã hội đồng tình cao, giảm tải được số
lượng vụ việc cho các phòng công chứng nhà nước, tạo điều kiện để người dân có
thêm sự lựa chọn khi có nhu cầu công chứng. Tổ chức hành nghề công chứng và các
công chứng viên có sự phát triển nhanh về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng[22]. Cơ chế phát huy tính tự
quản trong hoạt động công chứng đã được hoàn thiện một bước. Ở một số địa
phương đã thành lập hội công chứng; Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của Liên minh công chứng quốc tế (UINL).
Thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện chế định bổ trợ tư
pháp vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc. Đối với luật sư, việc
kiện toàn tổ chức và phát triển luật sư của một số đoàn luật
sư còn chậm; đội ngũ luật sư phát triển nhanh nhưng chưa đồng đều,
thiếu bền vững; trình độ năng lực, kinh nghiệm, kiến
thức chuyên sâu và kỹ năng nghề nghiệp chưa thực sự đáp ứng kịp nhu cầu của xã
hội và yêu cầu cải cách tư pháp. Trong đó, có nguyên nhân là chưa có cơ chế đảm
bảo phát triển luật sư ổn định, luật sư chưa có cơ hội tham gia nhiều hơn vào
hoạt động tố tụng. Hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tư vấn, trợ
giúp pháp lý trong các vụ án hình sự thấp; chưa có đội ngũ luật sư giỏi để có
thể tham gia có hiệu quả các tranh chấp quốc tế. Còn một bộ phận luật sư chưa
thực sự đề cao tinh thần trách nhiệm và ý thức bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; chưa thực
hiện nghiêm túc quy tắc đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy
tín của luật sư. Một số cán bộ tư pháp chưa tạo điều kiện thuận lợi để
luật sư tham gia tố tụng. Đối với giám định tư pháp, một số
nhiệm vụ nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp như:
“quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện
giám định; ban hành quy chuẩn giám định trong từng lĩnh vực, xác định rõ cơ chế
đánh giá kết luận giám định…” chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ. Việc đầu tư
kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ giám định
chưa đáp ứng yêu cầu của công tác giám định. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, giám định
viên chuyên trách làm việc trong tổ chức giám định nhà nước còn thiếu, nhất là
trong lĩnh vực pháp y và pháp y tâm thần. Việc kiện toàn tổ chức giám định pháp
y ở địa phương theo quy định của Luật giám định tư pháp còn chậm. Năng lực giám
định tư pháp trong các lĩnh vực về tài chính, ngân hàng, xây dựng, chuyên ngành
kỹ thuật trong nhiều vụ án lớn còn hạn chế, thời gian kéo dài, kết luận thiếu
rõ ràng... làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động tố tụng. Năng lực của các cơ
quan tố tụng trong việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định còn yếu, lúng
túng, đôi khi đưa ra những yêu cầu không hợp lý. Hoạt động giám định tư pháp
còn nhiều hạn chế, chưa phục vụ kịp thời các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử. Chế độ, chính sách cho người giám định chưa tương xứng với
trách nhiệm. Việc giám định trong lĩnh vực tài chính, công trình xây dựng...
thường bị kéo dài đã ảnh hưởng đến kết quả, tiến độ xử lý các vụ án, nhất là án
kinh tế, tham nhũng. Công tác quản lý nhà nước về tổ chức, hoạt động luật sư,
công chứng, giám định còn một số mặt yếu kém, công tác thanh tra, kiểm tra chưa
được tiến hành thường xuyên. Hoạt động công chứng còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi
ro (nhất là công chứng tư nhân), nhưng chưa có cơ chế bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi
ích cho cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động công chứng.
V. Về việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch,
vững mạnh
5.1. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ
Các trường đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề, bồi
dưỡng nghiệp vụ về tư pháp đã phát triển nhanh về số lượng, đến nay đã có gần 50 cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật và đào tạo nghề, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
các đề án: Xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội và Trường Đại học luật Thành phố
Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật; Xây dựng Học
viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp; thành lập Trường
Đại học Kiểm sát Hà Nội. Các trường đã đào tạo số lượng lớn cử nhân, thạc sĩ,
tiến sĩ luật, thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư, chấp hành viên,
công chứng viên... bước đầu đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa trình độ cán
bộ các cơ quan tư pháp[23].
Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã cử nhiều cán
bộ, công chức đi đào tạo trên đại học, bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp
vụ và ngoại ngữ tại nước ngoài theo các chương trình, đề án của Nhà nước và các
dự án quốc tế[24].
5.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ
Tính đến năm
2013 ngành Tòa án nhân dân có 4.957 thẩm phán các cấp trên tổng số 13.624 cán bộ, công chức; ngành Kiểm sát nhân
dân có 10.424 kiểm sát viên các cấp và 35 điều tra viên cao cấp trên tổng số
15.860 cán bộ, công chức. Hầu hết đã đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa trình độ cán bộ có chức danh tư pháp. Cơ quan điều tra thuộc lực lượng Công
an nhân dân có 32.592 cán bộ, chiến sỹ làm công tác điều tra, trong đó có
13.321 Điều tra viên có trình độ Đại học An ninh hoặc Đại học Cảnh sát hoặc Đại
học Luật trở lên. Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng có 673 người, gồm Điều
tra viên các cấp và Trợ lý điều tra hình sự, 100% có trình độ đại học, cao đẳng
trở lên. Các cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an có 39.319 người,
gồm cán bộ, chiến sỹ công tác tại cơ quan thi hành án hình sự và hỗ trợ tư
pháp, các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, hạ sỹ quan, chiến sỹ phục vụ
có thời hạn. Hệ thống thi
hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có 8.989 người, hệ thống thi hành án dân sự
trong Quân đội nhân dân có 114 người, 100% Chấp hành viên và Thẩm tra viên có
trình độ cử nhân Luật trở lên. Đội ngũ luật sư hiện nay có 8.500 người hành nghề
luật sư và 3.500 người tập sự. Đội ngũ giám định viên tư pháp có 4.095 người và
990 người giám định tư pháp theo vụ việc. Đội ngũ công chứng viên hiện có 1.327
người đang hành nghề. Các chức danh bổ trợ tư pháp đều có trình độ cử nhân luật
trở lên và được đào tạo nghề trước khi bổ nhiệm.
Hạn chế, vướng mắc: Công tác đào tạo
cán bộ pháp luật, đào tạo nghề cho các chức danh tư pháp phân tán, khó thực hiện
được mục tiêu nâng mặt bằng chất lượng cán bộ tư pháp và phục vụ nhiệm vụ nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; công tác đào tạo, bồi dưỡng định kỳ,
thường xuyên, cập nhật các kiến thức mới và chuyên sâu theo từng lĩnh vực cho
cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, thực
hiện chưa có nền nếp, ổn định. Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chưa được
trang bị kiến thức, kỹ năng tranh tụng và điều hành phiên tòa tranh tụng. Việc
xây dựng cơ chế thi tuyển để chọn người bổ
nhiệm vào các chức danh tư pháp mới chỉ thực hiện đối với
Chấp hành viên ngành Thi hành án dân sự .
VI. Về việc hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp
6.1. Về công tác giám sát
của các cơ quan dân cử
Thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế giám sát của
cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp, Quốc hội đã nghiên cứu xây dựng một số
đề án, ban hành, sửa đổi, bổ sung một số luật, nghị quyết có liên quan[25]. Nhằm tăng cường và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát việc thi hành pháp luật trong hoạt động tư
pháp, Quốc hội đã thành lập Ủy ban Tư pháp; Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đã kiện toàn ban pháp chế để giúp Hội đồng nhân dân
thực hiện nhiệm vụ giám sát các cơ quan tư pháp.
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đối với
các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp được đổi mới về phương thức, tăng cường về số lần và
nâng cao chất lượng. Hoạt động xem xét các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chính phủ về
công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án và
phòng, chống tham nhũng ngày càng được quan tâm. Tại kỳ họp thứ 4 và thứ 6 nhiệm
kỳ Khóa XIII, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23-11-2012
“về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm
sát nhân dân, của toà án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013” và Nghị quyết
số 63/2013/QH13 ngày 27-11-2013 “về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm” là một bước phát triển mới trong công tác giám sát của Quốc hội.
Ngoài ra, Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội còn tổ chức các phiên điều trần nghe báo cáo giải trình, xem xét
các báo cáo kết quả giám sát, tiến hành giám sát và ban hành Nghị quyết về kết
quả giám sát; đồng thời, tăng cường công tác giám sát việc giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức
nhiều đoàn giám sát, khảo sát về công tác tư pháp và việc giải quyết một số vụ
án khiếu nại bức xúc, kéo dài ở địa phương; kiến nghị, yêu
cầu các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết hoặc tiến hành giám sát trực
tiếp, góp phần khắc phục một số hạn chế, từng bước chấn chỉnh
những sai sót trong hoạt động của các cơ quan tư pháp ở địa phương.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện đối với hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp ở địa phương được
quan tâm thực hiện có chuyển biến bước đầu; một số địa phương đã đề ra các giải
pháp hỗ trợ các cơ quan tư pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
6.2. Về công tác giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt
trận đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp vào các hoạt động: tuyển chọn thẩm
phán, kiểm sát viên; giới thiệu hội thẩm nhân dân; cử bào chữa viên nhân dân;
tham gia công tác đặc xá, giáo dục, cảm hóa người phạm tội; giúp đỡ người đã chấp
hành xong hình phạt tù, tái hòa nhập
cộng đồng; tiếp nhận và đề nghị giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo có liên quan đến hoạt động tư pháp, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.[26] Các phương tiện thông tin đại chúng đã chủ động,
tích cực hơn trong việc tuyên truyền, đưa thông tin về hoạt động tư pháp; đã có
những phóng sự điều tra, đưa tin góp phần làm sáng tỏ nhiều vụ, việc sai phạm,
thiếu sót trong hoạt động tư pháp.
Hạn chế, vướng mắc chủ yếu trong công tác giám
sát: chưa tiến hành thường xuyên các hoạt động giám sát theo chuyên đề; việc tổ
chức giám sát còn mang tính hình thức, chủ yếu dựa vào báo cáo của các cơ quan
chịu sự giám sát; chưa đầu tư thời gian nghiên cứu thực tế, tài liệu, thông tin
nên báo cáo kết luận giám sát còn chung chung, hiệu lực, hiệu quả không cao. Việc
theo dõi sau giám sát còn buông lỏng, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết
kiến nghị. Công tác giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật,
pháp lệnh ít được quan tâm; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư
pháp chưa có nền nếp, hiệu quả chưa cao. Việc giám sát của Hội đồng nhân
dân đối với hoạt động các cơ quan tư pháp tại kỳ họp còn nặng về hình thức, phần
lớn các địa phương chưa thực hiện việc ban hành nghị quyết riêng về hoạt động
tư pháp. Hạn chế nêu trên có nguyên nhân là đại biểu hội đồng nhân dân hầu hết
đều kiêm nhiệm, nhiều đại biểu có tâm lý nể nang, ngại va chạm nên chưa phát
huy vai trò trong giám sát, chất vấn. Hội đồng nhân dân cấp huyện không có ban
chuyên môn, đại biểu lại được bầu theo cơ cấu nên khó có điều kiện thực hiện được
việc giám sát công tác tư pháp. Các quy định về giám sát thiếu cụ thể, chưa có
cơ chế động viên nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia
giám sát nên chưa phát huy được vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động
tư pháp.
VII. Về việc tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp
Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW, Quốc hội
và các cơ quan có liên quan đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới một số văn bản
quy phạm pháp luật về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp. Trên cơ sở đó đã
tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tư pháp tiến hành đàm phán, ký kết, thực
hiện các thỏa thuận và cam kết quốc tế; kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường
đào tạo cán bộ; cử nhiều đoàn đại biểu tham gia các diễn đàn quốc tế về tư pháp
và tổ chức các đoàn đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm các nước có nền tư pháp
tiên tiến. Thường xuyên chỉ đạo việc đàm phán, ký kết, tổ chức thực hiện nghiêm
túc các điều ước, cam kết, thỏa thuận quốc tế. Tranh thủ sự hỗ trợ của các quốc
gia và các tổ chức quốc tế cho công tác nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới. Thông qua đó đã tiếp cận, thu thập được
nhiều thông tin, kinh nghiệm bổ ích, góp phần hoàn thiện tổ
chức, bộ máy và chính sách, pháp luật về tư pháp. Ngoài ra các cơ quan
tư pháp còn gửi nhiều yêu cầu ủy thác, tương trợ tư pháp của Việt Nam cho nước
ngoài và tiếp nhận xử lý nhiều hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp của một số nước
(về hình sự, dân sự, dẫn độ và chuyển giao người bị kết án phạt tù); công nhận
cho thi hành tại Việt Nam nhiều bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
và quyết định trọng tài nước ngoài. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ về tư pháp
và pháp luật với hơn 80 quốc gia và tổ chức quốc tế. Đặc biệt gần đây, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Công tố viên
quốc tế (năm 2012); chính thức trở thành thành viên của Hội nghị Lahay về
tư pháp quốc tế (năm 2013); được bầu (năm 2013) và
trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc vào đầu năm 2014; trở
thành thành viên của Liên minh công chứng quốc tế (năm 2013).
Hạn chế, vướng mắc: Việc phân công phối hợp
đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện một số điều ước quốc tế về tư pháp vẫn
chưa thực sự hợp lý, đồng bộ; chưa ký kết được các Hiệp định tương trợ tư pháp
với một số nước có nhiều người Việt Nam sinh sống; chưa thực
sự đề cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực
thù địch. Công tác tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm về hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực tư pháp chưa được tiến hành thường xuyên, toàn diện.
Công tác đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại
ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp chưa thật sự được chú trọng, còn phân tán,
hiệu quả chưa cao. Việc trao đổi, tham khảo kinh nghiệm về mô hình tổ chức hoạt
động của các cơ quan tư pháp nước ngoài còn dàn trải, trùng lặp, chưa có kế hoạch
thống nhất và ít chia sẻ thông tin nghiên cứu, dẫn đến lãng phí.
VIII. Về việc bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp
Chính phủ, các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa
phương luôn quan tâm, cấp kinh phí hoạt động; đầu tư xây dựng trụ sở, nhà làm
việc, kho tang vật, trường đào tạo, bồi dưỡng, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm
giữ, cơ sở giáo dục, cải tạo... từng bước khang trang, có chất lượng.[27] Phương tiện làm việc,
trang bị kỹ thuật, phương tiện đi lại về cơ bản đã được bảo đảm, tạo
điều kiện thuận lợi để các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp thực hiện có hiệu
quả chức năng nhiệm vụ được giao. Các dự án được đầu tư giai đoạn 2006-2013 cho
các cơ quan tư pháp cơ bản đáp ứng được yêu cầu trước mắt.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về định
mức phân bổ dự toán chi, trong đó định mức chi thường xuyên phục vụ hoạt động của
các cơ quan tư pháp cao hơn so với các bộ, cơ quan Trung ương cùng quy mô biên
chế (1,57 lần); Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan kiểm sát, tòa án, thi hành
án từ nguồn ngân sách địa phương. Từng bước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang bị, phương tiện làm việc và ưu tiên bố trí kinh phí phục vụ công tác điều
tra, kiểm sát, xét xử, giám định tư pháp, thi hành án phù hợp điều kiện kinh tế
của đất nước. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân
dân, Kiểm sát nhân dân, Thi hành án đã từng bước được bổ sung, góp phần động
viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hạn chế, vướng mắc: Việc nghiên cứu đổi mới,
hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách phục vụ hoạt động tư pháp và việc nghiên cứu,
đề xuất đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, khen thưởng đối với các cán bộ
tư pháp còn chậm, chưa thực hiện đúng yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp.
Việc ưu tiên bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ
công tác điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án còn hạn chế; ngân
sách nhà nước hằng năm mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu. Việc
quy hoạch hệ thống trụ sở làm việc, trường đào tạo, bồi dưỡng; trại giam, trại
tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục, cải tạo, kho vật chứng phục vụ cho hoạt
động của các cơ quan tư pháp còn chắp vá.
IX. Về việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
Thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược cải cách
tư pháp và các quy định của Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động tư
pháp, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức
đảng trực thuộc Trung ương đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tư pháp; tập trung lãnh đạo chặt chẽ về chính trị tư
tưởng, tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp. Công tác đào tạo,
quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã được
các cấp ủy đảng thực hiện thường xuyên, có hiệu quả. Phần lớn các địa phương đều
phân công đồng chí cấp ủy viên (hoặc thường vụ) tỉnh uỷ, thành ủy có trình độ chuyên môn, có năng lực, uy tín và bản
lĩnh làm viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và chánh án toà án nhân dân các cấp[28]. Trong các nhiệm kỳ Đại
hội Đảng lần thứ X và XI, Bộ Chính trị phân công đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Ủy viên Ban Bí thư Trung ương làm Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao; nhiều cán bộ lãnh đạo kiểm sát và tòa án là đại biểu Quốc hội.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Hội Luật gia Việt
Nam, Đại hội Luật sư Việt Nam và thành lập tổ chức Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07-7-2007 và Hướng dẫn thi
hành số 01-HD/TW, ngày 18-11-2010 về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo
vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng.
Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực
pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày
30-3-2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của
luật sư kịp thời đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Các cấp ủy đảng ở địa
phương đã định kỳ tổ chức nghe các cơ quan tư pháp báo cáo tình hình hoạt động
tư pháp và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Công tác xây dựng Đảng,
giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên được tăng
cường; hệ thống cơ quan tham mưu về công tác nội chính được tái thành lập từ
Trung ương đến các tỉnh uỷ, thành ủy, có chức năng tham mưu cho cấp ủy cùng cấp
về các chủ trương và chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính và phòng, chống
tham nhũng.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế: Việc lãnh đạo và chỉ đạo nghiên cứu thực hiện một số chủ trương của Nghị
quyết số 49-NQ/TW về đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác
tư pháp còn chậm, chưa toàn diện. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số
cấp uỷ, tổ chức đảng ở địa phương trong việc triển khai thực hiện các
nhiệm vụ cải cách tư pháp và công tác tư pháp chưa chặt chẽ, chưa đánh giá hết
tầm quan trọng của công tác tư pháp trong xây dựng chính quyền. Việc bố
trí cán bộ tham mưu về công tác tư pháp và cải cách tư pháp ở một số nơi chưa
phù hợp, nên chất lượng tham mưu chưa cao; một số cán bộ tư pháp khi giải quyết
vụ việc thiếu bản lĩnh, nể nang, không thực hiện đúng các quy định của Đảng làm
ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động tư pháp. Việc thực hiện Chỉ thị số
15-CT/TW và Hướng dẫn số 01-HD/TW của Bộ Chính trị ở một số nơi chưa thực sự
đúng, có biểu hiện lạm dụng việc báo cáo xin ý kiến. Việc hoàn thiện cơ chế về
mối quan hệ công tác giữa cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan tư pháp với lãnh đạo
cơ quan tư pháp còn chậm; hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đối với đảng
viên chưa cao, chưa kịp thời phát hiện sai phạm để uốn nắn, chấn chỉnh. Công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ quan tư pháp các cấp chưa bảo đảm cơ
cấu (về độ tuổi, số lượng cán bộ nữ, cán bộ dân tộc); công tác luân chuyển cán
bộ ngành Tư pháp giữa trung ương và địa phương còn khó khăn, chưa đi vào nền nếp.
PHẦN THỨ HAI
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT
QUẢ, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG YÊU CẦU DO TÌNH HÌNH MỚI
ĐẶT RA
I- Đánh giá tổng quát kết quả, hạn chế và nguyên nhân
Căn cứ tình
hình, kết quả triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
có thể khẳng định mục tiêu, quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư
pháp do Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đã được các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc
Trung ương triển khai thực hiện tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng
bước đầu, đáng lưu ý là:
1. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân về vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về sự cần thiết phải tiến hành và đẩy mạnh
cải cách tư pháp đã được nâng lên rõ rệt. Phần lớn các cấp ủy, tổ chức đảng
trong các cơ quan tư pháp Trung ương và các tỉnh uỷ, thành ủy trực thuộc Trung
ương đều thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp để giúp cấp ủy triển khai thực
hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp tại cơ quan, tổ chức, địa phương mình.
2. Công tác
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tư pháp được quan tâm hơn trước. Hệ thống
pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và tổ chức bộ máy các cơ
quan tư pháp từng bước được sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện theo đúng định hướng của Đảng về cải cách tư pháp. Thể
chế hóa được các chủ trương nhân đạo của Đảng trong chính
sách pháp luật về hình sự; Pháp luật
dân sự đã bổ sung, hình
thành các cơ chế pháp lý thúc đẩy các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại
phát triển lành mạnh, bước đầu đáp ứng được yêu cầu phát triển của
xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Pháp
luật về tố tụng tư pháp từng bước được hoàn thiện, nghiên cứu xác định lại mô hình tố tụng theo hướng kết hợp giữa mô hình tố tụng
thẩm vấn với tố tụng tranh tụng, nhằm tăng tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động
tố tụng và bình đẳng giữa các chủ thể tham
gia tố tụng.
3. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy và xác định chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp đạt một số kết quả bước đầu:
Xây dựng xong một số đề án về đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư
pháp, xác định rõ mô hình tổ chức của hệ thống tòa án nhân dân 4 cấp, theo cấp
xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; viện kiểm sát nhân dân được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án nhân dân. Thực hiện thành công một số
nhiệm vụ: Tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện, khắc phục tình
trạng tồn đọng án ở tòa án cấp tỉnh và tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân tối cao.
Mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân đối với các khiếu kiện hành
chính; giao tòa án nhân dân thẩm quyền xem xét, quyết định
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục bắt buộc và cơ sở cai nghiện bắt buộc. Triển khai bước đầu yêu cầu
tăng cường tranh tụng tại phiên tòa. Hệ thống pháp luật về thi hành án được
hoàn thiện cơ bản; tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án hình sự, cơ
quan thi hành án dân sự, hành chính được kiện toàn, công tác thi hành án đạt được
kết quả tích cực. Vai trò của lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư
pháp sau khi được thành lập được phát huy. Việc thí điểm thực hiện chế định Thừa
phát lại được tiến hành tại thành phố Hồ Chí Minh (từ 2010 - 2012) thu được những
kết quả bước đầu tích cực, được xã hội đồng tình, đang tiếp tục mở rộng việc
thí điểm ra các tỉnh, thành phố khác.
4. Tiếp tục đổi mới, tổ chức và hoạt động công
chứng, giám định, luật sư... theo định hướng của Đảng, phục vụ có hiệu quả công
tác điều tra, truy tố xét xử và đáp ứng được bước đầu yêu cầu của xã hội; đội
ngũ luật sư phát triển nhanh về số lượng. Số vụ việc luật sư tư vấn, tham gia
bào chữa và trợ giúp pháp lý ngày càng tăng. Vai trò của luật sư từng bước được
khẳng định. Việc xã hội hóa hoạt động công chứng đã thành công bước đầu, giảm tải
được nhiều vụ việc cho các phòng công chứng nhà nước, phục vụ kịp thời nhu cầu
của người dân. Kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp đem lại
những hiệu quả bước đầu, đáp ứng kịp thời các yêu cầu về đội ngũ cán bộ cho các
cơ quan tư pháp và xã hội, góp phần thực hiện được việc chuẩn hóa trình độ đội
ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp.
5. Thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế giám sát
của cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp, Quốc hội đã hoàn thiện bước đầu hệ
thống pháp luật về tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân
các cấp. Các hoạt động giám sát, chất vấn, điều trần đối với hoạt động tư pháp
được tăng cường; Quốc hội đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề về công tác
tư pháp.
6. Việc tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực
tư pháp đạt được một số kết quả quan trọng. Thể chế hóa được các chủ trương của
Đảng về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật, xác định rõ cơ
quan quản lý nhà nước và cơ quan làm đầu mối trong hợp tác, tương trợ tư pháp.
Việc nhanh chóng mở rộng quan hệ về tư pháp và pháp luật với nhiều quốc gia và
tổ chức quốc tế đã đánh dấu sự hội nhập ngày
càng sâu rộng của Việt Nam vào đời sống pháp lý quốc tế, minh chứng cho
tinh thần sẵn sàng hợp tác của Việt Nam với các nước và khẳng định vai trò, vị
thế của các cơ quan tư pháp Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực. Việc đảm bảo
cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp được Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan
và chính quyền địa phương quan tâm. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn,
kinh phí đầu tư phát triển và đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn được
ưu tiên phân bổ ngân sách cao hơn so với các cơ quan nhà nước khác; chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức tư pháp từng bước được cải thiện.
7. Việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với công tác tư pháp được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo; ban hành
nhiều văn bản quy định rõ cơ chế lãnh đạo về chính trị, tổ chức và công tác cán
bộ. Tích cực thực hiện công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra,
giám sát và kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên. Vai trò, vị thế của các
cơ quan tư pháp được khẳng định, đặc biệt toà án nhân dân được xác định là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nguyên tắc "quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Hệ thống cơ quan tham
mưu về công tác nội chính được tái lập và kiện toàn từ Trung ương đến các tỉnh
uỷ, thành ủy.
Nhìn chung, qua 8 năm thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp tuy mới đạt kết quả bước đầu nhưng hoạt động tư pháp đã được cải
thiện đáng kể; hệ thống pháp luật về tư pháp được hoàn thiện hơn; công tác điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án và việc bắt giam giữ, cải tạo từng bước được
thực hiện nghiêm minh, dân chủ, công bằng hơn. Các quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại, các chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn ngày càng được hoàn thiện,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc
tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện
Chiến lược cải cách tư pháp vẫn còn một số hạn chế cơ bản sau đây: (1) Công tác
triển khai, tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư pháp thiếu đồng bộ,
chưa theo đúng lộ trình đề ra. Còn nhiều nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải
cách tư pháp chưa được thực hiện. Có một số vấn đề khi triển khai thực hiện còn
ý kiến khác nhau nhưng chưa được kết luận rõ, hoặc một số vấn đề kết luận chưa
đúng định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp. (2) Hệ thống pháp luật về hình
sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, tố tụng tư pháp và tổ chức hoạt động
của các cơ quan tư pháp hoàn thiện chậm, thiếu đồng bộ. Tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra chậm đổi mới. Thực
hiện chủ trương tăng cường tranh tụng tại phiên tòa trong hoạt động tố tụng
nhưng thời gian qua việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật làm rõ cách thức,
nguyên tắc, trình tự, thủ tục, nội dung và thẩm quyền của mỗi chủ thể trong hoạt
động tranh tụng chưa được thực hiện. (3) Nhận thức của các cán bộ tư pháp về chủ
trương tăng cường tranh tụng chưa nhất quán, chưa xác định đúng vị trí, vai
trò, quyền hạn, trách nhiệm của luật sư trong quá trình tố tụng; việc đào tạo,
bồi dưỡng kỹ năng tranh tụng chưa được quan tâm đúng mức. Các phiên tòa thực hiện
chủ trương tranh tụng không nhiều, chưa đúng định hướng, hiệu quả chưa cao. (4)
Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vẫn chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội; án tồn đọng, oan, sai, bị huỷ, bị cải
sửa vẫn còn, chưa được khắc phục triệt để; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án chưa thực sự minh bạch; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực
trong hoạt động tư pháp; mục tiêu bảo vệ công lý, quyền con người chưa được thực
hiện đầy đủ, đúng đắn, làm cho một bộ phận nhân dân chưa thực sự tin tưởng vào
chất lượng của hoạt động tư pháp. (5) Việc đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho
các cơ quan tư pháp còn chậm; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của các cơ quan tư pháp còn thấp so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Việc thông tin, tuyên truyền về hoạt động tư pháp và các chủ trương cải cách tư
pháp chưa được thực hiện thường xuyên. (6) Công tác giám sát của các cơ quan
dân cử chưa được tăng cường, đổi mới phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, chất
lượng, hiệu quả chưa cao; hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp và
giám sát của các tổ chức đoàn thể xã hội còn hình thức, lúng túng, chưa có hiệu
quả thiết thực. Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với một
số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị buông lỏng, thiếu kiểm tra
đôn đốc, sự phối hợp giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với nhau và với cấp
ủy địa phương chưa thực sự chặt chẽ.
Nguyên nhân của hạn chế: Nhận thức của
cán bộ, đảng viên trong một số cơ quan, tổ chức về mục đích, yêu cầu và trách
nhiệm triển khai thực hiện chiến lược cải cách tư pháp chưa thực sự đầy đủ, nhất
quán; chưa thể hiện quyết tâm cao trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cải
cách tư pháp tại cơ quan, tổ chức mình. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức,
hoạt động của các cơ quan tư pháp và việc triển khai các nhiệm vụ của Chiến lược
cải cách tư pháp chưa đầy đủ và kịp thời. Việc nghiên cứu xác định nguyên tắc tổ
chức, hoạt động, mối quan hệ phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan tư pháp với cơ
quan lập pháp và cơ quan hành pháp, giữa các cơ quan trong hệ thống tư pháp còn
chậm; nhiều vấn đề còn ý kiến khác nhau, chưa thực hiện đồng bộ và nhất quán.
Các nhiệm vụ có liên quan đến tổ chức bộ máy và công tác cán bộ chưa được quán
triệt đầy đủ, chưa tích cực triển khai thực hiện. Ngoài ra, còn có nguyên nhân
do lợi ích cục bộ, thiếu quan tâm hoặc ngại khó nên có thái độ do dự. Việc giải
quyết những vướng mắc khi thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đôi khi còn
mang tính tình thế.
II. Bài học kinh nghiệm
1. Cải cách tư pháp là một quá trình lâu dài, phức
tạp, liên quan đến các vấn đề về chính sách, pháp luật, con người, cơ sở vật chất
kỹ thuật phải có quyết tâm chính trị cao. Quá trình triển khai thực hiện cần có
sự chỉ đạo nhất quán, kiên quyết; chống tư tưởng bảo thủ, cục bộ, do dự, phân
tâm; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ
phải bám sát mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp; tiến hành đồng
bộ với cải cách bộ máy nhà nước, bảo đảm duy trì mối liên hệ mật thiết với việc
đổi mới hệ thống chính trị, cải cách lập pháp và cải cách hành chính; phải có lộ
trình hợp lý, có chương trình, kế hoạch cụ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của từng cơ quan, tổ chức.
3. Bảo đảm sự lãnh đạo thường xuyên của cấp ủy,
tổ chức đảng; sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội
và nhân dân đối với hoạt động tư pháp; xác định rõ cơ chế kiểm soát quyền lực
trong hoạt động tư pháp; thực hiện phương châm “lấy dân làm gốc”, tôn trọng các
quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân, dựa vào nhân dân trong việc thực hiện
các nhiệm vụ cải cách tư pháp.
4. Thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp trong sạch, vững mạnh, đây là yếu tố có vai trò quyết định chất lượng,
hiệu quả hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp.
III. Những yêu cầu nhằm
hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp thời gian tới
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước
thay đổi nhanh, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành
năm 2005, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các
văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI đã bổ sung, phát triển nhiều nội dung quan
trọng. Quá trình thực hiện Chiến lược có một số nhiệm vụ đã được Bộ Chính trị kết
luận cụ thể và qua tổng kết thực tiễn cho thấy có một số vấn đề cần được bổ
sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, yêu cầu cơ bản công tác
cải cách tư pháp trong thời gian tới như sau:
1. Quán triệt, vận dụng sáng tạo các chủ trương,
đường lối của Đảng nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua, hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp phải xuất phát từ lợi
ích của nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức hữu quan, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ,
giải pháp nhằm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong việc thực hiện các mục
tiêu chung; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
2. Bổ sung một số nội dung về quan điểm, phương
hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp cho phù hợp với các chủ trương, đường lối mới
được Đại hội XI của Đảng thông qua và các quy định của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể là: ngoài việc phân công phối hợp, bổ sung nội
dung “kiểm soát” giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường và
phát huy dân chủ trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; xác định tòa án nhân
dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tổ chức hệ thống tòa án nhân dân 4 cấp
theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; viện kiểm sát
nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án nhân dân...; đổi mới
mô hình tố tụng theo hướng kết hợp mô hình tố tụng thẩm vấn
và mô hình tố tụng tranh tụng. Tổ chức lại các cơ quan điều
tra theo hướng thu gọn đầu mối, bảo đảm gọn nhẹ, hiệu quả,
không để lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan, sai.
3- Điều chỉnh chủ trương "giao Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án" theo hướng: Chính
phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án, Bộ Công an giúp Chính phủ quản lý
công tác thi hành án hình sự, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý công tác thi
hành án dân sự - hành chính, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp
quản lý công tác thi hành án trong Quân đội nhân dân, đổi mới một số nội dung nhằm hoàn thiện mô hình thi hành án, khắc phục những hạn
chế, vướng mắc hiện nay. Diễn đạt lại chủ trương xã hội hóa công tác bổ trợ tư
pháp; cơ chế hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp từ ngân sách địa
phương và một số vấn đề về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của các cơ quan tư
pháp. Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong
việc triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp.
PHẦN THỨ BA
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM,
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ
PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Để có cơ sở tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ
quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương và địa phương, đẩy mạnh thực hiện Chiến
lược cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời
gian tới, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị
xem xét, quyết định việc bổ sung và diễn đạt lại một số vấn đề sau đây: [29]
I. Về mục tiêu, quan điểm,
phương hướng cải cách tư pháp
1.1. Tiếp tục quán triệt thực hiện
mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao". Mục tiêu nêu trên đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
đã được tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ
XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa XI).
1.2. Bổ sung, phát triển một số nội
dung về quan điểm cải cách tư pháp cho phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng lần
thứ XI đã thông qua, cụ thể là:
(1) Cải cách
tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính
trị, giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
(2) Cải cách
tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với ý
chí, nguyện vọng của nhân dân; góp phần xây dựng xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cán bộ tư pháp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, dũng cảm đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
(3) Cải
cách tư pháp phải bảo đảm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội; các cơ quan tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của
các cơ quan dân cử và nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với các hoạt động tư pháp.
(4) Cải cách
tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được
của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu những giá trị chung của
nhân loại phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế.
(5) Cải cách
tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với
những bước đi vững chắc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành
chính, phục vụ cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.3. Bổ sung một số nội dung về
phương hướng cải cách tư pháp trong thời gian tới cho phù hợp với yêu cầu thực
tiễn, cụ thể là:
(1) Hoàn thiện
chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp,
theo hướng kế thừa những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng, bảo đảm
tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người;
kết hợp chặt chẽ việc đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp với việc cải cách thủ
tục hành chính tư pháp phù hợp với hoạt động tư pháp.
(2) Tổ chức
hệ thống các cơ quan tư pháp,
luật sư và các chế định bổ trợ
tư pháp theo hướng hợp lý, khoa học, hiện đại, hiệu quả. Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp, có vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp và xét xử là hoạt
động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
(3) Xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, luật sư, bổ trợ tư pháp. Xác định rõ
quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ. Đề
cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng chức danh tư pháp.
Từng bước thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh tư pháp.
(4) Đổi mới
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng mô hình tổ chức đảng trong các
cơ quan tư pháp phù hợp với việc tổ chức tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân
dân 4 cấp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chất lượng đảng viên trong các cơ quan tư pháp; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của
nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
II. Về nhiệm vụ cải cách tư
pháp
Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ quy định trong Chiến lược cải cách tư pháp chưa được thực hiện triệt để; điều
chỉnh một số nhiệm vụ không còn phù hợp, hoặc chưa đủ điều kiện thực hiện; bổ
sung một số nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Cụ thể
là:
1. Hoàn thiện chính
sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự, đề cao hiệu
quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng thiện và bảo vệ quyền con người
trong việc xử lý người phạm tội. Hạn
chế hơn nữa việc áp dụng hình phạt tử hình; giảm hình phạt tù, mở rộng
áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội
phạm; khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, dân sự và ngược lại
(dân sự hoá, hành chính hoá đối với một số loại tội phạm). Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một
số loại tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội
mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ
và hội nhập quốc tế. Đồng thời rà soát loại bỏ một số hành vi tội phạm đã
quy định trong Bộ luật hình sự nay không còn là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Quy định
trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền
trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải
xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác.
Xây dựng cơ
chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần chúng trong phát
hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực phát hiện, tố cáo, người
điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen thưởng người có công trong đấu
tranh phòng chống tham nhũng. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi tham nhũng.
Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quan hệ pháp luật dân sự, thúc đẩy
các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; tiếp tục hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi
hoàn...
Phân định rõ
thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn của các chức danh tư
pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để họ chủ động và có đủ điều kiện
trong thực hiện nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Hoàn thiện pháp
luật về tạm giữ, tạm giam, hạn chế và thu hẹp các trường hợp áp dụng biện
pháp tạm giam; thu hẹp người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện
pháp tạm giam.
Xây dựng cơ chế thực hiện có hiệu quả trên thực
tế chủ trương tăng cường, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, bảo
đảm vai trò, trách nhiệm của luật sư và kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng.
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo
hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và trách nhiệm của người ra
kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật;
khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ nhưng cũng không để
người bị oan, sai mà không được xem xét, bảo vệ. Xây dựng cơ chế xét xử
theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ điều kiện.
Tiếp tục
hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu phát triển các loại hình dịch vụ
từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ
chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành
chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp
cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến toà án, toà án có trách nhiệm nhận và thụ
lý đơn. Khuyến khích giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng
tài; toà án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó. Tiếp tục mở
rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới thủ
tục giải quyết các khiếu kiện hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước
toà án.
Thực hiện việc
công khai hoá các bản án, trừ những bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc
gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục; đảm bảo quyền được giữ bí mật cá
nhân của công dân. Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án, quyết định của
toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.
2. Xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư
pháp; chế định luật sư
Tiếp tục hoàn thiện, triển khai thực hiện các đề
án về việc tổ chức hệ thống tòa án nhân dân theo cấp xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính. Tòa án nhân dân được tổ chức 4 cấp như kết luận số
79-KL/TW ngày 28-7-2010 của bộ Chính trị. Đối với tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực
và viện kiểm sát nhân dân tương ứng cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng 2 phương
án: (Phương án 1, tổ chức theo khu vực như Kết luận số 79-KL/TW; phương án
2, tổ chức tòa án nhân dân sơ thẩm đặt tại các đơn vị hành chính cấp huyện, tổ
chức thảo luận lấy ý kiến đóng góp rộng rãi báo cáo Bộ Chính trị kết luận trước
khi Quốc hội thông qua Luật tổ chức tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức viện
kiểm sát nhân dân (sửa đổi)
Nghiên cứu,
xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của toà án quân sự theo hướng chủ yếu
xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những
vụ án liên quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới việc
tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền
hạn của các chủ thể tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính dân chủ, công bằng, nghiêm minh. Nghiên cứu xác định rõ nội hàm và xây
dựng cơ chế để tòa án nhân dân thực hiện đầy đủ quyền tư pháp. Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng và hiệu
quả tranh tụng, coi đây là khâu đột phá của cải cách tư pháp.
- Viện kiểm sát nhân dân
có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tổ chức hệ
thống viện kiểm sát nhân dân thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án
nhân dân. Cụ thể là: Viện kiểm sát nhân dân khu vực (số lượng và địa hạt tư
pháp tương ứng với số lượng và địa hạt của tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực); viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; viện kiểm sát nhân dân
cấp cao (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt của tòa
án nhân dân cấp cao); Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Xác định rõ phạm vi kiểm sát hoạt động tư
pháp trong từng lĩnh vực, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát
nhân dân trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp; tách bạch rõ vai trò kiểm sát viên thực hành quyền công
tố với kiểm sát viên thực hiện công tác kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường
trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra.
Đề nghị dừng thực hiện nhiệm vụ “nghiên cứu việc chuyển viện kiểm sát thành viện công tố”.
- Cụ thể hóa nhiệm vụ tổ chức lại cơ quan điều
tra như sau: giữ nguyên hệ thống tổ chức các cơ quan điều tra chuyên trách
trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và ngành Kiểm sát nhân như hiện nay
và sắp xếp tinh gọn đầu mối trong từng cơ quan, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm,
không chồng chéo nhiệm vụ; xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động điều tra
trong tố tụng hình sự và hoạt động trinh sát; điều chỉnh thẩm quyền điều tra của
cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, cơ quan điều tra Bộ Công an chỉ điều tra những
vụ án lớn, phạm vi địa bàn phạm tội rộng, chủ yếu tập trung vào công tác hướng
dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra, tăng cường năng lực điều tra cho cơ quan điều
tra cấp tỉnh, cấp huyện. Xác định rõ cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ
hoạt động điều tra của cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát quân sự Trung ương. Giữ nguyên quyền hạn và quy
định rõ hơn nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng,
Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm. Xác định rõ nhiệm vụ
của cơ quan điều tra chuyên trách trong mối quan hệ với cơ quan được giao một số
hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều
tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến
hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp điều tra
theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách (trừ Bộ đội biên phòng, Cảnh
sát biển, Hải quan, Kiểm lâm). Giao kiểm sát viên viện kiểm sát các cấp quyền
hạn điều tra trong những trường hợp: chứng cứ buộc tội (do cơ quan điều tra
công an chuyển sang) chưa chắc chắn mà viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung
nhưng cơ quan điều tra không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ và khi kiểm
sát hoạt động tư pháp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm cần có chứng
cứ để thực hiện việc truy tố và kháng nghị.
Điều chỉnh chủ trương “chuẩn bị điều kiện về cán
bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý
công tác thi hành án” như sau: Chính phủ thống nhất quản
lý công tác thi hành án, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Bộ Công an giúp
Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án hình sự; Bộ Quốc
phòng phối hợp với Bộ Tư pháp và Bộ Công an trong việc quản lý công tác thi
hành án trong Quân đội nhân dân; tòa án nhân dân có nhiệm vụ ra quyết định thi
hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật giao cho cơ quan thi hành án
có thẩm quyền tổ chức thi hành và giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan
đến nội dung bản án, quyết định của tòa án. Xác định rõ hơn trách nhiệm, quyền
hạn của ủy ban nhân dân trong công tác thi hành án. Phân định rõ phạm vi, thẩm
quyền kiểm sát, thanh tra đối với công tác thi hành án. Tiếp tục đẩy mạnh việc
thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, tổng kết, nghiên cứu đề
xuất phương án cụ thể.
Xác
định lại vị trí luật sư, tách chế định luật sư ra khỏi chế định bổ trợ tư pháp,
cụ thể như sau: Đào tạo phát triển đội
ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên
môn; xây dựng cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại
phiên toà, tăng cường vai
trò của luật sư trong giai đoạn điều tra (cùng với việc nghiên cứu, hình thành
chế định luật sư công), từng bước đảm
bảo cho mọi công dân có nhu cầu đều được trợ giúp pháp lý và được bào chữa khi
bị xét xử về hình sự. Đề cao ý thức đạo đức nghề nghiệp của luật sư,
phát huy vai trò tự quản của các Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư. Xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư, tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của luật sư và tổ chức hành nghề luật
sư.
3- Hoàn thiện các chế định
bổ trợ tư pháp
Đổi mới
cơ chế, chính sách nhằm mở rộng đối tượng, nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý
cho người dân; hỗ trợ các đối tượng cần được trợ giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp; bảo đảm công lý, công bằng xã hội; đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt động trợ
giúp pháp lý. Hoàn thiện
chế định giám định tư pháp theo hướng quy định đầy đủ, chặt chẽ
trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn
giám định trong tất cả các lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn,
khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc. Thực hiện xã hội hóa đối
với các lĩnh vực giám định theo mức độ, phạm vi và lộ trình phù hợp. Có cơ chế,
chính sách để thu hút các nguồn lực tham gia hoạt động giám định; khuyến khích những người có năng lực chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp vào làm việc trong các tổ chức giám định tư pháp hoặc hoạt động trong
lĩnh vực giám định. Nhà nước chỉ đầu tư thực
hiện những loại việc công dân và tổ chức xã hội không làm được hoặc làm không
có hiệu quả.
Hoàn thiện chế định công chứng theo hướng tiếp
tục đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện để các tổ chức
công chứng hoạt động đúng pháp luật, bình đẳng, có hiệu quả, đáp ứng kịp thời
các yêu cầu của xã hội. Có cơ chế bảo vệ quyền lợi cho các cơ quan, tổ chức và
cá nhân có liên quan đến hoạt động công chứng. Thành
lập các tổ chức xã hội - nghề nghiệp công chứng ở các địa phương và tiến tới
thành lập Hiệp hội Công chứng toàn quốc. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối
với các tổ chức và hoạt động công chứng, giám định tư pháp và thừa phát lại.
Tiếp tục xây dựng lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính
quy, đáp ứng kịp thời cho hoạt động xét xử, thi hành án...
4- Xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh
Tiếp tục đổi
mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức
danh tư pháp, bổ trợ tư pháp. Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã
hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong
sáng, có bản lĩnh dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Triển khai thực hiện các đề án:
xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật; xây dựng Học
viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp; xây dựng Trường
Đại học Kiểm sát đào tạo cử nhân luật chuyên ngành kiểm sát; xây dựng Học viện
Toà án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức toà án các cấp.
Có cơ chế
thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ
quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan
tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư. Nghiên cứu, thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người
bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Giao cho các cơ quan chức
năng nghiên cứu đề xuất việc tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp, tăng
tuổi nghỉ hưu đối với thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đến 65 tuổi và thực hiện
chế độ bổ nhiệm một lần đến khi nghỉ hưu đối với thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao.
Xây dựng chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp
với lao động đặc thù của cán bộ tư pháp. Có chính sách ưu tiên, khuyến
khích cán bộ, công chức đến làm việc ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo và những
nơi kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và
có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh
tư pháp.
5- Hoàn thiện cơ chế
giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với
các cơ quan tư pháp
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời
chất vấn đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, hội
đồng nhân dân. Quốc hội và hội đồng nhân dân cần có nghị quyết về hoạt động
tư pháp sau khi nghe báo cáo và trả lời chất vấn về lĩnh vực này.
Tăng cường
và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp,
đặc biệt là của lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Tăng cường vai trò và trách
nhiệm của Uỷ ban Tư pháp Quốc hội, hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc
thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động tư pháp.
Phát
huy quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện cơ chế để
nhân dân, các tổ chức đoàn thể và Mặt trận tổ quốc thực hiện có hiệu quả việc
giám sát đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật ý thức sống,
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của mọi công
dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên làm tốt chức năng giám sát, động viên nhân dân phát hiện
những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ
quan tư pháp khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông
tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin chính xác, khách
quan về hoạt động tư pháp.
6- Tăng cường hợp tác
quốc tế về tư pháp
Tăng cường củng cố và tiếp tục mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với các nước. Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà
nước ta đã ký kết hoặc tham gia. Tích cực tham gia vào các hội nghị,
diễn đàn tư pháp quốc tế. Tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với
các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực,
các nước có quan hệ truyền thống, các nước có đông người Việt Nam sinh sống.
Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức INTERPOL,
ASEANPOL,... với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số
quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập. Đào tạo trình
độ ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế. Định kỳ tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm, đề ra chương trình, kế hoạch
chung trong hợp tác quốc tế về tư pháp. Đề cao tinh thần cảnh giác phòng, chống
âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
7- Bảo đảm cơ sở vật chất
cho hoạt động tư pháp
Nhà nước bảo
đảm các điều kiện phục vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ
quan tư pháp và khả năng của đất nước.
Đổi mới và
hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo
hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan tư pháp địa
phương quản lý, sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan
tư pháp trung ương. Tiếp
tục cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí phục vụ hoạt động của
các cơ quan tư pháp từ ngân sách địa
phương, coi đây là biện pháp tình thế. Đồng thời, khẩn trương điều chỉnh cơ chế
phân bổ ngân sách cho các cơ quan tư pháp do Quốc hội phê chuẩn để thuận lợi
cho việc thực hiện và kiểm tra, giám sát.
Thực hiện tốt việc quy hoạch, sắp xếp cơ sở
nhà, đất thuộc quyền quản lý của các cơ quan tư
pháp phù hợp với yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong thời gian tới. Tiếp tục đầu tư
xây dựng trụ sở làm việc của các
cơ quan tư pháp khang trang, phù hợp với yêu cầu sử dụng. Ưu tiên trang
bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công
tác xét xử, thi hành án và công tác giám định tư pháp. Nâng cấp các trại
giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ theo đề án đã được Chính phủ
phê duyệt. Tăng cường đầu tư cho việc áp dụng công nghệ thông
tin, truyền hình phục vụ hoạt động của các cơ quan tư pháp.
8. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
Tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng về công tác tư pháp; bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ đối với các cơ quan tư
pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp uỷ đảng buông lỏng
lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp; kiện toàn tổ chức
đảng phù hợp với tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo mô hình mới.
Tăng cường
công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng,
đảng viên[30]; chăm lo
công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các
cơ quan tư pháp. Lựa chọn những đồng chí cấp uỷ viên có trình độ, năng lực, uy
tín và bản lĩnh để bổ nhiệm làm viện trưởng viện kiểm sát và chánh án toà án
các cấp.
Xây dựng,
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp uỷ đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những
vụ việc quan trọng, phức tạp và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức đảng với các
cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan; cấp uỷ định kỳ nghe báo cáo và
cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp; xác định rõ trách nhiệm tập thể và
cá nhân cấp uỷ viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp.
III- Về trách nhiệm, lộ
trình tổ chức thực hiện
Đề nghị Bộ Chính trị tiếp tục quy định rõ
trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, cụ thể là:
1. Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo các cơ
quan của Quốc hội tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở
cho việc triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp. Trọng tâm là sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các luật về dân sự, hình sự, tố tụng tư pháp;
xây dựng Luật về tạm giữ, tạm giam, Luật Tổ chức điều tra hình sự và các văn bản
pháp luật về tổ chức, hoạt động của luật sư và các cơ quan bổ trợ tư pháp. Xây dựng chính sách tiền lương phù hợp với lao động
đặc thù của cán bộ, công chức các cơ quan tư pháp. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế giám sát và
quyết định các vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo đúng thẩm quyền do pháp luật quy định.
2. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo
các cơ quan của Chính phủ và các địa phương thực hiện tốt công tác bổ trợ tư
pháp, đào tạo cán bộ tư pháp; bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ các hoạt
động tư pháp và cải cách tư pháp. Nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung cơ
chế phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách phục vụ các hoạt động tư pháp phù hợp với
đặc thù của các cơ quan tư pháp, đảm bảo cho các cơ quan tư pháp thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao theo tinh thần cải cách tư pháp.
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc quy hoạch,
sắp xếp cơ sở vật chất thuộc quyền quản lý của các cơ quan tư pháp phù hợp với
yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp trong thời gian tới.
3. Các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ
quan tư pháp tiếp tục lãnh đạo đẩy nhanh việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách
tư pháp. Tích cực triển khai thực hiện tốt các giải pháp nâng cao phẩm
chất chính trị, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, trình độ, năng lực
chuyên môn; tăng cường công tác quản lý cán bộ, bảo
đảm kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động công vụ. Thường
xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc nắm tình hình kết quả thực hiện; chủ động phối
hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng
mắc hoặc báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
4. Các tỉnh uỷ, thành ủy
trực thuộc Trung ương tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo việc tuyên truyền, quán triệt
tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và ngoài xã hội đối
với các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp. Lãnh đạo các cơ quan tư pháp
và bổ trợ tư pháp tại địa phương tôn trọng các quyền, lợi ích chính đáng của
nhân dân, dựa vào nhân dân để triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; tạo
điều kiện để nhân dân và các đoàn thể tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm
và giám sát hoạt động tư pháp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích; kỷ
luật nghiêm minh những tập thể, cá nhân có sai phạm; kịp thời rút kinh nghiệm,
tìm giải pháp khắc phục những biểu hiện sai phạm, lệch lạc trong quá trình tổ
chức thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp.
5. Ban Chỉ đạo Cải cách
tư pháp Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo việc
nghiên cứu làm rõ một số vấn đề sau: Vấn đề lý luận về quyền
tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định rõ nội hàm
và xây dựng cơ chế để toà án nhân dân thực hiện đầy đủ quyền tư pháp; xây dựng
cơ chế quản lý tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất và cơ chế phân bổ ngân sách của
toà án nhân dân các cấp... Kịp thời đề xuất với Bộ Chính trị giải quyết các vấn
đề tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách
tư pháp; chủ trì phối hợp với các
cơ quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương chuẩn bị các nội dung có liên
quan đến việc đổi mới, kiện toàn tổ chức,
hoạt động các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2021 phục vụ
việc xây dựng Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; đồng thời
xây dựng chương trình, kế hoạch và xác định lộ trình thực hiện từng công
việc cụ thể; giúp Bộ Chính trị chỉ đạo, kiểm tra,
đôn đốc các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương, triển khai thực hiện
nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp; thường
xuyên tổng hợp tình hình, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
6. Từ nay đến cuối nhiệm
kỳ (2014 - 2016) cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
- Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp nhằm thể chế hóa kịp
thời các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và quy định của Hiến
pháp năm 2013 có liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp.
- Khẩn trương xây dựng hoàn thiện các đề án về
đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp; về công tác đào tạo, bồi dưỡng,
tuyển dụng, bổ nhiệm, tiền lương, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ tư pháp; về cơ chế phân bổ ngân sách, bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ
hoạt động của các cơ quan tư pháp trình các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết
định.
- Xây dựng chương
trình, kế hoạch cụ thể; xác định rõ nội dung, yêu cầu và lộ trình tổ chức triển
khai thực hiện từng nhiệm vụ; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, bảo đảm thực hiện
tốt các nhiệm vụ đã đề ra tổng kết báo cáo Bộ Chính
trị vào cuối nhiệm kỳ (2011 - 2016).
IV. Kiến nghị
Để tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chiến lược
cải cách tư pháp, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương kiến nghị Bộ Chính trị:
1- Ban hành Kết luận về việc
tổng kết 8 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, nêu rõ: Những kết quả nổi
bật, hạn chế và nguyên nhân; điều chỉnh bổ sung một số nội
dung về quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp trong thời gian tới.
Đồng thời quy định rõ trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng
trực thuộc Trung ương (Có Tờ trình và dự thảo Kết luận kèm theo).
2- Giao Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương
chủ trì, phối hợp với các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XII chỉ đạo nghiên cứu làm
rõ mộ số vấn đề sau : vấn đề lý luận về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để tòa án nhân dân thực
hiện có hiệu quả quyền tư pháp; hoàn thiện cơ chế quản lý tổ chức, cán bộ, cơ sở
vật chất; cơ chế phân bổ ngân sách của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân
dân các cấp; chuẩn bị những nội dung có liên quan đến việc đổi mới, kiện toàn tổ
chức, hoạt động các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2020
phục vụ việc xây dựng văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Nơi nhận:
- Đồng chí Trưởng ban Chỉ đạo (để báo
cáo),
- Đảng đoàn Quốc hội,
- Ban cán sự đảng Chính phủ,
- Văn phòng Trung ương Đảng,
- Văn phòng Chủ tịch nước,
- Quân ủy Trung ương,
- Đảng uỷ Công an Trung ương,
- Ban cán sự đảng: Toà án NDTC,
Viện Kiểm sát NDTC, Bộ Tư pháp,
- Đảng đoàn: Hội Luật gia Việt Nam,
Liên đoàn Luật sư Việt Nam,
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ,
- Các đ/c thành viên Ban Chỉ đạo CCTP,
- Các đ/c thành viên Ban Thư ký,
- Lưu Văn phòng Ban Chỉ đạo.
|
K/T TRƯỞNG
BAN
PHÓ TRƯỞNG BAN THƯỜNG TRỰC
Lê Thị Thu Ba
|
[1] Thông báo số 122-TB/TW, ngày 25-02-2013 của
Bộ Chính trị.
[2] Tỉnh Lai
Châu và Quảng Trị chưa thành lập Ban Chỉ đạo.
[3] Kết luận số 79-KL/TW, ngày 28-7-2010
[4] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự (năm 2009) bỏ các điều: 131, 183, 184 và 199.
[5] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự (năm 2009) đã bổ sung các điều: 164a, 164b, 170a, 181a, 181b, 181c,
182a, 182b, 191a, 226a, 226b, 230a và Điều 230b.
[6] Bộ luật tố tụng hình sự (năm 2003), Bộ luật
tố tụng dân sự (năm 2004) và sửa đổi bổ sung năm 2011, Luật tố tụng hành chính
(năm 2010) và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành
[7] Bộ trưởng
Bộ Công an đã ban hành Quyết định số 1044/QĐ-BCA(C11) ngày 5-9-2007 ban hành
quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều tra
của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp
[8] Số người bị bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình
sự năm 2011 là 92,57%; 6 tháng đầu năm 2012 là 92,58%.
[9] Năm
2002, viện kiểm sát các cấp truy tố đạt 96% so với số vụ đã kết thúc điều tra;
năm 2010 là 96,57%, năm 2011 là 96,91%, năm 2012 là 92,17%
[10] Án hình sự: kháng nghị phúc
thẩm tòa án chấp nhận đạt tỷ lệ 62 - 70%; kháng nghị giám đốc thẩm tòa án chấp
nhận đạt tỷ lệ 83%. Án dân sự: kháng nghị phúc thẩm đạt từ 80 - 82% so với
50-55% trong những năm trước; giám đốc thẩm, tái thẩm đạt tỷ lệ 90 - 96%
[11] Bộ Công an có hai hệ thống:
(1) Cơ quan Cảnh sát điều tra được tổ chức ở 3 cấp: Bộ, tỉnh và huyện; (2) Cơ
quan An ninh điều tra được tổ chức ở 2 cấp: Bộ và tỉnh; Bộ Quốc phòng có 2 hệ
thống: (1) Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội được tổ chức ở 3 cấp: Bộ,
quân khu và khu vực; (2) Cơ quan An ninh điều tra Quân đội được tổ chức theo 2
cấp: Bộ và quân khu; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự
Trung ương có cơ quan điều tra.
[12] Bộ Công an và công an cấp tỉnh
có một số Cục, Phòng Cảnh sát, An ninh, Giám thị trại giam và Trại tạm giam; Bộ
Quốc phòng có Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Giám thị trại tạm giam, Giám thị
trại giam và Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Bộ Tài
chính có lực lượng Hải quan; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có lực lượng
Kiểm lâm
[13] Từ tháng
6/2005 đến 31/5/2013, lực lượng Cảnh sát điều tra đã điều tra tổng số: 514.623
vụ, 796.004 bị can, đã kết luận điều tra đề nghị truy tố 434.892 vụ (đạt
84,50%), 746.432 bị can (đạt 93,77% ). Cơ quan An ninh điều tra toàn quốc đã khởi
tố, thụ lý điều tra 3.911 vụ án với 9.221 bị can; đã kết luận điều tra đề nghị
truy tố 3.246 vụ (đạt 83%) với 8.298 bị can (đạt 90%). Cơ quan điều tra
hình sự trong Quân đội đã khởi tố, điều tra 2.606 vụ án với 3.688 bị can, đã kết
luận điều tra đề nghị truy tố 2.213 vụ án với 3.426
bị can (chiếm tỉ lệ 85% số vụ và 93% số bị can); Từ năm 2010 - 2012, Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận 2025 tin, trong đó có 502 tin về
xâm phạm hoạt động tư pháp; đã khởi tố và thụ lý điều tra tổng số 139 vụ/180 bị
can, trong đó: Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp 75 vụ/97 bị can; Tội phạm về
tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp 64 vụ/83 bị can.
[14] Năm 2012, Bộ Công an đã tiến hành điều tra,
khảo sát tình hình người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương từ năm
2002-2012 (kể cả phạm nhân đang được tạm đình chỉ chấp hành án, phạm nhân có tiền
án đang chấp hành án tại các trại giam) kết quả sơ bộ cho thấy trong số người
chấp hành xong án phạt tù về cư trú tại địa phương có 25.64% tái phạm, trong đó
tái phạm tội chiếm 18,86%. Tổng số người chấp hành xong hình phạt tù có việc
làm chiếm 82,26%.
[15] Giai đoạn 1993-2008, tổng số
việc thụ lý là 3.424.643 việc, giải quyết xong 2.821.441 việc (chiếm tỷ lệ
82,38%). Giai đoạn 2009-2012, tổng số việc thụ lý 1.804.381 đã giải quyết xong
1.592.549 (chiếm tỷ lệ 88,2%).
[16] Tiếp nhận đơn yêu cầu đôn đốc
thi hành 381 việc hành chính, có văn bản đôn đốc: 379 việc; số việc thi hành
xong: 319; số văn bản thông báo kết quả thi hành án nhận được: 56
[17] Ban Bí thư Trung ương Đảng
đã ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 30-3-2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; Quốc hội đã thông qua Luật luật sư
năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư năm 2012. Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành.
[18] Tính đến tháng 7-2013 cả nước đã thành lập 63 Đoàn luật sư tại 63 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, bảo đảm 100% địa phương đều có đoàn luật sư.
[19] Tính đến tháng 7-2013, tổng số luật sư khoảng 8.500 người và khoảng 3.500
luật sư tập sự hành nghề đang hoạt động tại 3.165 tổ chức hành nghề luật sư.
[20] Từ năm 2009 đến nay, luật sư
đã tham gia tố tụng 99.751 vụ án các loại, trong đó có 51.109 vụ án hình sự; thực
hiện tư vấn, trợ giúp 124.608 vụ.
[21] Bước đầu đã có một tổ chức giám định về tài chính được cấp phép hoạt động
(ở thành phố Hồ Chí Minh).
[22] Tổng số tổ
chức hành nghề công chứng hiện nay là 704 đơn vị, trong đó có 140 Phòng Công chứng
và 564 Văn phòng công chứng; có 1.327 công chứng viên đang hành nghề.
[23] Từ năm 2007-2012: Trường Đại học
Luật Hà Nội đã đào tạo được 17.038 sinh viên, học viên; Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo 15.696 sinh
viên, học viên; Trường Cán bộ toà án đã bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ cho 24.963 học viên (bao gồm Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, chủ yếu
là Thẩm phán). Từ khi thành lập (năm 2004) đến cuối năm 2012, Học viện
Tư pháp đã đào tạo 25.090 học viên, trong đó có 3.957 thẩm phán, 99 thư ký toà
án, 873 kiểm sát viên, 15.993 luật sư và nhiều chức danh tư pháp khác; từ năm 2008-2012, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát đã đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát và các chức danh khác cho 10.237 học
viên
[24] Từ năm 2005-2013, Bộ tư pháp
đã cử 379 cán bộ, công chức, trong đó có 53 thạc sỹ, 26 tiến sỹ, 267 cán bộ
tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn (theo Đề án 165 và một số chương trình đào tạo
khác), 8 chuyên gia đi đào tạo và thực hành nghề luật sư tại Viện luật quốc tế
Hòa Kỳ theo Đề án đào tạo chuyên gia pháp luật, luật sư phục vụ hội nhập quốc tế
giai đoạn 2008-2010; Bộ Công an đã cử trên 400 cán bộ đi đào tạo từ bậc đại học
trở lên; Tòa án nhân dân tối cao trong các năm 2010-2012 đã cử 12 cán bộ đi đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ.
[25] Quốc hội đã ban hành Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều Luật tổ chức Quốc hội; Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội; Đề án “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội” và đề án “Tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động Quốc hội”; Nghị
quyết số 27/2012/QH13 ngày 21-6-2012 về một số cải tiến, đổi mới
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội; Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21-11-2012 quy định việc lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân
dân bầu hoặc phê chuẩn.
[26] Theo số liệu báo cáo của Ủy
ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (số liệu chưa đầy đủ),
từ năm 2005 đến nay, Ủy ban MTTQ các cấp đã phối hợp giám sát đối với cơ quan
tiến hành tố tụng 15.567 lượt; giám sát đối với người tiến hành tố tụng 254 lượt;
giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo 32.207 lượt.
[27] Tổng số vốn giao Toà án
NDTC: 2.906,956 tỷ đồng, đã triển khai thực hiện 528 dự án, trong đó: xây mới
236 trụ sở, đã hoàn thành 206 trụ sở; cải tạo mở rộng 292 trụ sở, đã hoàn thành
285 trụ sở. Tòa án quân sự được đầu tư xây dựng mới 5 trụ sở và nhiều trụ sở được
cải tạo, mở rộng. Tổng vốn đầu tư cho Viện kiểm sát NDTC: 2.096,288 tỷ đồng, đã
xây dựng mới và hoàn thành 225 trụ sở cấp huyện và cải tạo mở rộng 218 trụ sở
các cấp. Tổng số vốn giao Bộ Công an: 5.877,975 tỷ đồng, đã triển khai thực hiện 958 dự án với tổng diện tích 2.765.758m2 sàn;
Bộ Công an quản lý với tổng vốn đầu tư 4.499 tỷ đồng đạt 60,73% tổng mức đầu tư
được phê duyệt, hiện có 60 phân trại xây dựng mới, 49 trại có trạm xá được
trang bị các phương tiện kỹ thuật, 43 trại có hệ thống giám sát
an ninh. Tổng số vốn giao Bộ Tư pháp: 2.198,522 tỷ
đồng, giai đoạn 2006-2013 đầu tư xây dựng mới 7 trụ sở làm việc và đào tạo, 722
trụ sở cơ quan thi hành án và 189 kho vật chứng. Bộ Quốc phòng, tổng số
vốn giao 263,216 tỷ đồng.
[28] Có 49/63 đồng chí lãnh đạo
Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm: 47 Chánh án và 02 Phó Chánh án tham gia cấp ủy cấp
tỉnh, so với nhiệm kỳ Đại hội X tăng 16 đồng chí; 568/698 đồng chí lãnh đạo toà
án nhân dân cấp huyện gồm: 486 Chánh án và 82 Phó Chánh án tham gia cấp ủy cấp
huyện, so với nhiệm kỳ Đại hội X tăng 375 đồng chí. Có 58/63
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS cấp tỉnh là tỉnh ủy viên,
515 đồng chí Viện trưởng, 82 đồng chí Phó Viện trưởng VKS
cấp huyện là huyện ủy viên.
[29] Trong mục này, các cụm từ đề
nghị bổ sung được in nghiêng
[30] Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng về một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay